Đề bài : Thông qua nội dung pháp lý cùa Khu vục thương mại tự do
ASEAN, chứng minh rằng. Các quy định trong ATIGA về thực hiện tự do
hóa thuơng mại hàng hóa chi tiết, linh hoạt, cụ thể hơn so với Hiệp dịnh
CEPT
BÀI LÀM
Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) được ký kết ngày
26/02/2009 chính thức có hiệu lực từ ngày 17/5/2010 khi Thái Lan, nước thành
viên cuối cùng của ASEAN nộp văn kiện phê chuẩn Hiệp định ATIGA cho ban
Thư ký ASEAN. Như vậy, toàn bộ các nước thành viên ASEAN đã hoàn thành
thủ tục phê chuẩn Hiệp định ATIGA.
ATIGA điều chỉnh toàn bộ thương mại hàng hóa trong nội khối và được xây
dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết đã được thống nhất trong CEPT/AFTA
cùng các hiệp định, nghị định thư có liên quan. Nguyên tắc xây dựng cam kết
trong ATIGA là các nước ASEAN phải dành cho nhau mức ưu đãi tương đương
hoặc thuận lợi hơn mức ưu đãi dành cho các nước đối tác trong các Thỏa thuận
thương mại tự do (FTA) mà ASEAN là một bên của thỏa thuận.
– Hiệp định bao gồm các mục tiêu chính như:
+ Xóa bỏ hàng rào thuế quan:
Đối với hiệp định AFIGA, năm 2015, cơ bản các mặt hàng được xóa bỏ thuế
quan trong khuôn khổ này và 7% tổng số dòng thuế được linh hoạt đến năm
2018. Tuy nhiên chính sách mở cửa và quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế về thương mại hàng hóa cũng gây ra không ít những thách thức gay gắt cho
doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế Việt Nam nói chung. Từ năm 2007
đến nay, tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới biến đổi nhanh với những diễn
biến phức tạp. Trong thời gian qua, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại
1
những kết quả tích cực, tác động sâu săc đến nền kinh tế, xã hội, tạo ra những cơ
hội to lớn cho việc thu hút đầu tư nước ngoài và hoạt động xuất khẩu, từ đó thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo thêm việc làm.
+ Xử lý tối đa các hàng rào phi thuế quan, hợp tác hải quan và vệ sinh, kiểm
dịch…: Nhằm tiến tới tự do hóa hoàn toàn về thuế quan, ASEAN đã thống nhất
sẽ xóa bỏ toàn bộ thuế quan, đối với ASEAN 6 (gồm Bru-nei, In-đô-nê-si-a, Malai-si-a, Philipine, Sin-ga-po và Thái Lan) vào năm 2010 và với các nước CLMV
(Cam-pu-chia, Lào, My-an-ma, Việt Nam) vào năm 2015 với một số linh hoạt
đến 2018 (khoảng 7% tổng số dòng thuế). Ngoài ra, một số mặt hàng nông
nghiệp nhạy cảm của Việt Nam như mía đường… được phép duy trì mức thuế
suất 5% sau giai đoạn 2018.
+ Xác lập mục tiêu hài hòa chính sách giữa các thành viên ASEAN trong bối
cảnh xây dựng AEC.
ATIGA là hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ thương
mại hàng hóa trong nội khối và được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết
đã được thống nhất trong CEPT/AFTA cùng các hiệp định, nghị định thư có liên
quan. Nguyên tắc xây dựng cam kết trong ATIGA là các nước ASEAN phải
dành cho nhau mức ưu đãi tương đương hoặc thuận lợi hơn mức ưu đãi dành
cho các nước đối tác trong các Thỏa thuận thương mại tự do (FTA) mà ASEAN
là một bên của thỏa thuận.
Về cơ sở dữ liệu thương mại ASEAN, nhằm minh bạch hoá các chính sách liên
quan đến thương mại hàng hoá, Điều 13 quy định các thông tin thuộc cơ sở dữ
liệu thương mại như các quy định, thủ tục hải quan, thủ tục hành chính, biểu
thuế, quy tắc xuất xứ, các biện pháp phi thuế quan, danh sách thương nhân hợp
pháp trong ASEAN… phải được công bố trên trang web của ASEAN. Điều này
quy định Ban thư ký ASEAN là cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng và cập nhật
các cơ sở dữ liệu đó.
