Tải bản đầy đủ (.doc) (216 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ quan chính trị ở các học viện, trường sỹ quan trong việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1014.75 KB, 216 trang )

3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tác giả. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, không trùng
lặp với các công trình khoa học đã công bố.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phạm Trung Thành


4

MỤC L ỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.
Các công trình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến đề tài luận án
1.2.
Các công trình khoa học nghiên cứu ở trong nước có liên quan đề
tài luận án
1.3.


Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình khoa học có liên
quanđã công bố và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CƠ QUAN CHÍNH TRỊ Ở CÁC HỌC
VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN
DÂN VIỆT NAM
2.1.
Cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ cơ quan chính trị ở các học viện,
trường sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam
2.2.
Quan niệm, những vấn đề có tính nguyên tắc và tiêu chí đánh giá xây
dựng đội ngũ cán bộ cơ quan chính trị ở các học viện, trường sĩ quan
trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CƠ QUAN CHÍNH TRỊ Ở CÁC HỌC
VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN
DÂN VIỆT NAM
3.1.
Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ cơ quan chính trị ở các học
viện, trường sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam
3.2.
Nguyên nhân và một số kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ cơ quan chính
trị ở các học viện, trường sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Chương 4: YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CƠ QUAN CHÍNH TRỊ
Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN TRONG
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu tăng cường xây dựng đội ngũ
cán bộ cơ quan chính trị ở các học viện, trường sĩ quan trong Quân

đội nhân dân Việt Nam hiện nay
4.2.
Những giải pháp tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ cơ quan chính trị ở
các học viện, trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN

5
9
9
18
28

32
32
59

82
92
105

121
121
131
172
174


5


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

175
189


6

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT

1

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

2

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH,HĐH

3


Công tác đảng, công tác chính trị

CTĐ,CTCT

4

Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐCSVN

5

Đội ngũ cán bộ

ĐNCB

6

Học viện, trường sỹ quan

HV,TSQ

7

Lực lượng vũ trang

LLVT

8


Nghiên cứu khoa học

NCKH

9

Quân đội nhân dân

QĐND

10

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án

Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng. Công tác cán bộ luôn là công việc trọng yếu của Đảng. Do đó, trong mọi thời
kỳ cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo đến xây
dựng ĐNCB, coi xây dựng ĐNCB là công việc hệ trọng của Đảng là cốt lõi của
công tác xây dựng tổ chức, là vấn đề chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng.
Cùng với hệ thống nhà trường trong cả nước, các HV,TSQ trong quân đội là

những trung tâm giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học về quân sự quốc phòng
của quốc gia, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đào tạo cán bộ quân đội của
Đảng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Cơ quan chính trị các HV,TSQ là một bộ phận cấu thành hệ thống tổ chức của các
HV,TSQ, là cơ quan đảm nhiệm CTĐ,CTCT; hoạt động dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực
tiếp của đảng ủy, chính ủy và sự quản lý, điều hành của chỉ huy nhà trường về hành
chính, quân sự; là cơ quan tham mưu cho đảng ủy, chính ủy, chỉ huy HV,TSQ lãnh đạo,
chỉ đạo, tổ chức tiến hành CTĐ,CTCT trong đơn vị; đồng thời hướng dẫn, kiểm tra cấp
ủy, các cơ quan, đơn vị trong triển khai thực hiện CTĐ,CTCT; trực tiếp thực hiện một số
nội dung, hình thức, biện pháp CTĐ,CTCT gắn với chức năng, nhiệm vụ. Để hoàn thành
tốt chức năng, nhiệm vụ đó, cơ quan chính trị phải có đội ngũ cán bộ tương xứng với vị
trí, vai trò và yêu cầu tiến hành CTĐ,CTCT ở các HV,TSQ đặt ra.
Đội ngũ cán bộ cơ quan chính trị ở các HV,TSQ là lực lượng nòng cốt, có vai trò
quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chính trị; liên
quan trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả CTĐ,CTCT ở các HV,TSQ; góp phần đảm bảo
cho các HV,TSQ hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Đây là lực lượng trực
tiếp tham mưu, đề xuất với đảng ủy, chỉ huy HV,TSQ các chủ trương, biện pháp lãnh đạo


6

thực hiện các nhiệm vụ, xây dựng đảng bộ HV,TSQ trong sạch vững mạnh gắn với xây
dựng HV,TSQ vững mạnh toàn diện; chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các hoạt
động CTĐ,CTCT trong các nhà trường. Vì vậy, vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng là phải thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng ĐNCB của cơ quan
chính trị đảm bảo cho đội ngũ này thực sự vững mạnh, có số lượng đủ, cơ cấu
hợp lý, chất lượng cao có ý nghĩa quyết định.
Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò ĐNCB cơ quan chính trị, trong những năm
qua, đảng ủy, chỉ huy các HV,TSQ đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ĐNCB cơ
quan chính trị vững mạnh, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực

CTĐ,CTCT. Việc xây dựng ĐNCB cơ quan chính trị ở các HV,TSQ đã có bước phát
triển rất cơ bản, tạo nên một ĐNCB có chất lượng và trình độ cao, đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ CTĐ,CTCT, góp phần quan trọng vào xây dựng cơ quan
chính trị vững mạnh, xây dựng các HV,TSQ vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt chức
năng, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, ĐNCB cơ quan chính
trị vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định cả về phẩm chất, năng lực, phương pháp,
tác phong công tác; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức xây dựng đội ngũ. Điều đó, đã
làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động CTĐ, CTCT ở các HV,TSQ trong
quân đội. Vì vậy, thời gian tới cần phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, tập trung xây
dựng ĐNCB cơ quan chính trị có cơ cấu hợp lý, số lượng đủ, chất lượng cao đáp ứng
chức trách, nhiệm vụ được giao và yêu cầu tiến hành CTĐ,CTCT.
Bước vào thời kỳ mới, trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội, yêu
cầu về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo của các HV,TSQ, đặc biệt là
yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động CTĐ,CTCT ở các HV,TSQ đòi hỏi phải
tập trung xây dựng ĐNCB cơ quan chính trị có đủ phẩm chất, năng lực, phương
pháp tác phong công tác, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Từ các lý do trên, tác
giả đã chọn đề tài: “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ quan chính trị ở các học viện, trường
sỹ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sỹ, đây là vấn đề
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích


7

Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn, đề xuất
những giải pháp tăng cường xây dựng ĐNCB cơ quan chính trị ở các HV,TSQ
trong QĐND Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài và chỉ rõ những

vấn đề đặt ra luận án tập trung nghiên cứu giải quyết.
- Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về ĐNCB cơ quan chính trị và
xây dựng ĐNCB cơ quan chính trị ở các HV,TSQ trong Quân đội nhân dân
QĐND Việt Nam.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm xây
dựng ĐNCB cơ quan chính trị ở các HV,TSQ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp tăng cường xây dựng ĐNCB
cơ quan chính trị ở các HV,TSQ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Xây dựng ĐNCB cơ quan chính trị ở các HV,TSQ
trong Quân đội nhân dân Việt Nam là đối tượng nghiên cứu của luận án.
Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn hoạt động lãnh đạo,
chỉ đạo, tổ chức xây dựng ĐNCB cơ quan chính trị ở các HV,TSQ trong quân đội ( trừ
Học viện Quốc phòng).
Đối tượng tiến hành điều tra, khảo sát bằng phiếu trưng cầu ý kiến: đại diện cán bộ
của các cơ quan chức năng của các HV,TSQ, đội ngũ cán bộ chính trị ở các hệ, tiểu đoàn.
Các số liệu, tư liệu điều tra, khảo sát thực tiễn phục vụ cho luận án được
giới hạn chủ yếu từ năm 2010 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ, công tác cán bộ, về xây dựng quân đội cách
mạng của giai cấp công nhân; về cơ quan chính trị, cán bộ chính trị; các văn kiện,
nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Quân ủy Trung ương về cán bộ, xây
dựng cơ quan chính trị, ĐNCB chính trị và CTĐ,CTCT trong quân độị


8


Cơ sở thực tiễn
Hiện thực xây dựng cơ quan chính trị và ĐNCB cơ quan chính trị ở các HV,
TSQ quân đội; báo cáo tổng kết của Bộ Quốc phòng, Bộ tổng Tham mưu, Tổng cục
Chính trị, của các cơ quan chức năng về CTĐ,CTCT, về cán bộ và công tác cán bộ, về
cơ quan chính trị và ĐNCB cơ quan chính trị các HV,TSQ trong quân đội; báo cáo
tổng kết thực hiện nhiệm vụ của các HV,TSQ; báo cáo sơ kết về thực hiện Nghị quyết
51 của Bộ Chính trị khóa XI của các HV,TSQ; các số liệu điều tra, khảo sát về công tác
xây dựng ĐNCB cơ quan chính trị ở các HV, TSQ trong quân đội là những tài liệu cơ
bản, là cơ sở vững chắc của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; luận án sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học liên ngành và chuyên ngành;
coi trọng các phương pháp: Kết hợp phân tích với tổng hợp, lôgic và lịch sử, thống
kê, so sánh, điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận giải, làm rõ quan niệm, những vấn đề có tính nguyên tắc xây dựng ĐNCB
cơ quan chính trị ở các HV, TSQ trong quân đội.
- Xây dựng bộ tiêu chí làm cơ sở để đánh giá thực trạng xây dựng ĐNCB cơ
quan chính trị ở các HV,TSQ trong Quân đội hiện nay.
- Rút ra một số kinh nghiệm xây dựng ĐNCB cơ quan chính trị ở các
HV,TSQ trong quân đội.
- Đề xuất một số nội dung, biện pháp thiết thực có tính khả thi trong các
giải pháp tăng cường xây dựng ĐNCB cơ quan chính trị ở các HV,TSQ trong
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận, thực
tiễn về xây dựng ĐNCB cơ quan chính trị, cung cấp thêm luận cứ khoa học phục
vụ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác xây dựng ĐNCB cơ
quan chính trị ở các HV,TSQ trong QĐND Việt Nam hiện nay.



