Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

CHỨC NĂNG SINH LÝ VÀ BỆNH LÝ CỦA TẠNG PHẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (51.51 KB, 7 trang )

TẠNG PHẾ
I. Mục tiêu:
- Mô tả chức năng sinh lý và vai trò của tạng Phế
- Quan hệ của tạng phế với hình, khiếu, chí, dịch
II. Nội dung bài giảng:
1. Tổng quan về tạng Phế:
- Hệ thống của phế gồm phế, đại trường, bì mao, mũi… Trong ngũ hành, phế thuộc kim,
trong âm dương của ngũ tạng thì phế là âm trong dương, phế chủ khí, quản hô hấp, giúp
tâm hành huyết, thông điều thủy đạo, chủ trị tiết. Phế tương ứng với mùa thu.
- Phế nằm trong khoang ngực, phía trên cơ hoành, phía trên liên thông với đường thở và
hầu họng. Trong ngũ tạng lục phủ thì phế có vị trí cao nhất, che phủ ở phía trên. Phế
tương thông với bách mạch. Phế phân thành hai lá phế phải và trái. Phế có sắc trắng, bên
trong chứa cơ quan của khí.
- Phế là tạng nằm cao nhất ở lồng ngực giống như cái lọng che phủ và bảo vệ các tạng
phủ. Phế chủ biểu của cơ thể, bên ngoài liên hệ với da lông (bì mao), tuyên phát vệ khí,
ngăn chặn xâm nhập ngoại tà, bảo vệ cơ biểu. phế còn chủ khí của cơ thể, điều tiết khí cơ;
phế khí thuận thì khí của lục phủ, ngũ tạng cũng thuận. Phế thông qua khí quản, hầu họng,
miệng, mũi để trực tiếp thông với bên ngoài. Trong ngũ tạng thì phế là một tạng dễ bị ảnh
hưởng bởi các nhân tố ngoại cảnh nhất. ví dụ: lục dâm (phong tà, hàn tà, thử tà, thấp tà,
táo tà, hỏa tà) trong tự nhiên hay gặp tà khí là phong hàn xâm nhập cơ thể thì thường ảnh
hưởng đến phế đầu tiên, làm cho vệ khí không tuyên, phế khiếu không thông lợi mà gây
nên bệnh. Phế liên hệ với da lông nên diễn biến bệnh giai đoạn đầu thường gặp chứng
bệnh ở biểu như phát sốt, sợ lạnh, ho, tắc mũi…
- Phế là tạng mềm mại: phế chủ bì mao, khai khiếu ở mũi, liên hệ trực tiếp với khí trời.
khi lục dâm ngoại tà xâm nhập cơ thể, bất luận là từ miệng mũi xâm nhập hay là từ bì
mao mà xâm nhập đều rất dễ phạm phế mà gây bệnh. Ngoài ra, phế nằm ở vị trí cao nhất,
như cái lọng che phủ các tạng, có chức năng triều bách mạch, cho nên diễn biến về hàn
nhiệt của bệnh ở các tạng phủ khác đều rất dễ đưa lên phạm phế. Hơn nữa, lá phế mềm
mại, không chịu được hàn, nhiệt thái quá nên rất dễ bị ngoại tà xâm nhập. vì thế, bất kể là
ngoại cảm hay là nội thương hoặc là bệnh biến của tạng phủ khác đều rất dễ xâm nhập và
ảnh hưởng gây nên bệnh ở phế. Cho nên, phế gọi là “kiều tạng”.


- Phế khí liên quan với khí mùa thu: phế là tạng có tính thanh túc, khí chủ giáng. trong tự
nhiên thì khí hậu mùa thu cũng thanh túc, trời quang đãng và không khí trong lành. Phế
khí với thu khí tương thông nghĩa là phế khí trong tiết trời mùa thu là thịnh vượng nhất.
ngoài ra phế còn liên hệ với phương tây, táo, sắc trắng và vị cay. Cho nên, tiết mùa thu,
táo khí rất dễ gây tổn thương tân dịch của phế làm phế mất tuyên túc gây chứng ho khan,
miệng mũi khô táo. Khi phong hàn phạm phế gây chứng bệnh ở biểu thì khi điều trị


