Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Phong trào kháng Pháp theo chủ nghĩa phong kiến và tư sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.12 KB, 20 trang )

Báo cáo bài tiểu luận
Môn: Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam


A. XU HƯỚNG PHONG KIẾN

Phần 1 : PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG & PHONG TRÀO BA ĐÌNH
(CHÂU)
I.

Phong trào Cần Vương

1. Nguồn gốc và ý nghĩa ra đời chiều Cần Vương

Cần vương mang nghĩa "giúp vua". Trong lịch sử Việt Nam, trước thời nhà Nguyễn từng
có những lực lượng nhân danh giúp nhà vua phát sinh như thời Lê sơ, các cánh quân
hưởng ứng lời kêu gọi của vua Lê Chiêu Tông chống lại quyền thần Mạc Đăng Dung.
Tuy nhiên phong trào này không để lại nhiều dấu ấn và khi nhắc tới Cần Vương thường
được hiểu là phong trào chống Pháp xâm lược.
Phong trào thu hút được một số các quan lại trong triều đình và văn thân. Ngoài ra, phong
trào còn thu hút đông đảo các tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Phong trào Cần
vương thực chất đã trở thành một hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên khắp cả
nước, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, kéo dài từ 1885 cho đến 1896.
2.
-

Nguyên Nhân bùng nổ phong trào Cần Vương
Thực dân Pháp xác lập ách đô hộ trên toàn Việt Nam vào năm 1884.
Dưới sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân, phe chủ chiến đã sẵn sàng hành động
Cuộc phản công của phái chủ chiến thất bại, khiến vua Hàm Nghi buộc phải chạy
đến Quàng Trị sơ tán => chiều Cần Vương lần 1 được ban ra


Chiếu Cần Vương lần 2 được ban ra tại Ấu Sơn của Hà Tĩnh vào ngày 20/9/1885
=> bùng nổ mạnh mẽ cuộc kháng chiến Cần Vương.

3. Tóm lược diễn biến

Nội dung
Lãnh đạo

Giai đoạn thứ nhất (1885 - 1888)

Giai đoạn thứ hai (1888 - 1896)

Vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, văn Văn thân, sĩ phu yêu nước.
thân, sĩ phu yêu nước.

Lực lượng Đông đảo nhân dân, có cả dân tộc Đông đảo nhân dân, có cả dân tộc
thiểu số.
thiểu số.


Địa bàn

- Rộng lớn, khắp Bắc và Trung Kì.

- Thu hẹp, quy tụ dần thành các
trung tâm lớn, chuyển trọng tâm
- Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Mai
hoạt động lên vùng trung du và
Xuân Thưởng ở Bình Định, đề đốc Tạ
miền núi.

Hiện (Thái Bình), Nguyễn Thiện
Thuật (Hưng Yên),…
- Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hùng
Lĩnh do Cao Điển và Tống Duy Tân
lãnh đạo, khởi nghĩa Hương Khê do
Phan Đình Phùng lãnh đạo,…

Kết quả

Cuối năm 1888, do sự phản bội của Năm 1896, phong trào Cần Vương
Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi chấm dứt.
rơi vào tay giặc và chịu án lưu đày
sang An-giê-ri (Bắc Phi).

Đặc điểm - Phong trào diễn ra dưới danh nghĩa - Mặc dù nhà vua đã bị bắt, phong
“Cần vương”.
trào vẫn diễn ra sôi nổi.
- Phát huy cao độ lòng yêu nước, huy - Phát huy cao độ lòng yêu nước,
động sự ủng hộ của đông đảo nhân huy động sự ủng hộ của đông đảo
dân.
nhân dân.
- Nổ ra lẻ tẻ, rời rạc, chưa tạo thành sự - Nổ ra lẻ tẻ, rời rạc, chưa tạo thành
liên kết giữa các cuộc khởi nghĩa.
sự liên kết giữa các cuộc khởi
nghĩa.
4. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra trong phong trào Cần Vương

Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhân dân ta ở khắp nơi, dưới sự lãnh đạo của các sĩ
phu văn thân yêu nước, đã sôi nổi đứng lên chống Pháp:
o

o
o
o
o
o
o

Khởi nghĩa của Nguyễn Văn Giáp ở Sơn Tây và Tây Bắc (1883-1887)
Nghĩa hội Quảng Nam của Nguyễn Duy Hiệu.
Khởi nghĩa Hương Khê (1885–1896) của Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở
Hương Khê, Hà Tĩnh.
Khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn ở Nghệ An.
Khởi nghĩa Ba Đình (1886–1887) của Đinh Công Tráng, Phạm Bành ở Nga
Sơn, Thanh Hóa.
Khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định.
Khởi nghĩa của Lê Thành Phương ở Phú Yên (1885–1887).


o
o
o
o
o
o
o
o
o
o
o


Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886–1892) của Tống Duy Tân ở Bá Thước và
Quảng Xương, Thanh Hóa.
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883–1892) của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên.
Phong trào kháng chiến ở Thái Bình – Nam Định của Tạ Hiện và Phạm
Huy Quang.
Khởi nghĩa Hưng Hóa của Nguyễn Quang Bích ở Phú Thọ và Yên Bái.
Khởi nghĩa Thanh Sơn (1885–1892) của Đốc Ngữ (Nguyễn Đức Ngữ) ở
Hòa Bình.
Khởi nghĩa của Trịnh Phong ở Khánh Hòa (1885–1886).
Khởi nghĩa của Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân ở Quảng Bình.
Khởi nghĩa của Hoàng Đình Kinh ở vùng Lạng Sơn, Bắc Giang.
Khởi nghĩa của Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân ở Quảng Ngãi.
Khởi nghĩa của Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như ở Quảng Trị.
khởi Nghĩa của Cù Hoàng Địch ở Nghệ Tĩnh