9

- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, giảng dạy và
học tập trong các HV,TSQ quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, các công trình của tác giả
đã công bố liên quan đến đề tài luận án và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài có
liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về đội ngũ cán bộ và
xây dựng đội ngũ cán bộ
Nhiều nhà khoa học nước ngoài quan tâm nghiên cứu về cán bộ và xây
dựng ĐNCB nói chung, cũng như cán bộ và xây dựng ĐNCB trong lực lượng vũ
trang nói riêng. Đã có nhiều công trình khoa học được công bố, tiêu biểu là:
Tác giả Tăng Ngọc Thành, Chu La Canh (1997) trong cuốn “Đẩy mạnh
cải cách mở cửa, tiến lên phía trước” [120], đã tổng kết những kinh nghiệm
và thành tựu trong công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc, những thách
thức mà Trung Quốc đang phải đối mặt. Một trong những vấn đề nghiên cứu
được tác giả cuốn sách nêu lên là: để vượt qua thách thức đưa công cuộc cải
cách mở cửa tiếp tục tiến lên cần phải quan tâm xây dựng ĐNCB cách mạng,
năng động, sáng tạo. Kinh nghiệm cốt tử là công tác cán bộ phải phục tùng
Đảng. Đảng phải xây dựng ĐNCB cho cả hệ thống chính trị bao gồm cả
người trong Đảng và người ngoài Đảng. Trung Quốc kiên trì phương châm
“bốn hóa” trong xây dựng ĐNCB. Bốn hóa bao gồm: Cách mạng hóa, trẻ
hóa, tri thức hóa, chuyên môn hóa. Trung Quốc coi đó là một khái niệm

hoàn chỉnh, trong đó cách mạng hóa là tiền đề quyết định tính chất của
phương châm này. Thực hiện phương châm “bốn hóa” là yêu cầu tất yếu
của sự nghiệp cải cách mở cửa hiện nay. Về tiêu chuẩn cán bộ, Trung Quốc
kiên trì nguyên tắc “tài đức song toàn” gắn chặt với nguyên tắc “thực tiễn là số
một” và nguyên tắc “được nhân dân công nhận”. Về đánh giá cán bộ, Trung


10

Quốc thực hiện xem xét một cách toàn diện cả “đức, năng, cần, tích” để quyết
định lấy hay không lấy, dùng hay không dùng. Một kinh nghiệm quý giá mà
Trung Quốc đúc kết là: phải coi trọng bồi dưỡng cán bộ mới và cốt cán cách
mạng. Đảng Cộng sản Trung Quốc coi việc bồi dưỡng người kế tục sự nghiệp
cách mạng là việc quan trọng trong công tác cách mạng của Đảng, hình thành
nên một hệ thống lý luận và phương châm, nguyên tắc hoàn chỉnh. Theo đó,
Trung Quốc đã xây dựng và hoàn thiện “Chiến lược nhân tài”, trọng tâm của
chiến lược hướng vào việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hiền tài kế tục sự nghiệp
cách mạng. Trung Quốc coi trọng cải cách việc dạy và học ở các trường Đảng,
Học viện Hành chính, coi trọng đưa người ra nước ngoài đào tạo, đa dạng hóa
các loại hình đào tạo, tăng cường tính thực tiễn trong đào tạo cán bộ.
Tôn Hiểu Quần (2004), trong bài “Tăng cường xây dựng ban lãnh đạo, cố
gắng hình thành tầng lớp lãnh đạo hăng hái, sôi nổi, phấn đấu thành đạt” [114]
đã chỉ rõ kinh nghiệm của Trung Quốc trong xây dựng đảng cầm quyền, xây dựng
ĐNCB, công chức, nâng cao chất lượng ĐNCB chủ chốt các cấp thời kỳ cải cách,
mở cửa và hội nhập quốc tế. Đồng thời, chỉ rõ những yêu cầu chất lượng, nội
dung xây dựng ĐNCB, việc thực hiện chế độ, chính sách đối với ĐNCB; nêu lên
một số giải pháp nâng cao trình độ, chất lượng ĐNCB trong điều kiện Đảng Cộng
sản cầm quyền, nhấn mạnh phải thực hiện tốt quy hoạch, đào tạo, đánh giá, bố trí,
sử dụng cán bộ, khắc phục tình trạng cục bộ địa phương, bè phái trong công tác
cán bộ và khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng. Kiên trì tiêu chuẩn chọn người,

dùng người một cách khoa học, xác lập định hướng công tác cán bộ đúng đắn; đi
sâu cải cách chế độ lựa chọn và bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo đảng và chính quyền
các cấp; thiết thực tăng cường giám sát đối với cán bộ lãnh đạo.
Chu Phúc Khởi (2004), trong bài “Xuất phát từ đại cục, hướng tới lâu dài, cố
gắng xây dựng một đội ngũ cán bộ dự bị tố chất cao” [77], đã làm rõ những vấn đề
về ý nghĩa chiến lược của việc xây dựng ĐNCB dự bị; những cách làm chính về việc
xây dựng ĐNCB này. Trong bài viết, tác giả đã làm rõ những nội dung: Tuyển chọn,
đào tạo, sử dụng và quản lý cán bộ dự bị. Cách làm chính gồm: Xuất phát từ đòi hỏi
thực tế của việc xây dựng ban lãnh đạo, phải xây dựng quy hoạch thiết thực, khả thi