thường dùng thuốc tân ôn giải biểu như ma hoàng, quế chi…để đưa tà khí theo mồ hôi ra
ngoài.
2. Chức năng sinh lý của tạng Phế:
Vận động của phế khí chủ yếu là tuyên và giáng. Tuyên là tuyên phát, là vận động
phế khí hướng lên trên, ra ngoài, cũng chính là thăng tán; giáng là túc giáng, là phế khí
vận động hướng xuống dưới, vào trong. Bất kỳ chức năng nào của phế cũng đều phải
thông qua hai tác dụng tuyên phát và túc giáng mới hoàn thành được.
a/ Phế chủ khí:
Phế chủ khí là chức năng phế chủ khí hô hấp và phế chủ khí của toàn thân. Khí là
vật chất cơ bản nhất mà cơ thể dựa vào để duy trì hoạt động sống.
- Phế chủ khí hô hấp: quá trình thay đổi khí giữa cơ thể với bên ngoài tự nhiên gọi
là hô hấp. Phế chủ khí hô hấp, còn gọi là phế quản hô hấp tức là thông qua vận động hô
hấp để khí vào thanh khí trong tự nhiên, thở ra trọc khí để thực hiện chức năng thay đổi
khí trong và ngoài cơ thể. Phế là cơ quan chủ quản vận động hô hấp của cơ thể, có chức
năng hô hấp. Phế trực tiếp tương thông với khí tự nhiên qua khí đạo, họng, mũi. Phế
không ngừng hít vào thanh khí, thở ra trọc khí sau khi đã trao đổi để thúc đẩy sinh thành
khí của cơ thể, điều tiết vận động thăng giáng xuất nhập của khí trong cơ thế để đảm bảo
việc thay cũ đổi mới khí được bình thường. Ngoài ra, vận hành huyết dịch, phân bố bài
tiết tân dịch trong cơ thể đều phải dựa vào vận động hô hấp điều hòa mới có thể duy trì
các hoạt động sống trọng yếu của cơ thể. Chức năng quản hô hấp bình thường thì khí đạo
thông suốt, hô hấp đều đặn. Nếu bệnh tà phạm phế hoặc bệnh tạng khác ảnh hưởng đến
phế sẽ gây rối loạn chức năng hô hấp gây tức ngực, ho, khó thở…

Lục phủ ngũ tạng đều tham gia điều tiết hô hấp nhưng mối quan hệ phế thận là
quan trọng nhất. vận động hô hấp không những chỉ dựa vào phế mà còn nhờ vào thận. Phế
là chủ khí, thận là gốc khí. Phế chủ thở khí ra, thận chủ nạp khí vào, một xuất một nhập
mới hoàn thành vận động hô hấp.
- Phế chủ khí toàn thân: tức là phế có tác dụng chủ trì và điều tiết khí của tạng phủ,
kinh lạc, thông qua hô hấp để tham gia vào sinh thành và điều tiết khí cơ trong cơ thể.
+ Tham gia hình thành nên tông khí: phế tham gia quá trình tạo nên khí toàn
thân, đặc biệt góp phần hình thành nên tông khí. Phế thông qua vận động hô hấp
mà hấp thu thanh khí là nguồn gốc và bộ phận chủ yếu của khí trong cơ thể và
cũng là vật chất cơ bản duy trì hoạt động sống. Con người thông qua vận động hô
hấp của phế để đưa thanh khí vào phế; vị trường thông qua chức năng tiêu hóa hấp
thu làm cho thức ăn chuyển thành tinh khí; tỳ thông qua chức năng thăng thanh mà
đưa chất tinh vi lên phế. Từ đó, thanh khí và tinh khí kết hợp lại và tập trung ở khí
hải (đản trung) tạo nên tông khí. Tông khí là khí hậu thiên của cơ thể, có tác dụng
làm phế vận động hô hấp, thông ở tâm mạch, hành khí huyết àm phân tán đi toàn
thân để ôn dưỡng tạng phủ, kinh lạc; nhờ đó mà cơ thể mới duy trì được hoạt động