5. Nguyên nhân thất bại

+ còn mang tính địa phương, chưa có sự liên kết. Các phong trào chưa quy tụ, tập hợp
thành một khối thống nhất đủ mạnh để chống Pháp. Các lãnh tụ Cần Vương chỉ có uy tín
tại nơi họ xuất thân, tinh thần địa phương mạnh mẽ làm họ chống lại mọi sự thống nhất
phong trào trên quy mô lớn hơn.
+ ko thấy chế độ phong kiến đã lỗi thời
+ hậu cần thiếu thốn, vũ khí thô sơ chủ yếu là gậy gộc, giáo mác, các công cụ làm nông
+ sự hạn chế về lực lượng chiến thuật và tinh thần chiến đấu
+ thiếu sự tổ chức lãnh đạo thống nhất. Khi các lãnh tụ bị bắt hay chết thì quân của họ
hoặc giải tán hay đầu hàng.
+ chưa thúc đẩy động viên khai thác triệt để sự ủng hộ của nhân dân, sự mâu thuẫn về tôn
giáo và sắc tộc. Các đạo quân này không được lòng dân quê nhiều lắm bởi để có phương
tiện sống và duy trì chiến đấu, họ phải đi cướp phá dân chúng.
+ Mâu thuẫn với tôn giáo: sự tàn sát vô cớ những người Công giáo của quân Cần Vương

khiến giáo dân phải tự vệ bằng cách thông báo tin tức cho phía Pháp. Những thống kê của
người Pháp cho biết có hơn 20.000 giáo dân đã bị quân Cần Vương giết hại.
+ Mâu thuẫn sắc tộc: Chính sách sa thải các quan chức Việt và cho các dân tộc thiểu số
được quyền tự trị rộng rãi cũng làm cho các sắc dân này đứng về phía Pháp. Chính người
Thượng đã bắt Hàm Nghi, các bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đều đã cắt đường liên
lạc của quân Cần Vương với Trung Hoa làm cạn nguồn khí giới của họ. Quen thuộc rừng
núi, họ cũng giúp quân Pháp chiến tranh phản du kích đầy hiệu quả.


II.

Phong trào Ba Đình

1. Nguồn gốc cuộc khởi nghĩa Ba Đình

Khởi nghĩa Ba Đình (1886 – 1887) là một trong những cuộc khởi nghĩa lớn và tiêu biểu
nhất trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX. Thủ
lĩnh Đinh Công Tráng, Phạm Bành đã dương cao ngọn cờ tập hợp hơn 300 nghĩa binh về
mảnh đất Ba Đình như kiềng ba chân là Thượng Thọ, Mậu Thịnh, Mỹ Khê (Nga Sơn), đã
mở đầu và là đỉnh cao của phong trào yêu nước chống Pháp của cộng đồng dân tộc Việt
Nam…
2. Điểm khác biệt của khởi nghĩa Ba Đình

Căn cứ Ba Đình là nơi bảo vệ cửa ngõ miền Trung và là bàn đạp tỏa đánh địch ở
đồng bằng.
- Ba Đình nằm giữa cánh đồng chiêm trũng và hai con sông là Sông Hoạt, Sông
Chính Đại biệt lập với khu dân cư lân cận, nhất là vào mùa mưa
 Đóng quân ở Ba Đình, nghĩa quân Cần Vương có thể kiểm soát được dòng sông,
dễ dàng kéo lên Bỉm Sơn, Đồng Giao để khống chế Quốc lộ 1. Địa thế Ba Đình rất
thuận lợi cho việc xây dựng Pháo đài phòng ngự vững chắc, Phạm Bành, Đinh

Công Tráng, Hoàng Bật Đạt được phân công xây dựng và chỉ huy căn cứ Ba Đình.
-

-

-

Lúc đầu nghĩa quân Ba Đình chỉ có khoảng 300 người, nhưng sau đó được bổ
sung thêm.
Vũ khí của nghĩa quân là súng hỏa mai, súng trường, cung, nỏ, vài khẩu súng thần
công tổ chức cho 10 cơ đội, mỗi cơ đội khoảng 30 người do một hiệp quân chỉ
huy.
Lãnh đạo tối cao của căn cứ Ba Đình là Cán lý quân vụ Phạm Bành, còn người
trực tiếp chỉ huy là Đinh Công Tráng được coi là linh hồn của khởi nghĩa Ba Đình.
3. Tóm lược diễn biến

Năm 1886, nghĩa quân liên tiếp tiến công các phủ, thành, huyện lỵ, chặn đánh
các đoàn xe, các toán quân lẻ, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Ngày 12
tháng 3 năm 1886 lợi dụng phiên chợ đã tấn công Tòa Công sứ Thanh Hóa. Và
tiếp đó, nghĩa quân đã tấn công nhiều phủ thành, chặn đánh các đoàn xe, gây
cho quân Pháp nhiều thiệt hại.
Từ 18 tháng 12 năm 1886 đến 20 tháng 1 năm 1887 Đại tá Brissand thống lĩnh
76 sĩ quan và 3.500 quân vây hãm và tiến đánh căn cứ Ba Đình[1]. Quân Pháp
đã nã tới 16.000 quả đại bác trong vòng một ngày trời, biến căn cứ Ba Đình
thành biển lửa. Nghĩa quân Ba Đình đã chiến đấu trong suốt 32 ngày đêm


chống lại đối phương đông gấp 12 lần, được trang bị vũ khí tối tân hiện đại.
Trong trận chiến đấu vô cùng ác liệt này, nghĩa quân đã tỏ ra mưu trí dũng
cảm, nhưng vì hỏa lực mạnh của đối phương nên nghĩa quân Ba Đình bị

thương vong nhiều.
Để tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, nghĩa quân Ba Đình đã mở một con đường
máu vượt qua vòng vây dày đặc của quân Pháp, rút lên căn cứ Mã Cao.
Đến sáng ngày 21 tháng 1 năm 1887, quân Pháp mới chiếm được Ba Đình. Sau
đó, quân Pháp đã triệt hạ hoàn toàn cả ba làng của căn cứ Ba Đình, tiếp tục cho
quân truy kích nghĩa quân ở Mã Cao, rồi triệt hạ luôn đồn này vào 2 tháng 2
năm 1887.
Sau đó, một số đông nghĩa rút lên Thung Voi, Thung Khoai, rồi lên miền Tây
Thanh Hóa sáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước.
Kết cục, thủ lĩnh Nguyễn Khế tử trận. Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại tự
sát... Hoàng Bật Đạt sau bị bắt và bị Pháp chém đầu vì tinh thần bất khuất,
không hàng giặc. Đinh Công Tráng thì chạy về Nghệ An. Quân Pháp treo giải
cái đầu ông với giá trị tiền thưởng rất cao. Tháng 10 năm 1887, vì tham tiền
thưởng, viên lý trưởng làng Chính An [1] đã mật báo cho quân Pháp đến bắt và
sát hại Đinh Công Tráng
4. Nguyên nhân thất bại :
-

Thời gian diễn ra dài xuyên suốt 32 ngày
Tương quan lực lượng địch nhiều hơn gấp 12 lần
Vũ khí hiện đại tối tân
=> lực lượng thương vong quá lớn, bèn phải rút lui để bảo toàn lực lượng

Phần 2 : PHONG TRÀO HƯƠNG KHÊ & KHỞI NGHĨA BÃI SẬY (HÀO)

I.