11

về xây dựng ĐNCB dự bị; tăng cường xây dựng chế độ hóa, quy phạm hóa chặt chẽ
về tiêu chuẩn, quy trình và yêu cầu đối với các khâu của công tác cán bộ dự bị; thực
hiện quản lý sự biến động, bảo đảm số lượng và chất lượng cán bộ dự bị; kiên trì dự
trữ, kết hợp với sử dụng, kịp thời tuyển chọn cán bộ dự bị chín muồi vào ban lãnh
đạo các cấp; đào tạo đa dạng, theo nguyên tắc “thiếu gì bù nấy”; tăng cường xây
dựng tài nguyên chiến lược cán bộ dự bị, nắm từ đầu nguồn, tuyển chọn từ các
trường đại học và cao đẳng những sinh viên tốt nghiệp đại học vừa giỏi, vừa có đạo
đức tốt để đào tạo và rèn luyện tại cơ sở một cách có kế hoạch.
Thẩm Vĩnh Hoa, Ngô Quốc Diệu (chủ biên) (2008), trong cuốn sách “Tôn
trọng trí thức, tôn trọng nhân tài, kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước” [67], đã
nghiên cứu toàn diện, hệ thống tư tưởng Đặng Tiểu Bình về cán bộ, công tác cán bộ
và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cải cách, mở cửa và hội nhập
quốc tế. Công trình nhấn mạnh, việc coi công tác cán bộ, công tác nhân tài là “kế lớn
trăm năm” chấn hưng đất nước. Những vấn đề về đường lối tổ chức cán bộ, công tác
cán bộ; việc lựa chọn lớp người kế tục; vấn đề xây dựng ĐNCB theo phương châm
“bốn hóa”, nguyên tắc và tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới; công tác tuyển chọn,
đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục và bố trí, sử dụng nhân tài; việc thực hiện chế độ nhân

sự cán bộ; những vấn đề về tôn trọng trí thức, trọng dụng nhân tài; bảo đảm chế độ,
chính sách và tạo môi trường cho cán bộ, nhân tài phát triển,... đã được công trình
luận giải một cách sâu sắc. Quan niệm này, tương đồng với nhiều quan niệm ở nước
ta về vấn đề cán bộ, nhân tài.
Nghiên cứu về công tác cán bộ đã được các cán bộ lãnh đạo, nghiên cứu
lý luận của Đảng, Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đề cập. Bài viết
“Công tác tổ chức cán bộ cấp tỉnh ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay”
[97] của Unkẹo Sipasợt, đã khẳng định: Yếu tố quyết định để tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối, chính sách là công tác tổ chức, cán bộ. Đào tạo cán bộ lãnh
đạo và quản lý trong cơ chế thị trường vừa phải có tinh thần đổi mới, vừa phải
giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc như: phải quán triệt quan điểm giai
cấp, tạo sự bình đẳng cho tài năng nảy nở và phát huy, nhất là đối với cán bộ
xuất thân từ công nhân, con em nông dân, gia đình có công với cách mạng, dân


12

tộc thiểu số, phụ nữ. Trong điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế, khoa học công
nghệ phát triển như vũ bão phải nâng cao chất lượng đào tạo trong nước, vừa
phải quan tâm việc đưa cán bộ đi nước ngoài học tập.
Tác giả Xone Monevilay (2015), trong luận án "Chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức ngành lao động và phúc lợi xã hội Cộng hòa Dân chủ nhân dân
Lào giai đoạn hiện nay", đã đưa ra quan niệm về chất lượng ĐNCB, công chức
là tổng hợp mức độ phù hợp của cơ cấu đội ngũ; phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống và sự hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ các cán bộ, công chức ngành
lao động và phúc lợi xã hội Lào so với yêu cầu nhiệm vụ của ngành trong từng
thời kỳ cách mạng. Bên cạnh việc xác định tiêu chí đánh giá chất lượng, tác giả
đã chỉ ra những yếu tố chi phối chất lượng ĐNCB, công chức này. Trên cơ sở
những vấn đề lý luận, tác giả khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng và hoạt
động nâng cao chất lượng ĐNCB, công chức, chỉ ra nguyên nhân và kinh

nghiệm. Dự báo những nhân tố tác động, mục tiêu, phương hướng và đề xuất
giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng ĐNCB, công chức này hiện nay.
Các công trình khoa học nước ngoài nêu trên đã tiếp cận và bàn đến các
khía cạnh khác nhau với các mức độ khác nhau của phạm trù cán bộ, công tác
cán bộ, xây dựng, nâng cao chất lượng ĐNCB, trong đó đã luận giải khá sâu
sắc vị trí, vai trò của cán bộ, công tác quy hoạch, đào tạo, đánh giá, sử dụng
và chính sách đối với ĐNCB, nhân tài đất nước, khẳng định rõ muốn phát
triển đất nước nhất thiết phải quan tâm và xây dựng, nâng cao chất lượng
ĐNCB có đầy đủ phẩm chất, năng lực, trình độ đáp ứng được yêu cầu. Mỗi
giai đoạn khác nhau thì yêu cầu về xây dựng ĐNCB, về chất lượng và nâng
cao chất lượng của ĐNCB đặt ra có sự khác nhau. Các công trình khoa học
nêu trên chủ yếu bàn dưới góc độ phương pháp luận và kinh nghiệm công tác
cán bộ ở nước ngoài, có ý nghĩa nhất định đối với việc nghiên cứu của đề tài.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về đội ngũ cán bộ và xây dựng đội
ngũ cán bộ quân đội