2
Về tự do hoá thuế quan, ngoài những quy định kế thừa về lộ trình cắt giảm thuế
quan theo Hiệp định CEPT/AFTA và các Nghị định thư sửa đổi bổ sung (các
nước ASEAN 6 gồm Brunei, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore, Thái
lan sẽ xoá bỏ hoàn toàn thuế quan vào năm 2010, các nước CLMV vào năm
2015 với một số linh hoạt đến năm 2018), ATIGA quy định cụ thể hơn dòng thuế
được linh hoạt lùi thời hạn xoá bỏ đến năm 2018 đối với các nước CLMV là 7%
số dòng thuế thuộc danh mục cắt giảm và các nước này cũng được lùi thời hạn
công bố lộ trình xoá bỏ thuế quan tổng thể thêm 6 tháng kể từ khi Hiệp định có
hiệu lực.
ATIGA quy định trong trường hợp gặp khó khăn đột xuất hay đặc biệt các nước
thành viên có quyền điều chỉnh hoặc ngừng cam kết thực hiện nghĩa vụ cắt
giảm, xoá bỏ thuế quan tại Điều 19. Các nước thành viên khác có quyền yêu cầu
tham vấn hay đàm phán với nước có điều chỉnh hay tạm ngừng cam kết thực
hiện nghĩa vụ, tuy nhiên yêu cầu đền bù chỉ được đặt ra với các nước có quyền
lợi cung cấp đáng kể (là nước đạt mức xuất khẩu bình quân trong ba năm bằng
20% tổng nhập khẩu mặt hàng liên quan từ ASEAN vào thị trường nước yêu cầu
điều chỉnh hay tạm ngừng cam kết thực hiện nghĩa vụ cắt giảm, xoá bỏ thuế
quan) và nếu yêu cầu đền bù trong trường hợp này không được đáp ứng thì nước
có quyền lợi cung cấp đáng kể được quyền áp dụng biện pháp trả đũa ở mức độ
tương đương thông qua ngừng hoặc điều chỉnh ưu đãi đối với nước đó. Quy định
về nghĩa vụ hồi tố được tiếp tục kế thừa Hiệp định CEPT/AFTA, theo đó mỗi
thành viên có nghĩa vụ ban hành văn bản pháp lý thực hiện lộ trình cắt giảm thuế
quan từ ngày 01/01 hằng năm, trong trường hợp ban hành văn bản muộn hơn
ngày 01/01 thì nước đó mặc nhiên phải chấp nhận áp dụng hồi tố từ ngày 01/01,
quy định này nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ một cách công bằng mà không
vì lý do khách quan hay chủ quan nào khác.
Về quy tắc xuất xứ, ATIGA kế thừa toàn bộ Bộ quy tắc xuất xứ đã được sửa đổi
và quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận xuất xứ của Hiệp định CEPT/AFTA,
3
ngoài tiêu chí xuất xứ thuần tuý, cộng gộp với 40% hàm lượng khu vực đã được
quy định như trước đây, các quy định về chuyển đổi mã số thuế, quy tắc xuất xứ
cụ thể (PSR) được quy định linh hoạt hơn nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc
cam kết nội khối phải tương đương hoặc thuận lợi hơn so với cam kết dành cho
các nước đối tác trong các khu vực mậu dịch tự do ASEAN cộng. ATIGA cũng
quy định về việc thành lập Tiểu ban về Quy tắc xuất xứ chịu trách nhiệm đám
phán và giám sát việc thực thi các cam kết về Quy tắc xuất xứ trong ATIGA.