Phong trào Hương Khê

a, Tổng quan

-

Sau khi vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương (tháng 7 năm 1885), ở Hà
Tĩnh và Nghệ An đã bùng nổ nhiều phong trào đấu tranh vũ trang.
Trên cơ sở các cuộc khởi nghĩa đó, sau khi được vua Hàm Nghi và đại tướng Tôn
Thất Thuyết giao trọng trách tổ chức phong trào kháng Pháp ở Hà Tĩnh (tháng


-

-

-

-

10 năm 1885), Phan Đình Phùng đã tiến hành tập hợp, phát triển thành một phong
trào có quy mô rộng lớn, dưới sự chỉ đạo thống nhất của ông.
Địa bàn hoạt động của nghĩa quân bao gồm bốn tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình; với địa bàn chính là Hương Khê (Hà Tĩnh), tồn tại suốt 10 năm
liên tục.
Theo giúp Phan Đình Phùng, có các trí thức như tiến sĩ Phan Trọng Mưu, cử nhân
Phan Quảng Cư, Ấm Ninh (Lê Ninh),...và rất nhiều chỉ huy xuất thân từ nhân dân
lao động nghèo khổ
Phương thức chiến đấu: lựa chọn lối đánh du kích với lợi thế dựa vào địa hình
hiểm trở cùng hệ thống công sự chằng chịt. Một số lối đánh như chặn đường tiếp
tế, công đồn, dụ đối phương…
Phan Đình Phùng chia 4 tỉnh thành hoạt động thành 15 quận thứ, xây dựng chiến
tuyến cố định, đại bản doanh được đặt tại ở núi Vụ Quang


b, Diễn biến cuộc khởi nghĩa Hương Khê
-

Cuộc khởi nghĩa Hương Khê có thể chia thành hai giai đoạn chính:
Giai đoạn I (1885-1888): Nghĩa quân tập trung chuẩn bị và xây dựng lực lượng
Giai đoạn II (1889-1896): Thời kì chiến đấu quyết liệt và hết mình của nghĩa quân

c, Nguyên nhân thất bại của khởi nghĩa Hương Khê:
-

-

Mặc dù là tập kết nhiều nghĩa sĩ trên 4 vùng rộng lớn, thế những cuộc khởi nghĩa
Hương Khê vẫn chưa liên kết và tập hợp được lực lượng với quy mô lớn trên toàn
quốc
Sự hạn chế vì khẩu hiệu chiến đâu, sự chênh lệch về vũ khí, đạn dược
Tương quan lực lượng quá chênh lệch giữa ta và địch

d, Ý nghĩa
-

II.

Cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã để lại nhiều bài học và kinh nghiệm sâu sắc
Có ý nghĩa lớn lao trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Khởi nghĩa Bãi Sậy

a, Tổng quan
-


Là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX của
nhân dân Việt Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn ra từ năm 1883 và


-

kéo dài đến năm 1892 mới tan rã. Bãi Sậy là một trong những trung tâm chống
Pháp lớn nhất vào cuối thế kỷ XIX.
Trong thời kỳ đầu (1883 - 1885), phong trào do Đinh Gia Quế lãnh đạo, các địa
bàn hoạt động lúc này còn giới hạn ở vùng Bãi Sậy. Từ năm 1885 trở đi, vai trò
lãnh đạo thuộc về Nguyễn Thiện Thuật.

b, Các giai đoạn chính
-

-

Giai đoạn từ 1885-1887 xây dựng căn cứ Bãi Sậy, từ đây toả ra khống chế các
tuyến giao thông Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội – Nam Định, Hà Nội – Bắc Ninh,
sông Thái Bình, sông Hồng, sông Đuống.
Nghĩa quân phiên chế thành những phân đội nhỏ 10-15 người trà trộn vào dân để
hoạt động.
Giai đoạn từ năm 1888 bước vào chiến đấu quyết liệt, di chuyển linh hoạt, đánh
thắng một số trận lớn ở các tỉnh đồng bằng.

c, Tính chất của khởi nghĩa
-

Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy là cuộc khởi nghĩa dưới ngọn cờ phong kiến

Khởi nghĩa Bãi Sậy áp dụng chiến thuật du kích, dựa vào sự ủng hộ của dân
chúng, lúc ẩn lúc hiện, đánh úp đồn trại Pháp trên đường Hà Nội – Hưng Yên –
Hải Dương, hay dựa vào địa thế sình lầy, lau sậy um tùm dễ tiến thoái của căn cứ
để chống Pháp…

d, Nguyên nhân thất bại
-

-

-

Tính chất địa phương: sự thất bại của khởi nghĩa Bãi Sậy có nguyên nhân từ sự
kháng cự chỉ có tính chất địa phương. Các phong trào chưa quy tụ, tập hợp thành
một khối thống nhất đủ mạnh để chống Pháp.
Các lãnh tụ chỉ có uy tín tại nơi họ xuất thân, tinh thần địa phương mạnh mẽ làm
họ chống lại mọi sự thống nhất phong trào trên quy mô lớn hơn. Khi các lãnh tụ bị
bắt hay chết thì quân của họ hoặc giải tán hay đầu hàng.
Vũ khí thô sơ
Tồn tại trong thời gian ngắn
Không diễn ra đồng loạt, Không có đường lối đấu tranh thống nhất

e, Ý nghĩa
-

Cuộc khởi nghĩa này đã kế tục truyền thống yêu nước, bất khuất của ông cha, cổ
vũ nhân dân ta tiếp tục đấu tranh.