13

Trong lĩnh vực hoạt động quân sự, nghiên cứu về cán bộ và xây dựng
ĐNCB quân đội luôn được quan tâm, với nhiều công trình nghiên cứu dưới các
góc độ khác nhau song cơ bản tập trung làm rõ vị trí, vai trò của con người nói chung
và ĐNCB, sĩ quan nói riêng trong sức mạnh chiến đấu của quân đội, khẳng định đây
là nhân tố quyết định sự thành bại của hoạt động quân sự. Tuy nhiên, do tính chất đặc
thù và tính bảo mật cao nên các công trình nghiên cứu về cán bộ, xây dựng ĐNCB
của quân đội các nước trên thế giới ít được công bố rộng rãi; chủ yếu được công bố
gắn liền với các sản phẩm là bài viết đăng trên các tạp chí, sách,... tiêu biểu là:
Trong cuốn Lịch sử Công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ
trang Liên Xô 1918-1973, (1976), Đại tướng A.A. Êpisép, Chủ nhiệm Chính
trị Quân đội và Hải quân Liên Xô (chủ biên) [58], đã đặc biệt quan tâm đến

việc xây dựng ĐNCB sĩ quan Quân đội và Hải quân Liên Xô, trong đó đề
cập khá cụ thể vị trí, vai trò, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chính uỷ,
chính trị viên. mục tiêu, yêu cầu “Đào tạo và giáo dục các cán bộ chính trị”,
toàn diện cả phẩm chất, năng lực và phương pháp, tác phong công tác đáp
ứng nhiệm vụ trước mắt, nhiệm vụ lâu dài của quân đội và sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ đất nước. Nội dung công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng
chính uỷ, chính trị viên chỉ rõ: “Coi trọng việc lựa chọn cán bộ chính trị cho
Quân đội” và “Đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chính trị,
chính uỷ, chính trị viên” toàn diện, theo 2 phương hướng cơ bản: “Bằng học
tập ở các nhà trường quân sự” và “trực tiếp ở đơn vị” với 2 loại hình chủ
yếu: “Thường xuyên (các hội nghị hướng dẫn và bàn về phương hướng cụ
thể)” và “Định kỳ (thảo luận của cán bộ các cấp khác) được tiến hành trong
phạm vi các đại đội, các trung đoàn và các đơn vị đồn trú”. Trên cơ sở đó, đã
xây dựng, bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ chính trị, chính uỷ, chính trị viên
có đủ phẩm chất, năng lực và phương pháp tiến hành CTĐ,CTCT trong các
đơn vị của Hồng quân và hạm đội.
Tác giả A.A.Grê-Scô (1978), trong tác phẩm Các lực lượng vũ trang của Nhà nước
Xô-Viết, [61], đã luận giải và chỉ ra nguồn gốc sức mạnh chiến đấu của quân đội, của cán
bộ, chiến sĩ. Chỉ ra quy luật về phát huy sức mạnh tổng hợp, sức mạnh của nhân tố con
người, trong đó đề cập vai trò to lớn của đội ngũ những sĩ quan Hồng quân Liên Xô.


14

Chương VII của công trình nêu trên có luận giải về ĐNCB sĩ quan của các
lực lượng vũ trang đó là: “Không thể xây dựng và phát triển quân đội mà không có
một số lượng đầy đủ cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị, cán bộ kỹ thuật - kỹ sư được
đào tạo một cách thích đáng. Đó là chân lý hoàn toàn rõ ràng. Sĩ quan là cơ sở, là
sườn của quân đội và hạm đội” [61, tr.289]. Tác giả đã đưa ra những yêu cầu rất cụ
thể với cán bộ sĩ quan và việc đào tạo họ:

Một là, tính kiên định cộng sản chủ nghĩa, lòng trung thành vô hạn với Đảng
và nhân dân; Hai là, kỷ luật và ý thức chấp hành cao: sự tập trung tinh thần, sự sẵn
sàng và khả năng có thể thực hiện một cách chính xác và kịp thời mệnh lệnh của cấp
trên; Ba là, sáng kiến và tính chủ động; Bốn là, ý chí chỉ huy và năng lực tổ chức;
Năm là, trình độ nghiệp vụ cao, trình độ văn hóa chung và trình độ kỹ thuật - quân sự
cao; Sáu là, biết huấn luyện và giáo dục những người dưới quyền của mình.
Trong "Giáo trình Công tác đảng, công tác chính trị của Quân giải phóng
nhân dân Trung quốc” (1987) (dùng trong học viện, nhà trường trong thời kỳ
mới, do Trương Tử Nghị chủ biên, Nxb Đại học Quốc phòng Quân giải phóng
nhân dân Trung Quốc, 1986, người dịch Dương Minh Hào, Dương Thùy Trang)
[103], các tác giả đã đề cập chủ trương xây dựng cán bộ, sĩ quan quân đội theo
nguyên tắc “đức tài song toàn” và phương châm “Bốn hoá” là: Cách mạng hoá, trẻ
hoá, tri thức hoá và chuyên nghiệp hoá. Đây là yêu cầu cơ bản, là thước đo
để Trung Quốc lựa chọn, bồi dưỡng, giáo dục, đề bạt, sử dụng, giữ lại, thay thế cán
bộ. Việc thực hiện nguyên tắc, phương châm đó có ý nghĩa rất quan trọng đối với
công tác xây dựng ĐNCB quân đội.
Trong phần 4, từ chương 13 đến chương 16 là nội dung về xây dựng ĐNCB,
cán bộ quân đội. Trong đó, khẳng định: Con người là gốc của mọi sự sáng nghiệp,
đối với quân đội, công tác cán bộ là cái gốc của công tác xây dựng quân đội, xây
dựng hiện đại hóa quân đội phải dựa vào cán bộ. Đảng Cộng sản Trung Quốc, từ
trước tới nay luôn lấy việc tăng cường xây dựng ĐNCB là một nhiệm vụ tổ chức
quan trọng, là một bộ phận cấu thành công tác chính trị của quân đội. Đảng phải
có đủ ĐNCB “bốn hóa” lớn mạnh dồi dào sinh lực, vừa hồng, vừa chuyên để
làm lực lượng cốt cán hoàn thành nhiệm vụ chung, làm thay đổi sâu sắc xã hội