bình thường. Vì vậy, chức năng hô hấp của phế ảnh hưởng đến hình thành tông khí,
từ đó ảnh hưởng đến hình thành khí toàn thân. Do đó, phế tham gia hình thành
tông khí có tác dụng khởi nguồn để chủ khí toàn thân.
+ Điều tiết khí cơ toàn thân: gọi là khí cơ tức là chỉ hình thức cơ bản về vận
động biến hóa, thăng, giáng, xuất, nhập của khí. Vận động hô hấp của phế chính là
thể hiện cụ thể về thăng, giáng, xuất, nhập của khí trong cơ thể. Phế vận động hít
vào, thở ra có quy luật đã thúc đẩy vận động thăng giáng xuất nhập khí toàn thân,
khởi nguồn tác dụng điều tiết trọng yếu của khí cơ toàn thân.
Phế chủ được khí là nhờ chức năng quản hô hấp. Phế hô hấp đều đặn, thông thoát
là điều kiện căn bản để sinh thành khí và khí cơ thông thoát. Chức năng phế quản hô hấp
bình thường thì chức năng phế chủ khí toàn thân bình thường, khí của tạng phủ kinh lạc
vượng thịnh, vận động thăng giáng xuất nhập khí hiệp điều, hoạt động sống bình thường.

khi rối loạn chức năng phế chủ khí làm ảnh hưởng đến sinh thành tông khí và khí của tạng
phủ kinh lạc, rối loạn thăng giáng xuất nhập khí toàn thân gây chứng khí hư: ngột ngạt,
hụt hơi, tiếng nói nhỏ, mệt mỏi rã rời…
b. Phế triều bách mạch:
- Triều có nghĩa là hướng đến, tụ hội; bách mạch là chỉ toàn bộ hệ thống mạch
trong cơ thể. Phế triều bách mạch nghĩa là phế với bách mạch tương thông, huyết dịch
toàn thân tuần hoàn thông qua hệ thống mạch mà hội tụ ở phế (hướng nội). Thông qua hô
hấp của phế tiến hành trao đổi khí thanh trọc, đưa huyết dịch chứa thanh khí không ngừng
đi khắp toàn thân (hướng ngoại).
- Tác dụng sinh lý của phế triều bách mạch là giúp cho tâm hành huyết. Huyết dịch
toàn thân tuần hoàn thông qua huyết mạch để vận hành và hội tụ ở phế. Phế chủ khí hô
hấp, quản về vận hóa thanh trọc làm cho huyết dịch luôn duy trì việc hàm chưa thanh khí.
Tâm chủ huyết mạch, tâm co bóp là động lực cơ bản để vận hành huyết dịch. Huyết dịch
muốn vận động trong lòng mạch lại dựa vào khua động của khí, cùng với sự thăng giáng
của khí mà vận động đi toàn thân. Phế chủ khí toàn thân, xuyên suốt bách mạch và điều
tiết khí cơ toàn thân nên giúp cho tạng tâm chủ trì được tuần hoàn huyết dịch, vì thế, vận
hành huyết dịch cũng dựa vào điều tiết của phế khí. Như vậy, phế và tâm có mối quan hệ
mật thiết trong quan hệ sinh lý và bệnh lý. Phế khí ủng trệ làm vận hành huyết dịch của
tâm không thông làm cho huyết mạch ứ trệ gây chứng: hồi hộp, tức ngực, lưỡi tím…Do
đó, khi điều trị chứng phế khí ủng trệ thì ngoài việc dùng pháp hành khí, bổ khí ra còn
phải dùng pháp hoạt huyết và hành huyết.
c. Phế chủ tuyên phát, túc giáng:
Phế chủ tuyên phát tức là tuyên thông và phát tán; túc giáng là thanh túc và hạ
giáng. Phế nawmg ở phía trên, khí của nó nên tuyên và nên giáng , nhưng thanh túc hạ
giáng là chính. Tuyên phát và túc giáng là hình thức biểu thiện cụ thể của vận động thăng,
giáng xuất, nhập của phế khí.