-


Bên cạnh đó, khởi nghĩa Bãi Sậy cũng đã để lại nhiều lại bài học bổ ích, nhất là
phương thức hoạt động và hình thức tác chiến du kích ở một đồng bằng đất hẹp
người đông

Phần 3 : KHỞI NGHĨA YÊN THẾ & NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI CHUNG
CỦA PHONG KIẾN (DŨNG)

Khởi nghĩa Yên Thế là một cuộc đối đầu vũ trang giữa những người nông dân ly tán tại
vùng Yên Thế Thượng và sau đó là Thái Nguyên, đứng đầu là Hoàng Hoa Thám, với
quân Pháp, khi Pháp vừa kết thúc chiến tranh với Trung Quốc và bắt đầu kiểm soát toàn
bộ vùng Bắc kỳ những năm cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.
1. Nguyên nhân phát sinh:
-Cuộc khởi nghĩa Yên Thế khởi nguồn tại vùng Yên Thế Thượng. Trước khi thực dân

Pháp đặt chân đến vùng này, nơi đây đã là một vùng đất có một cư dân phức tạp, chủ
yếu là nông dân lưu tán các loại. Họ chọn nơi đây làm nơi cư trú và đã công khai
chống lại triều đình. Khi thực dân Pháp đến bình định vùng này, các toán vũ trang ở
đây có thể cũng chống lại quân Pháp như đã từng chống lại triều đình nhà
Nguyễn trước đó để bảo vệ miền đất tự do của họ.Và vì Yên Thế là bình địa của Pháp
khi chúng mở rộng chiếm đóng Bắc Kì nên họ đã nổi dậy đấu tranh để bảo vệ cuộc
sống của mình.

2. Nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa:


Do nhu cầu tự vệ của nông dân lưu tán cư trú ở đây, nhằm giữ vững vùng đất này
như là một vùng đất ngoài pháp luật, không chịu sự kiểm soát của bất kỳ chính quyền
nào.





Sự yêu nước và chống ngoại bang Pháp của nghĩa quân Yên Thế.



Yên Thế là vùng đất phía Tây Bắc Giang, diện tích rộng cây cối rậm rạp, cây cỏ
um tùm từ đấy có thể đi thông sang Tam Đảo, Thái Nguyên, Phúc Yên, Vĩnh Yên nên
rất thích hợp với lối đánh du kích, dựa vào địa thế hiểm trở và công sự dã chiến, đánh
nhanh và rút nhanh lại rất thuận tiện khi bị truy đuổi.
3. Diễn biến

Giai đoạn thứ nhất (1884 - 1892)
-

Giai đoạn này, các toán nghĩa quân còn hoạt động riêng lẻ, chưa có sự phối hợp và chỉ

-

huy thống nhất
Để cứu vãn tình thế, Đề Thám đã đứng ra tổ chức lại phong trào và trở thành thủ lĩnh
tối cao của nghĩa quân Yên Thế. Tuy gặp khó khăn, nhưng thế mạnh của quân Yên
Thế là thông thuộc địa hình và cơ động, giúp họ thoát được vòng vây của quân Pháp.

Giai đoạn thứ hai (1893-1897)
-

Trong giai đoạn này, nghĩa quân đã hai lần đình chiến với Pháp, lần thứ nhất vào
tháng 10-1894, lần thứ hai vào tháng 12-1897. Sau khi Đề Nắm hi sinh, Đề Thám đảm

nhận vai trò lãnh đạo phong trào Yên Thế. Ông đã khôi phục những toán quân còn sót
lại ở Yên Thế và các vùng xung quanh, rồi tiếp tục hoạt động. So với giai đoạn trước,
số lượng nghĩa quân tuy có giảm, nhưng địa bàn hoạt động lại mở rộng hơn.

Giai đoạn thứ ba (1898 - 1908)
-Trong suốt 11 năm đình chiến, nghĩa quân Yên Thế vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu.

Tại căn cứ Phồn Xương, nghĩa quân vừa sản xuất tự túc lương ăn, vừa tăng cường
sắm sửa vũ khí, ra sức luyện tập. Nhờ vậy, lực lượng nghĩa quân ở Phồn Xương tuy
không đông (khoảng 200 người), nhưng rất thiện chiến. Đồng thời, Đề Thám còn mở
rộng quan hệ giao tiếp với các nhà yêu nước ở Bắc và Trung Kì,


Giai đoạn thứ tư (1909- 1913)
-

Do lực lượng giảm sút, nhiều người bỏ trốn. Tuy nhiên, ngày 10-2-1913, Đề Thám bị
hai tên thủ hạ Lương Tam Kỳ giết hại tại một khu rừng cách chợ Gồ 2 km, nộp đầu
cho Pháp lấy thưởng. Sự kiện này đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của phong trào khởi
nghĩa Yên Thế.
4. Nguyên nhân thất bại



Tư tưởng lãnh đạo của Đề Thám không hợp với nhiều nghĩa quân.



Nhiều nghĩa quân đã bị trói buộc vào tình trạng tá điền không công cũng gây nên
sự rạn nứt trong nội bộ của nghĩa quân.




Nghĩa quân Yên Thế chưa lấy được lòng dân do đôi khi nghĩa quân vẫn cướp bóc,
sách nhiễu dân chúng.



Mục tiêu của cuộc khởi nghĩa chỉ là để giữ một vùng đất nhỏ độc lập với chính
quyền của Pháp, chỉ phù hợp với nông dân lưu tán cư trú ở Yên Thế, mà không cuốn
hút được các thành phần xã hội khác ở Việt Nam lúc đó.



Thiếu cộng tác với các phong trào chống Pháp khác tại Việt Nam lúc đó.
5. Đánh giá

Ưu điểm


Diễn ra trong một thời gian dài gây cho Pháp không ít tổn thất.



Thể hiện tinh thần yêu nước, quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta.



Bước đầu giải quyết được yêu cầu ruộng đất cho nông dân.




Để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho cuộc chiến đấu về sau.


Nhược điểm


Chưa có sự liên kết với các phong trào yêu nước cùng thời.



Nhiều lúc còn bị động.



Giai cấp lãnh đạo là nông dân, chưa có đường lối đúng đắn, chưa có hệ tư tưởng
lãnh đạo.



Là phong trào mang tính tự phát.



Nhược điểm của Phong trào nông dân Yên Thế phản ánh sự bế tắc của phong trào
yêu nước của VN những năm cuối thế kỉ XIX - đầu XX, đất nước lúc này rơi vào sự
khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo.