15

của giai đoạn hiện nay. Nếu như Đảng không có ĐNCB như vậy làm cốt cán, sự
nghiệp của Đảng rất khó có thể phát trển đi lên

Tác giả xác định việc xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng ĐNCB luôn có tính cấp
thiết, quan trọng, một trong những nhiệm vụ chiến lược lâu dài, có ý nghĩa quyết
định đến việc xây dựng quân đội cách mạng hóa, hiện đại hóa và chính quy hóa.
Nội dung xây dựng, bồi dưỡng ĐNCB phải toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, cả về
chính trị, quân sự, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, những kinh nghiệm thực
tiễn; chỉ ra các hình thức, phương pháp, con đường bồi dưỡng cán bộ.
Đồng thời, tác giả cho rằng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc rất
coi trọng hình thức phải kết hợp chặt chẽ đào tạo, bồi dưỡng ở các nhà trường
và bồi dưỡng ở đơn vị, khuyến khích, động viên cán bộ tự nghiên cứu, học
tập. Đặc biệt, tác giả rất chú trọng đến bồi dưỡng năng lực sáng tạo và rèn
luyện năng lực thực hành của cán bộ trong thực tiễn, là một trong ba tố chất
chủ yếu tạo nên năng lực và phẩm chất cán bộ trong quân đội; đó là một quá
trình liên tục, không tách rời, không thể gián đoạn. Mỗi cán bộ phải gian khổ
phấn đấu, cố gắng không ngừng, thực sự cầu thị, điều tra, nghiên cứu để nâng
cao trình độ năng lực của mình mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Cuốn sách nêu lên những vấn đề về cơ quan chính trị trong quân đội. Trong
đó, khẳng định: Vấn đề trọng tâm của xây dựng tổ chức cơ quan chính trị là lựa
chọn và phân phối tốt các cán bộ. Yêu cầu trước tiên với cán bộ là nhất định phải
có tính Đảng cao, có niềm tin mãnh liệt với sự nghiệp cách mạng và tinh thần
trách nhiệm cao, có tư tưởng chính trị vững vàng, có năng lực công tác và trình độ
khoa học, đồng thời cán bộ đến công tác tại cơ quan chính trị phải thông qua việc
rèn luyện ở cơ sở để thích ứng với các đặc điểm của cơ quan đó.
Ở Trung Quốc, để thực hiện tốt phương châm này, có một số tài liệu
dưới dạng nghiên cứu chuyên đề đã bàn đến vấn đề trí tuệ quân nhân; về đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân tài cho quân đội.
Trong “Điều lệ công tác chính trị Quân Giải phóng nhân dân Trung
Quốc” (2003), [55], đã chỉ ra yêu cầu về phẩm chất, năng lực của chính uỷ: Chính


16


uỷ phải dày công tu dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin; phải có trình độ lý luận
chủ nghĩa Mác và chính sách để thực hiện chức trách; nghiêm túc thực hiện tư
tưởng quan trọng “Ba đại diện”, kiên định niềm tin, lý tưởng; có tính đảng kiên
cường và ý thức tổ chức kỷ luật, kiên quyết chấp hành đường lối, phương châm của
Đảng và mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên; có kinh nghiệm công tác chính trị phong
phú, có năng lực tổ chức lãnh đạo và khả năng sáng tạo; có tố chất quân sự và trình
độ văn hoá, khoa học cao; có tác phong và phẩm chất đạo đức tốt; có tinh thần
chiến đấu anh dũng, quả cảm; có khả năng phân tích toàn diện, kiên trì nguyên tắc,
mở rộng phê bình và tự phê bình; có khả năng đoàn kết đồng chí, liên hệ mật thiết
với quần chúng; coi trọng sự thật, công bằng đúng mực, trong sạch, tự kiềm chế
làm gương cho người khác [55, tr.47].
Trong tác phẩm “Hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô trong lĩnh vực
đào tạo cán bộ quân đội” (1979), Tiến sĩ sử học Loblev.A.M. [84], đã chỉ rõ việc
muốn xây dựng một quân đội mạnh phải xây dựng được ĐNCB mạnh, trên cơ sở
tiến hành đồng bộ tất cả các khâu, các bước của công tác cán bộ, trong đó, chú
trọng khâu đào tạo, bồi dưỡng ĐNCB. Kinh nghiệm lớn của Đảng Cộng sản Liên
Xô trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại chiến thắng phát xít (1941 - 1945), đó
là: “Đảng thường xuyên chăm lo giáo dục, xây dựng ĐNCB sĩ quan vững về tư
tưởng, giỏi về quân sự và kỹ thuật” [84; tr.3]. Tác giả nhấn mạnh, phải luôn đổi
mới mục tiêu, chương trình, nội dung đào tạo của các học viện, nhà trường của
quân đội Xô-Viết. Công tác xây dựng, bồi dưỡng cán bộ phải làm thường xuyên,
liên tục, ráo riết về bản lĩnh chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ tác chiến, cách đánh
và kinh nghiệm chiến đấu phù hợp với đặc điểm của từng thời kỳ, từng mặt trận của
Quân đội và Hải quân Liên Xô. Để nâng cao trình độ, phẩm chất, năng lực toàn
diện cho đội ngũ sĩ quan quân đội, tác giả cho rằng việc tuyển chọn, đào tạo có
vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng.
Neang Phat (2016), trong luận án tiến sỹ “Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân
đội Hoàng gia Campuchia hiện nay”[102], cho rằng: trong Quân đội Hoàng gia
Campuchia, ĐNCB có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần xây

dựng quân đội, cơ quan, đơn vị VMTD, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Nhà