- Phế chủ tuyên phát: tức là chỉ chức năng phế khí hướng lên trên và phân tán ra
ngoài . Hình thức biểu hiện vận động khí cơ của nó là thăng và xuất. Tác dụng sinh lý chủ

yếu thể hiện ở:
+ Bài xuất trọc khí: thông qua vận động phế khí hướng lên trên và hướng ra
ngoài mà trọc khí (sản sinh trong quá trình hoạt động sống) thông qua vận động
thở ra để bài xuất qua miệng mũi ra ngoài.
+ Phân bố chất tinh vi và tân dịch: phế đưa chất tinh vi và tân dịch mà tỳ
vận hóa đi khắp toàn thân để tư nhuận và nhu dưỡng các tạng phủ cơ quan của cơ
thể
+ Tuyên phát vệ khí: nguồn gốc của vệ khí là từ thủy cốc tinh vi do tỳ hóa
sinh tạo nên và dựa vào chức năng tuyên phát của phế khí tuyên tán đến toàn thân.
Vệ khí có tác dụng bảo vệ cơ biểu, ôn dưỡng cơ tấu bì mao, điều tiết khống chế tấu
lý đóng mở. Thông qua phế khí vận động phân tán ở phía ngoài mà vệ khí phân tán ở
phần biểu của cơ thể. Tân dịch của cơ thể sau khi trao đổi chuyển thành mồ hôi, thông qua
lỗ chân lông để bài tiết ra ngoài. Quá trình bài tiết mồ hôi liên quan đến vệ khí khống chế
việc điều tiết đóng mở tấu lý. Tấu lý mở thì lỗ chân lông mở, tức là có thể làm ra mồ hôi;
tấu lý đóng thì lỗ chân lông đóng, tức là không ra được mồ hôi. Ngoài ra, việc đóng mở
của tấu lý còn có tác dụng tán khí và bế khí. Lỗ chân lông mở tức là tán khí và đây là
đường bài xuất trọc khí của cơ thể, nên lỗ chân lông còn gọi là cửa khí (khí môn). Nếu
phế mất tuyên phát làm vệ khí không đưa đến toàn thân sẽ sinh ra chứng sợ lạnh, không
có mồ hôi, khi điều trị phải dùng pháp tuyên phát phế khí; nếu phế khí hư, vệ khí bất túc
mà gây nên chứng sợ lạnh, ra mồ hôi, khi điều trị dùng pháp bổ ích phế khí.
- Phế chủ túc giáng: là chức năng thanh túc và thông giáng xuống dưới của phế
khí. Hình thức vận động khí cơ của nó là giáng và nhập. Tác dụng sinh lý chủ yếu biểu
hiện ở:
+ Hít thanh khí: thông qua vận động hướng hạ, hướng nội của phế khí để
đưa thanh khí trong khí tự nhiên vào, đồng thời hướng hạ mà phân tán do thận tăng
cường nhiếp nạp.
+ Vận chuyển phân bố chất tinh vi và tân dịch: phế là tạng nằm trên cao
nhất, giống như cái lọng che phủ. Thông qua tác dụng thông giáng hướng hạ của
phế khí mà chất tinh vi và tân dịch sau khi tỳ vận hóa được chuyển lên phế, phân
tán đến tổ chức tạng phủ cơ quan. Chất dinh dưỡng này sẽ tư nhuận cho tổ chức

tạng phủ và giúp cho việc duy trì hoạt động chức năng sinh lý bình thường của cơ
thể. Ngoài ra, phế là thượng nguồn của thủy. Phế khí túc giáng thì mới có thể thông
điều thủy đạo và làm cho thủy dịch vận chuyển xuống dưới, thông qua tác dụng
khí hóa của thận để trọc dịch thành nước tiểu, đưa xuống bang quang và bài xuất ra
ngoài.