A. XU HƯỚNG ĐỊA CHỦ TƯ SẢN


Phần 1 : PHONG TRÀO ĐÔNG DU (PHÚC)
1. Bối cảnh:

Đầu thế kỷ 20, Pháp đã hầu như hoàn thành quá trình bình định Việt Nam, dẹp yên các
cuộc nổi dậy đòi độc lập trong nước. Cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Đề Thám chỉ còn hoạt
động ở diện hẹp (bị dập tắt vào năm 1913).
2. Thành lập:

Vào năm 1904, sau khi đi Nam Kỳ trở về, Phan Bội Châu và các đồng ý chí tổ chức
cuộc họp tại nhà riêng của vị Nguyễn Hàm. Đồng ý lập ra một rổ chức bí mật hoạt động
cách mạnh yêu nước có tên gọi là Duy Tân hội.


Phan Bội Châu tin rằng có thể liên kết với Nhật Bản để giúp đỡ phong trào chống
Pháp trong nước. Vì vậy đã tập hợp người tài giỏi để chuẩn bị đưa sang Nhật học hành.
Phong trào Đông Du là “đợt song ngầm” trong phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX do
Duy Tân hội khởi xướng.
3. Chuẩn bị:

Hội hành lập (1904) ghi rõ: “Chuẩn bị xuất dương cầu viện, xác định phương châm
và thủ đoạn xuất dương”. Nhiệm vụ này hết sức trọng yếu và phải tuyệt đối bí mật. Bí
mật cả hành động và đối tượng xuất dương
Tháng 02 năm 1905, Phan Bội Châu sang Nhật cùng với Tăng Bạt Hổ và Đặng Tử
Tính. Chuyến xuất ngoại này đã mở rộng tầm nhìn cho Phan Bội Châu.
Cuộc bút đàm giữa Phan Bội Châu và Lương Khải Siêu tại Nhật đã gợi cho Phan Bội
Châu nhiều ý:” Không chỉ làm cách mạng bạo động mà còn phải làm thức tỉnh lòng
yêu nước cho đồng bào, nâng cao dân trí, chấn hưng kinh tế, lập các đoàn thể nông
dân, nhà buôn, hội học sinh… làm cách mạng cần có sự đồng tình ủng hộ của phong
trào cách mạng thế giới, còn vấn đề độc lập thì chớ có lo không có cơ hội. Không nên

để cho quân Nhật vào Việt Nam mà chỉ quan hệ mặt ngoại giao; không nên cầu viện
mà nên chuẩn bị cho nhân dân sẵn sàng chờ đợi khi có cơ hội; quân Nhật đã kéo vào
Việt Nam thì không có lý do gì để đuổi họ ra được…”
Ngoài Lương Khải Siêu ra, cụ Phan còn gặp gỡ một số chính khách người Nhật khác.
Tác phẩm “Việt Nam vong quốc sử” được ra đời mấy tuần lễ sau đó. Từ nhiệm vụ
xuất dương cầu viện đã chuyển thành phong trào xuất dương sang Nhật “cầu học”. Đó là
phong trào Đông Du. Sự chuyển biến về nhận thức sâu sắc nhất của cụ Phan là cần phải
có thực lực ở chính bản thân nước mình, thì mới có cơ hội giành được độc lập.
4. Diễn biến:

Các hội viên Duy Tân ra sức tuyển chọn những thanh thiếu niên ưu tú ở cả ba miền tại
các “trung tâm tuyển chọn”.
Năm 1906, Cường Để qua Nhật, được bố trí vào học Chấn Võ học hiệu (Simbu Gakku)
cùng với Lương Ngọc Quyến. Kể từ đó cho đến năm 1908, số học sinh sang Nhật du học
lên tới khoảng 200 người, hầu hết đều vào học tại trường Đồng Văn thư viện (Dobun
Shoin), sinh hoạt chung trong một tổ chức có quy củ gọi là Cống hiến hội...
Học sinh Việt Nam du học ở Nhật Bản trong phong trào Đông Du 1905 – 1908 được
bố trí biên chế vào các ban ngành chuyên môn, văn hóa, kỹ thuật, khoa học… để học có
một vốn hiểu biết cơ bản về các mặt mà cách mạng yêu cầu, nhất là về quân sự


Kết quả học tập đến năm 1908, đã có ba người tốt nghiệp trường quân sự Chấn Võ học
hiệu (Simbu Gakku). Một số khác đã xong bậc tiểu học vào học trường Trung học Thành
Thành (Seijo) nhiều du học sinh đọc được sách chữ Nhật, nói được tiếng Anh…
5. Bước ngoặt:

Tháng 3 năm 1908, các phụ huynh của du học sinh ở Nam Kỳ lại gửi thư công khai
theo đường bưu điện cho Phan Bội Châu nhắn là cử người về nhận tiền quyên góp. Hay
tin, thực dân Pháp bèn bố trí người và bắt được Hoàng Quang Thành và Đặng Bỉnh
Thành cùng với mọi giấy tờ, khi tàu vừa cặp bến Sài Gòn. Lập tức, các phụ huynh bị

buộc phải gọi các con em đang du học tại Nhật về, các hội buôn có díu líu đến phong trào
bị khám xét và những người có liên quan đều bị bắt bớ...
Tháng 5 năm đó, lại xảy ra vụ Hà thành đầu độc khiến chính quyền thực dân càng ra
sức đàn áp các phong trào và tổ chức cách mạng Việt Nam.
Mặt khác ở chính quốc, Chính phủ Pháp tìm cách giàn xếp với Chính phủ Nhật, đi
đến một hiệp ước cho Nhật vào Đông Dương buôn bán, còn phía Nhật Bản thì phải trục
xuất các nhà yêu nước và du học sinh đang trú trên đất Nhật. Vì vậy, mà tại các trường
Đồng Văn thư viện, Trung học Thành Thành, Chấn Võ học hiệu… cảnh sát Nhật vào bắt
học sinh Việt Nam ra khỏi lớp, đồng thời niêm phong cư xá nội trú “Bính Ngọ hiên”.
Năm 1909, Kỳ Ngoại hầu và cụ Phan Bội Châu bị chúng ra lệnh trục xuất. Phong trào
Đông Du tan rã, kết thúc một giai đoạn “vàng son” của Duy Tân hội.
6. Ý nghĩa