17

Vua, Chính phủ Hoàng gia và nhân dân giao cho. Từ khi ra đời đến nay, Hoàng
gia và Chính phủ Campuchia đặc biệt quan tâm, chăm lo xây dựng ĐNCB quân
đội, bảo đảm cho quân đội được quản lý và chỉ huy thông suốt. Trên cơ sở phân
tích các đặc điểm của ĐNCB, chỉ ra những yếu tố tác động đến xây dựng ĐNCB
Quân đội Hoàng gia Campuchia, tác giả đã đề xuất 06 giải pháp tăng cường xây
dựng ĐNCB Quân đội Hoàng gia Campuchia hiện nay. Giải pháp thứ 03, bàn về
đổi mới, nâng cao chất lượng tạo nguồn, tuyển chọn, quy hoạch ĐNCB Quân đội
Hoàng gia Campuchia, tác giả cho rằng: thực hiện đúng phương châm “động”,
“mở” và “mềm” trong quy hoạch ĐNCB các cấp, đảm bảo cho công tác quy
hoạch không hạn chế số người định sẵn, có nhiều nguồn để lựa chọn, không khép
kín trong từng cơ quan, đơn vị; cần nhớ đến chính sách tiến cử, bầu cử, thăng
chức vượt cấp của các triều đại Campuchia trong lịch sử dựng nước và giữ nước
nhằm trọng dụng, không bỏ sót người tài. Chính sách này, đã được thực tiễn lịch
sử chứng minh là đúng đắn và có hiệu quả.
PhornNara (2016), trong luận án tiến sỹ “Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội
Hoàng gia Campuchia hiện nay”, Luận án xác định quan niệm đội ngũ cán bộ
cấp chiến dịch chiến lược, làm rõ nhiệm vụ, vai trò, đặc điểm đội ngũ cán bộ
cấp chiến dịch, chiến lược Quân đội Hoàng Gia Campuchia. Xác lập và phân
tích quan niệm, yêu cầu phẩm chất năng lực của cán bộ cấp chiến dịch, chiến
lược Quân đội Hoàng gia Campuchia. Xác định quan niệm xây dựng phẩm
chất, năng lực của đội ngũ cán bộ cấp chiến dịch chiến lược quân đội Hoàng
gia Campuchia, chỉ rõ mục đích, chủ thể, lực lượng, nội dung, hình thức biện
pháp và phân tích 5 vấn đề có tính nguyên tắc xây dựng phẩm chất, năng lực
của đội ngũ cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược quân đội Hoàng gia
Campuchia. Tiến hành khảo sát một số cơ quan, đơn vị cấp chiến dịch, chiến

lược. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng xây dựng phẩm chất, năng lực của đội
ngũ cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược quân đội Hoàng gia Campuchia; Chỉ ra
các nguyên nhân của ưu điểm, khuyết điểm, rút ra một số kinh nghiệm xây
dựng phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược quân
đội Hoàng gia Campuchia. Luận án phân tích những yếu tố tác động, đề xuất


18

yêu cầu và những giải pháp tăng cường xây dựng phẩm chất, năng lực của đội
ngũ cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược quân đội Hoàng gia Campuchia hiện
nay. Đây là những đóng góp mới khi nghiên cứu vấn đề.
Bun Lon Sa Luôi Sắc (2014) trong bài "Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân
đội nhân dân Lào ngày càng vững mạnh và có chất lượng cao", [27], khẳng
định: ĐNCB giữ các cương vị, trọng trách lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các cơ
quan, đơn vị trong toàn quân là lực lượng nòng cốt trong tổ chức thực hiện
đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng; có vai trò quyết định trong tổ chức
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính
quy, rèn luyện kỷ luật và trong thực hiện các nhiệm vụ khác của quân đội. Vì
vậy, Đảng nhân dân cách mạng Lào luôn coi trọng lãnh đạo công tác cán bộ,
bảo đảm cho ĐNCB thực sự là lực lượng nòng cốt trong công tác xây dựng
Đảng, xây dựng quân đội, làm cho quân đội thực sự là lực lượng chính trị tuyệt
đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào.
Khi bàn về nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ huy, quản lý
đơn vị của ĐNCB, tác giả chỉ rõ: thực hiện các nội dung trong công tác cán
bộ, nâng cao trình độ mọi mặt của ĐNCB phải gắn với trách nhiệm lãnh đạo,
quản lý chỉ huy đơn vị; lấy kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao
của cán bộ để đánh giá chất lượng công tác xây dựng ĐNCB.
Các công trình nêu trên tiếp cận nghiên cứu về quân đội các nước có chế độ
chính trị khác nhau, song cơ bản đều nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc xây

dựng, nâng cao chất lượng ĐNCB, sĩ quan; đặc biệt coi trọng việc tuyển chọn, đào
tạo, sắp xếp, bố trí, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đãi ngộ; nâng cao trình
độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực sáng tạo, sự khéo léo và kinh nghiệm
tác chiến, khả năng linh hoạt, biết phối hợp tốt giữa các lực lượng.
1.2. Các công trình khoa học nghiên cứu ở trong
nước có liên quan đến đề tài luận án
1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về đội ngũ cán bộ và xây dựng
đội ngũ cán bộ