+ Thanh túc dị vật: phế khí túc giáng kịp thời giúp cho việc đưa dị vật ra
khỏi đường hô hấp, nhờ đó mà đường thở luôn giữ được sạch sẽ và giúp cho phế
khí vận động thông thoát không bị cản trở. Nếu phế khí mất túc giáng sẽ xuất hiện
chứng phế khí thượng nghịch như khó thở, tiếng thở rít, ho và khạc đờm.
Phế khí tuyên phát và túc giáng là một cặp vận động mâu thuẫn, cùng tồn tại và
chế ước nhau. Nếu không tuyên phát bình thường thì không túc giáng được và ngược lại
không túc giáng bình thường thì không tuyên phát được. Ví dụ: tuyên phát bài trừ trọc khí
là điều kiện để túc giáng hít thanh khí mà thanh khí được hít vào, sau khi được trao đổi lại
là nguồn tạo ra trọc khí. Bài trọc, hít thanh cùng tồn tại, chế ước lẫn nhau để duy trì thay
cũ đổi mới khí của cơ thể. Vì vậy, chỉ phối hợp điều hòa tuyên phát và túc giáng mới làm
cho khí đạo thông thoát, nhịp hô hấp đều, đảm bảo trao đổi khí trong ngoài cơ thể, làm
cho khí huyết tân dịch nhu dưỡng tổ chức tạng phủ; đồng thời tránh được các bệnh liên
quan đến khí trệ, huyết ứ, thủy thấp, đàm trọc, làm cho phế khí không hao tán thái quá để
duy trì trạng thái thanh túc bình thường. Nếu ngoại tà xâm nhập phế (gây ho là chủ yếu)
hoặc phế khí hao thoát (gây khó thở là chủ yếu) đều gây rối loạn phế khí tuyên phát và túc
giáng, gọi là phế khí thất tuyên hoặc phế mất túc giáng. Hai chứng bệnh này ảnh hưởng
lẫn nhau hoặc cùng phát sinh thì gọi là phế mất tuyên túc.
d. Phế chủ hành thủy
Phế chủ hành thủy còn được gọi là phế chủ thông điều thủy đạo, tức là có tác dụng
sơ thông và điều tiết đường vận hành thủy dịch để thúc đẩy phân bố và bài tiết thủy dịch.
Do phế như cái lọng che, vị trí là cao nhất, tham gia điều tiết trao đổi thủy dịch trong cơ
thể nên gọi phế là nguồn trên của nước.
Trao đổi thủy dịch trong cơ thể liên quan đến phế, tỳ, thận, tiểu trường, đại trường,

bàng quang…Phế thực hiện chức năng chủ hành thủy thông qua tác dụng tuyến phát và
túc giáng.
- Tác dụng tuyên phát của phế khí làm cho thủy dịch hướng lên trên, ra ngoài, rồi
phân tác khắp toàn thân để tư dưỡng và bảo vệ các tổ chức cơ quan; mặt khác thủy dịch
dư thừa sau khi đã trao đổi ở cơ thể, thông qua đường thở mà hình thành nên hơi nước
hoặc thông qua hình thức bài tiết mồ hôi qua lỗ chân lông mà bài xuất ra ngoài.
- Tác dụng túc giáng của phế khí ngoài việc làm cho thủy dịch hướng xuống dưới
và vào trong để tư dưỡng tạng phủ cơ quan…Phần lớn các phần thủy dịch dư thừa sau khi
trao đổi không ngừng được chuyển xuống thận, nhờ tác dụng khí hóa của thận và bàng
quang thành nước tiểu để bài xuất ra ngoài.
Phế chủ hành thủy là dựa vào chức năng tuyên phát và túc giáng của phế khí. Nếu
ngoại tà xâm nhập phế làm phế bị rối loạn chức năng tuyên túc thì sẽ rối loạn chức năng
hành thủy, thủy dịch không được phân bố và bài tiết gây chứng đàm ẩm, thủy thũng. Vì
vậy, khi điều trị đàm ẩm và thủy thũng, thường dùng pháp tuyên phế hóa đàm, tuyên phế
lợi thủy.