Mặc dù chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng phong trào Đông du được coi
là một trong những phong trào yêu nước mạnh mẽ nhất của nhân dân Việt Nam đầu thế
kỷ 20 và đặc biệt nhiều thanh niên du học của trào lưu này đã trở thành những hạt nhân
của các phong trào cách mạng tiếp theo trong công cuộc giải phóng dân tộc.
7. Bài học rút ra:

Chủ trương bạo động tập hợp nhân dân đứng lên đấu tranh để giành lấy độc lập tự do
của các vị lãnh đạo là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên tư tưởng nhờ sự trợ giúp của tư bản
là sai lầm. Bởi bản chất chúng chuyên đi xâm lược các nước khác, có thể vì quyền lợi mà
phản bội lại ta, không thể đặt niềm tin vào chúngđể giải phóng dân tộc
8. Tham khảo:

/>

/> />Phan Bội Châu toàn tập (Tập 6). Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1990

Phần 2 : PHONG TRÀO DUY TÂN (HÙNG)

Cuộc vận động Duy Tân, hay Phong trào Duy Tân, hay Phong trào Duy Tân ở Trung
Kỳ đều là tên gọi một cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt Nam, do Phan Châu
Trinh (1872 - 1926) phát động năm 1906 cho đến năm 1908 thì kết thúc sau khi bị thực
dân Pháp đàn áp.
Phong trào Duy Tân chủ trương bất bạo động, khôi phục đất nước bằng con đường nâng
cao dân trí, cải tổ xã hội về mọi mặt, trong đó có kinh tế, giáo dục và văn hoá, với các
hoạt động thực tiễn như là mở mang kinh tế, lập các nhà buôn lớn để tự lực, mở trường
dạy học hiện đại: dạy quốc ngữ, bỏ lối học khoa bảng từ chương, thêm khoa học và ngoại
ngữ cũng như hướng đến nền chính trị dân chủ.[3]
Giới thiệu sơ lược
Sau khi phong trào Cần vương và phong trào Văn thân thất bại, nhiều cuộc đấu tranh
chống thực dân Pháp ở Việt Nam lại tiếp tục nổ ra, nhưng theo hướng mới. Trong số đó,
theo đường lối duy tân (theo cái mới), nổi bật có Duy Tân hội cùng phong trào Đông
Du (1905-1909) do Phan Bội Châu đề xướng và Phong trào Duy Tân do Phan Châu
Trinh phát động tại miền Trung Việt Nam.
Tinh thần duy tân được coi như bắt đầu từ những bản điều trần của Phạm Phú Thứ (18211882), Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) và Nguyễn Lộ Trạch (1852-1895) với văn bản
"Thiên hạ đại thế luận" (1892).
Để cứu nước, Phan Bội Châu chủ trương dựa theo mô hình Nhật Bản để xây dựng lực
lượng. Vì vậy, ông đã lập ra Hội Duy Tân (1904) với mục đích là lập ra một nước Việt
Nam độc lập. Trong quá trình hoạt động của hội, năm 1905, Phan Bội Châu phát
động phong trào Đông Du.
Khoảng thời gian ấy, sau khi tiếp thu tư tưởng canh tân, Phan Châu Trinh từ quan (1904),
rồi làm cuộc Nam du, Bắc du với mục đích xem xét dân tình, sĩ khí và tìm bạn đồng chí
hướng. Sau đó, ông bí mật sang Quảng Đông (Trung Quốc) gặp Phan Bội Châu, trao đổi
ý kiến rồi cùng sang Nhật Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại đây (trong số đó
có Lương Khải Siêu) và xem xét công cuộc duy tân của xứ sở này. Ông hoan nghênh việc
Phan Bội Châu đưa thanh niên ra nước ngoài học tập, phổ biến tài liệu tuyên truyền giáo


dục trong nước, nhưng ông phản đối chủ trương duy trì nền quân chủ, phương pháp bạo

động vũ trang và việc mưu cầu ngoại viện. Bởi theo ông, muốn cứu được nước nhà, phải
đi theo con đường dân chủ và cải cách xã hội, bằng việc nâng cao dân trí và dân
quyền rồi mới có thể mưu tính được việc khác.
Phong trào Duy Tân còn được gọi là Minh xã (Hội ngoài ánh sáng), vì hoạt động công
khai, theo đường lối dân chủ, chủ trương "ỷ Pháp tự cường" (dựa vào Pháp để giàu
mạnh). Còn Duy Tân hội do Phan Bội Châu sáng lập còn được gọi là Ám xã (Hội trong
bóng tối), vì hoạt động bí mật, theo đường lối quân chủ, chủ trương "bài Pháp giành độc
lập".
Tuy nhiên, hai khuynh hướng này song song tồn tại và không đối lập nhau một cách tuyệt
đối, mà là đan xen nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển và phần lớn trí thức nho
học ủng hộ cả hai phong trào.
Chủ trương và hoạt động
Năm 1906, Phan Châu Trinh ra Bắc, liên lạc với Lương Văn Can và các thân sĩ Bắc Hà
để lập cơ sở Duy tân ở Bắc (sau đó gần một năm, trường Đông Kinh Nghĩa Thục được
thành lập). Ông cũng tìm gặp Đề Thám, sang Quảng Châu gặp Phan Bội Châu rồi cùng
sang Nhật quan sát tình hình chính trị và dân trí nước Nhật, khi bàn luận và biết là không
cùng chí hướng với Phan Bội Châu, ông về nước, xúc tiến con đường Duy Tân.
Mùa hè năm 1906, Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên là gửi một bức thư chữ
Hán cho toàn quyền Jean Beau vạch trần chế độ phong kiến thối nát, yêu cầu nhà cầm
quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai trị để
giúp nhân dân Việt từng bước tiến lên văn minh.
Liền theo đó, với phương châm "tự lực khai hóa" và tư tưởng dân quyền, Phan Châu
Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân
cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là: Khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh.


Khai dân trí:

Là bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học

thực dụng, bài trừ hủ tục và thói xa hoa...


Chấn dân khí:

Làm cho mọi người thức tỉnh tinh thần tự cường, hiểu được quyền lợi của mình, dám tố
cáo sự hà hiếp bóc lột của quan lại và sự nhũng lạm của cường hào...