Về các biện pháp phi thuế quan, được quy định tại Chương 4, theo đó các nước
còn áp dụng hạn ngạch thuế quan sẽ dỡ bỏ TRQ (hạn ngạch thuế quan) theo ba
gói thống nhất với Chương trình làm việc về xoá bỏ hàng rào phi thuế quan. Các
nước thành viên ASEAN sẽ xoá bỏ hàng rào phi thuế quan theo ba gói với thời
gian quy định cụ thể tại Điều 42 của Hiệp định: Brunei, Indonesia, Malaysia,
Singapore, Thái lan sẽ xoá bỏ lần lượt vào các năm 2008, 2009 và 2010;
Philippines xoá bỏ lần lượt vào các năm 2010, 2011, 2012; các nước CLMV xoá
bỏ lần lượt vào các năm 2013, 2014, 2015, có linh hoạt tới năm 2018.
Về quy định thể chế, kế thừa quy định của Hiệp định CEPT/AFTA, ATIGA quy
định Hội đồng AFTA là cơ quan giám sát thực hiện Hiệp định.Thành viên của
Hội đồng AFTA gồm cấp Bộ trưởng của quốc gia thành viên và Tổng thư ký
ASEAN. Điều 10 cũng quy định Hội nghị các quan chức kinh tế cấp cao
ASEAN (SEOM) giúp việc cho Hội đồng AFTA thông qua Uỷ ban điều phối
thực hiện Hiệp định ATIGA và các cơ quan chuyên trách khác. Ở mỗi nước
thành viên thành lập một cơ quan AFTA quốc gia làm đầu mối giám sát các vấn
đề trong quá trình thực hiện Hiệp định.
Với mục tiêu xóa bỏ các rào cản để tạo điều kiện thuận lợi về lưu chuyển hàng
hóa trong nội khối ASEAN, các nước ASEAN đã thống nhất tạo ra một hành
lang pháp lý cao nhất trong tự do hóa thuế quan trong khu vực, giúp cho các
doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài khu vực có thể phát triển kinh doanh một
cách tốt nhất với nhiều nguồn nguyên liệu phong phú và giá rẻ hơn, nguồn thiết
4
bị máy móc chất lượng tốt hơnHiệp định ATIGA là thành tựu to lớn, góp phần
thiết lập thị trường và cơ sở sản xuất đồng nhất để xây dựng AEC vào năm 2015
cũng như góp phần thúc đẩy thương mại nội khối thông qua việc đơn giản hóa
các thủ tục, giảm bớt thời gian và chi phí kinh doanh, từ đó làm tăng lợi nhuận
cho khối doanh nghiệp và đông đảo người tiêu dùng. Tuy nhiên việc gỡ bỏ hàng
rào thuế quan càng đến gần, tính chất tự do hóa kinh doanh, thị trường sẽ đậm
nét hơn, hàng rào kỹ thuật càng trở nên đa dạng, phức tạp hơn đối với các doanh
nghiệp và hàng xuất khẩu. Chính vì vậy, các doanh nghiệp trong nước cần có sự
chuẩn bị chu đáo nhằm cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu có mức giá ngày
càng giảm.
Cùng với quá trình hội nhập, việc giảm thuế sẽ tạo thuận lợi cho Việt Nam xuất
khẩu hàng hóa sang các nước ASEAN. Tự do hóa thương mại trong ATIGA đã
đem đến nhiều cơ hội cho các DN trong nước nhập khẩu nguồn nguyên liệu
phong phú với giá cả rẻ hơn, nguồn thiết bị máy móc chất lượng tốt hơn so với
hàng hóa sản xuất trong nước. Các sản phẩm nông sản đặc trưng của Việt Nam
(gạo, cao su, càphê…) cũng sẽ có nhiều cơ hội được xuất khẩu ra các nước trong
khu vực. Theo số liệu tổng kết của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
xuất khẩu nông sản cả nước năm 2014 đạt 30,86 tỷ USD. Trong đó có 10 mặt
hàng nông lâm sản đạt kimngạch xuất khẩu lớn từ trên 1 tỷ USD cho tới 6 tỷ
USD. Riêng giá trị tôm xuất khẩu trong năm 2014 đạt tới 4 tỷ USD và trở thành
mặt hàng có giá trị chiếm 50% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản của
năm 2014…
Qua đó có thể thấy được các quy định trong ATIGA về thực hiện tự do hóa
thuơng mại hàng hóa chi tiết, linh hoạt, cụ thể hơn so với Hiệp dịnh CEPT.
5