e. Phế chủ trị tiết:
- Trị tiết tức là trị lý và điều tiết. phế chủ trị tiết tức là phế có tác dụng giúp tạng
tâm trị lý, điều tiết khí huyết, tân dịch toàn thân và hoạt động chức năng sinh lý của tổ
chức cơ quan tạng phủ. Tâm là quân chủ, phế có tác dụng bổ trợ. Các tổ chức tạng phủ
căn cứ theo quy luật nhất định để thực hiện hoạt động sống bình thường một cách thống
nhất, nhịp nhàng.
- Phế chủ trị tiết thể hiện ở:
+ Phế chủ khí, quản việc hô hấp: phế điều tiết hít thanh khí và thở ra trọc
khí có quy luật, có tác dụng trọng yếu trong việc thay cũ đổi mới khí của cơ thể.
+ Điều tiết khí cơ: vận động hít thở (hô hấp) là biểu hiện cụ thể về thăng,
giáng, xuất, nhập của khí. Cùng với sự vận động hít thở có quy luận làm cho thăng,
giáng, xuất, nhập khí được điều tiết nên khí cơ được thông thoát.
+ Giúp tâm hành huyết: phế triều bách mạch làm cho huyết dịch toàn thân

thông qua huyết mạch để rót về phế, tiến hành trao đổi khí để lại phân bố đi toàn
thân. Phế chủ khí, điều tiết khí cơ, hành khí thì huyết hành; do đó, phế giúp tạng
tâm thúc đẩy và điều tiết vận hành huyết dịch toàn thân;
+ Điều tiết trao đổi thủy dịch: thông qua tác dụng tuyên phát và túc giáng
của phế khí để thúc đẩy và điều tiết phân bố, vận hành và bài tiết thủy dịch.
Tóm lại, các chức năng của phế như phế chủ khí, quản hô hấp, thông điều thủy
đạo…đều dựa vào tác dụng thăng, giáng, xuất, nhập của khí; cho nên các y gia luận về
phế khí thì nhiều mà luận về phế huyết thì ít. Thực ra, khí và huyết tuy tên gọi khác nhau
nhưng cùng nguồn gốc, không có chứng huyết hư mà khí lại đủ hoặc khí hư mà huyết lại
sung mãn; nhưng thầy thuốc cần phân biệt cho rõ chức năng của phế âm và phế dương.
Phế dương có tác dụng thúc đẩy ôn chiếu, vận động, thăng tán; còn phế âm có tác dụng
chế ước dương nhiệt, đồng thời thúc đẩy tư nhuạn, ninh tĩnh, bảo vệ bên trong cho phế;
chính vì thế mà duy trì được cân bằng giữa mát- nóng, động – tĩnh, tán – thu, nhuận – táo.
Nếu phế âm hư thì dương sẽ thiên cang, sinh ra chứng nhiệt gọi là chứng âm hư sinh nội
nhiệt với biểu hiện lâm sàng: mặt đỏ, ngũ tâm phiền nhiệt, mũi khô, họng khô, đờm ít, ho
khan, thậm chí khạc đờm lẫn máu. Nếu phế âm hư lâu ngày gây chứng âm khí bất túc với
biểu hiện lâm sàng: ra mồ hôi trộm, bứt rứt, khó thở. Khi phế dương bất túc thì sẽ xuất
hiện chứng người lạnh, sợ lạnh, tân dịch không được thăng tán mà lưu ở phế thành đàm
ẩm, phế không trợ giúp được tâm sinh ra huyết ứ, vệ khí bất cố sinh ra tự hãn.
3/ Quan hệ với hình, khiếu, chí, dịch:
- Phế biểu hiện ra lông: lông gắn liền với bì phu. Bì mao là thuộc phần biểu của cơ thể,
dựa vào vệ khí tuyên phát và sự ôn dưỡng nhu nhuận của tân dịch nên gọi là phế chủ bì
mao. Nếu phế khí hư nhược, bì mao không được nuôi dưỡng, tấu lý không chặt chẽ làm
cho lông khô, không mượt.


- Phế khai khiếu ra mũi.
- Phế với tình chí là buồn rầu: bị ảnh hưởng đến tuyên giáng của phế. Nếu bi thương quá
độ sinh ra phế khí bất túc.
- Nước mũi là dịch của phế. Nếu phế hàn sẽ tăng tiết nhiều nước mũi trong; khi phế nhiệt

sẽ gây nên nước mũi vàng đặc, mũi khô.



×