Hậu dân sinh:

Khuyến khích dân học nghề nghiệp, khai hoang làm vườn, lập hội buôn và sản xuất hàng
nội hóa...[8]


Ngoài ra, Phan Châu Trinh còn viết bài Tỉnh quốc hồn ca để kêu gọi mọi người hăng hái
duy tân theo hướng dân chủ tư sản.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đã bộc lộ hai khuynh hướng. Một số sĩ phu như
Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng chủ trương cải cách ôn hòa, nghị viện. Họ vận
động mở trường dạy học, cải đổi phong tục tập quán và lối sống, khuyến khích mở mang
công thương. Một số khác như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên thì thiên về khuynh
hướng bạo động...
Sau đây là một số hoạt động nổi bật theo khuynh hướng ôn hòa:


Về lĩnh vực kinh tế:

Thông qua việc mua bán để tập hợp nhau lại. Tiền kiếm được dùng để mở trường, nuôi
thầy, cấp phát sách vở cho học sinh. Vì vậy, việc mua bán này còn được gọi là Quốc
thương.

Đáng kể ở Quảng Nam có Hợp thương diên phong của cử nhân Phan Thúc Duyên, hiệu
buôn của bang tá Nguyễn Toản. Ở Phan Thiết, có Công ty Liên Thành của Nguyễn Trọng
Lội (con danh sĩ Nguyễn Thông). Ở Nghệ An, có Triêu Dương thương quán do Đặng
Nguyên Cẩn và Ngô Đức Kế thành lập...


Về lĩnh vực giáo dục:

Mở trường dạy học để mở mang dân trí. Các môn học được giảng dạy ở nhiều trường
là: Quốc ngữ, toán, cách trí (khoa học thường thức), sử Việt, địa lý, thể dục...Có nơi, còn
dạy thêm tiếng Pháp, chữ Hán và võ Việt. Ngoài ra, nhà trường còn là nơi tuyên truyền
mở rộng công, thương nghiệp, đẩy mạnh sản xuất, phê phán quan lại, đả phá tập tục lạc
hậu, thực hiện đời sống mới...
Đáng kể ở Quảng Nam có trường Diên Phong do Trần Quý Cáp tổ chức, trường Phú
Lâm (có một lớp dành riêng cho nữ sinh), trường do Lê Cơ (anh em họ với Phan Châu
Trinh) thành lập. Ở Quảng Ngãi, có trường do cử nhân Nguyễn Đình Quảng thành lập tại
làng Sung Tích (Sơn Tịnh). Ở Phan Thiết, ngoài Công ty Liên Thành, Nguyễn Trọng Lội
còn lập trường tư thục Dục Thanh (1907) rồi giao cho em ruột là Nguyễn Quý Anh làm
quản đốc. Ở Bình Thuận, một thư xã (nhà giảng sách) được thành lập (1905) tại đình Phú
Tài. Ở Thanh Hóa có Hạc thành thư xã, v.v...
Theo Trung Kỳ dân biến tụng oan thỉ mạt ký do Phan Chu Trinh viết, thì "trong
năm 1906, 40 trường dân lập kiểu mới đã được mở ra ở Quảng Nam"..Trường Đông Kinh
Nghĩa Thục thành lập tại Hà Nội tháng 3 năm 1907 cũng là nhờ công xúc tiến của ông.
Cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt Nam diễn ra trên nhiều lĩnh vực (nổi bật là hai
lĩnh vực vừa nêu trên), được sự hưởng ứng đông đảo của giới sĩ phu và dân chúng, nên
ngày càng phát triển mạnh. Bởi vậy, chính quyền thực dân và phong kiến tìm mọi cách
ngăn cấm. Như việc tổng đốc Quảng Nam là Hồ Đắc Trung cấm không cho dân chúng tụ
tập nghe diễn thuyết, Đặng Nguyên Cẩn đang là đốc học Hà Tĩnh bị đổi vào Bình



Thuận (đầu năm 1907), Ngô Đức Kế bị bắt vì án sát Cao Ngọc Lễ vu cho tội mưu
loạn, Lê Đình Cẩn bị công sứ Quảng Ngãi xét hỏi nhiều lần...
Bị đàn áp và giải tán
Đến năm 1908, nhân dân Trung Kỳ đang điêu đứng vì nạn sưu thuế, đã đứng lên làm
cuộc đấu tranh "chống đi phu, đòi giảm sưu thuế" (sử Việt thường gọi là Phong trào
chống sưu thuế Trung Kỳ). Khởi đầu là ở các huyện Đại Lộc, Thăng Bình, Tam Kỳ, Hòa
Vang, Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam; rồi lan ra các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Thừa Thiên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh...
Khi nổ ra phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ, do các lãnh đạo chủ chốt của phong trào
kháng thuế cũng đồng thời tham gia phong trào Duy Tân và do lo sợ phong trào Duy Tân
ảnh hưởng xấu đến nền cai trị nên chính quyền thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn
thẳng tay đàn áp. Họ ra lệnh phải đóng cửa các trường học, giải tán các hội buôn. Đồng
thời cho lính đi lùng sục bắt bớ hàng trăm người có liên quan, trong đó các thành viên
lãnh đạo phong trào Duy Tân. Một số người có liên quan đến phong trào chống sưu thuế
Trung Kỳ bị chính quyền nhà Nguyễn tại các tỉnh kết án tử hình, như Trần Quý Cáp, Lê
Khiết, Nguyễn Bá Loan... Những người khác chỉ tham gia phong trào Duy Tân bị đày
đi Côn Đảo (trong số đó có Phan Châu Trinh[, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Cao Vân, Ngô
Đức Kế...) hay Lao Bảo. Đến cuối tháng 5 năm 1908, cuộc đấu tranh chống sưu thuế và
phong trào Duy Tân đều kết thúc.
Mặc dù thất bại, nhưng nhìn chung, cuộc vận động Duy Tân ở Trung Kỳ đã khẳng định
sức thu hút mạnh mẽ của tư tưởng duy tân, có ảnh hưởng lớn đến trình độ giác ngộ và
tinh thần đấu tranh của nhân dân đòi cải cách đời sống về mọi mặt. Bên cạnh đó, qua
phong trào còn cho thấy vai trò lãnh đạo của những sĩ phu tiến bộ
Nguyên nhân thất bại của phong trào
Triều đình nhà Nguyễn bảo thủ
Nguồn nhân lực và tài chính bị cạn kiệt do chiến tranh
Chưa giải quyết được mẫu thuẫn giữa triều đình phong kiến và nhân đân, mâu thuẫn giữa
nhân dân bấy giờ và thực dân Pháp
Các đề nghị của những sĩ quan yêu nước không đồng loạt
Triều đình phụ thuộc quá nhiều vào thực dân Pháp nên không dám thực hiện đề nghị cải

cách
=> Những cải cách Duy Tân không được thực hiện

Phần 3 : PHONG TRÀO YÊN BÁI & TỔNG KẾT NGUYÊN NHÂN VÀ TOÀN
BỘ (KỲ)


1. Diễn biến
+ Sau những tổn thất nặng nề do chính quyền thực dân gây ra, một số lãnh tụ của Việt
Nam Quốc dân Đảng chủ trương phản công bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, chứ
không thể ngồi khoanh tay chờ bị tiêu diệt.
+ Việt Nam Quốc dân Đảng quyết định tiến hành cuộc Tổng Khởi Nghĩa đồng loạt ở một
số tỉnh Bắc Kỳ vào đêm 10 tháng 2 năm 1930, bao gồm các tỉnh: Yên Bái, Sơn Tây,
Hưng Hoá, Lâm Thao, Phả Lại, Hải Dương, Hải Phòng và Hà Nội.
+ Mục đích: nhằm đánh chiếm một số tỉnh và thành phố trọng yếu của miền Bắc Việt
Nam, lật đổ chính quyền thuộc địa của Pháp để xây dựng một nước Việt Nam theo
chính thể cộng hoà.
+ Được chủ trương như một cuộc bạo động cách mạng, cuộc khởi nghĩa tập trung tấn
công tiêu diệt những tên chỉ huy tại nhà riêng, đánh bom các sơ chỉ huy, bốt cảnh sát ...
+ Lực lượng chủ yếu là binh lính, cụ thể là lính khố đỏ và lính khố xanh, cùng chi bộ lính
tại các tỉnh, đều là lực lượng quân đội bản xứ người Việt do Pháp xây dựng và tổ chức.
+ Ban đầu nghĩa quân đánh chiếm được một số căn cứ của địch, nhưng sau đó bị đàn áp
và phản công rất mạnh, dẫn đến khởi nghĩa tan rã.
2. Nguyên nhân thất bại:
- Về lãnh đạo
+ Tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng không có một cương lĩnh chính trị rõ ràng. Mặc dù
trong tư tưởng, các lãnh tụ của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng chịu ảnh hưởng nhiều
chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn nhưng điều đó không được xác định rõ trong
chính cương của Đảng.
+ Việt Nam Quốc dân đảng không chú ý tới công tác tuyên truyền, huấn luyện, giáo dục

đảng viên và quần chúng.
- Về lực lượng
+ Không xác định được lực lượng chủ yếu của cách mạng là đại bộ phận quần chúng
nhân dân. Với chủ trương bạo động, theo các lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân đảng thì
phải là binh lính và súng đạn.
+ Lực lượng còn ít và không có tinh thần, khí thế chống giặc mạnh mẽ
- Về phương châm hành động
+ Chủ yếu là ám sát cá nhân.
+ Chương trình hành động khi mới thành lập nêu rõ ba thời kỳ cách mạng trước khi khởi
nghĩa là thời kỳ phôi thai, thời kỳ dự bị, thời kỳ khởi nghĩa. Nhưng trong thực tế, các
lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân đảng đã nôn nóng, vội vàng, đốt cháy giai đoạn. Khi
quyết định cuộc khởi nghĩa, Việt Nam Quốc dân đảng vẫn chưa vượt qua thời kỳ thứ
nhất.
Kết luận: Không chú trọng công tác tuyên truyền, huấn luyện, giáo dục đảng viên tạo ra
sự mất phương hướng trong chỉ đạo chiến lược và hành động; nôn nóng, muốn đốt cháy
giai đoạn do chính chương trình hành động đề ra; không xác định lực lượng chủ yếu của
cách mạng là quần chúng nhân nhân; không tạo được phong trào cách mạng cùng sự


vùng dậy của cuộc khởi nghĩa trong tình thế bị động, lực lượng không đủ để tạo thế và
lực cho cách mạng. Sự thất bại của cuộc Khởi nghĩa Yên Bái là không thể tránh khỏi.
NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI CHUNG CỦA KHUYNH HƯỚNG DÂN CHỦ TƯ SẢN
 NGUYÊN NHÂN KHÁCH QUAN
• Thời gian này, lực lượng của thực dân Pháp đang rất mạnh, đang củng cố
nền thống trị ở Đông Dương. Tương quan lực lượng bất lợi cho ta, chưa
xuất hiện được thời cơ Cách mạng
• Tư tưởng dân chủ tư sản còn mới mẻ, chưa đủ khả năng giúp nhân dân Việt
Nam thoát khỏi kiếp nô lệ.
 NGUYÊN NHÂN CHỦ QUAN
• Giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ về kinh tế, yếu về chính trị. Tiểu tư sản

do đời ống bấp bênh nên chỉ bồng bột hăng hái nhất thời,mang tính chất cải
lương.
• Giai cấp tư sản Việt Nam còn thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và
một phương pháp cách mạng khoa học
• Tổ chức chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam, tiêu biểu là Việt Nam Quốc
Dân Đảng, rất lỏng lẻo, thiếu cơ sở quần chúng, nên không đủ sức chống đỡ
trước sự tiến công của thực dân Pháp
• Chưa tập hợp được quần chúng, phát huy tối đa đại đoàn kết dân tộc
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />
option=com_content&task=view&id=245&Itemid=33&fbclid=IwAR2x
nV9LK4OWT1OX3Fpofi9Wb5h_OzDwZ04bH3BRKc6SV2IOw6ujEd
0JBXU
2. />_tu_Cuoc_khoi_nghia_Yen_Bai.aspx?
fbclid=IwAR0x0AvjYG77Kntdt95SrLUx5b6YKeZ3bVBqVwhGyHTf256ryuu6q2KO0Q



×