19

Cán bộ là gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng, chăm lo xây dựng ĐNCB và đổi mới công tác cán bộ luôn
được Đảng, Nhà nước, những nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên
cứu khoa học đặc biệt quan tâm. Trong những năm gần đây, đã có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu về ĐNCB và xây ĐNCB được công bố trên
các góc độ, phạm vi khác nhau về những nội dung trực tiếp liên quan đến đề
tài. Tiêu biểu:
Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), trong cuốn sách “Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [152], đã tập trung làm rõ luận
cứ khoa học của việc nâng cao chất lượng ĐNCB mà không sa vào việc mô tả
chung chung. Giải quyết được những vấn đề lý luận và phương pháp nâng cao
chất lượng ĐNCB trong thời kỳ mới. Xây dựng và phân tích khái niệm cán
bộ, phân loại cán bộ; khái niệm công chức; khái niệm viên chức; khái niệm
chuyên gia; khái niệm cán bộ lãnh đạo, chính khách.
Trên cơ sở nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về cán bộ, công trình đã làm rõ: vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán
bộ; tiêu chuẩn cán bộ; phát hiện, lựa chọn; đánh giá, sử dụng và cất nhắc cán bộ;

huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; công tác kiểm tra, quản lý và chính sách
đối với cán bộ. Các tác giả đã rút ra những kinh nghiệm xây dựng ĐNCB qua các
thời kỳ cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó kinh nghiệm cơ bản,
xuyên suốt là phải xuất phát từ lập trường giai cấp công nhân, vì lợi ích dân tộc,
chuẩn bị đường lối chính trị đồng thời phải chuẩn bị đường lối tổ chức và chiến
lược cán bộ, coi trọng tiêu chẩn cán bộ và trọng dụng nhân tài.
Luận giải sâu sắc cơ sở lý luận của xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, đưa ra
và phân tích rõ những kinh nghiệm xây dựng tiêu chuẩn cán bộ trong từng giai
đoạn cách mạng, trong đó nhấn mạnh những tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị,
lòng trung thành với Đảng, sự nghiệp cách mạng và với nhân dân, phẩm chất
đạo đức, lối sống, năng lực tổ chức thực tiễn... đồng thời, xác định yêu cầu
chung về chất lượng của đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp


20

hóa, hiện đại hóa đất nước, gồm: Trí tuệ hóa - chuyên gia hóa - văn hóa hóa
đội ngũ cán bộ; yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng (bao gồm
đạo đức cá nhân và đạo đức nghề nghiệp). Đề xuất quan điểm, phương hướng,
giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, trong đó, tập trung vào nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, sử dụng và đãi ngộ đối với cán bộ.
Mặc dù công trình chưa nghiên cứu sâu về cán bộ chính trị nói chung và đội
ngũ cán bộ cơ quan chính trị nói riêng, nhưng đây là công trình có sự đầu tư nghiên
cứu toàn diện về cán bộ, công tác cán bộ nước ta ở phạm vi rộng, cung cấp cơ sở
khoa học để tiếp tục nghiên cứu các đối tượng trong các lĩnh vực khác, trong đó có
đội ngũ cán bộ cơ quan chính trị ở các HV,TSQ trong quân đội.
Vũ Văn Hiền (2007), trong cuốn sách “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” [65] cho rằng, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, một mặt phải có những phẩm chất chung của người cán

bộ cách mạng, mặt khác phải có những phẩm chất riêng trên các mặt đạo đức, lối
sống, phong cách làm việc; phải có năng lực làm việc, năng lực tổ chức quản lý, năng
lực giáo dục quần chúng, năng lực tổng kết thực tiễn, năng lực giao tiếp đối thoại.
Những năng lực này, không có sẵn, không hình thành một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả của quá trình luyện tập, học hỏi, tích lũy. Trên cơ sở khái quát những chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng ĐNCB lãnh đạo, quản lý, đồng
thời đánh giá thực trạng đội ngũ này trên một số mặt (về độ tuổi, giới tính, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ…), qua đó đề xuất những giải pháp chủ yếu để xây dựng
ĐNCB lãnh đạo, quản lý: Đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác cán bộ; tạo lập
môi trường và điều kiện thuận lợi để tài năng lãnh đạo, quản lý nảy nở, phát triển;
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ.
Nguyễn Khắc Hà (2017), trong luận án tiến sĩ "Xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta
giai đoạn hiện nay" [62], đã khái quát những vấn đề lý luận và thực tiễn
về xây dựng ĐNCB lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua,
khen thưởng ở nước ta giai đoạn hiện nay, trong đó tập trung vào việc


21

làm rõ các khái niệm, nội dung, vai trò, mối quan hệ và đặc điểm của
công tác thi đua, công tác khen thưởng; khái niệm, chức trách, nhiệm vụ,
vai trò và đặc điểm của ĐNCB lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác
thi đua, khen thưởng; khái niệm, nội dung và những vấn đề có tính
nguyên tắc xây dựng ĐNCB lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi
đua, khen thưởng ở nước ta. Trên cơ sở những vấn đề lý luận, tác giả đã
khảo sát, đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và kinh nghiệm, những
vấn đề đặt ra cần giải quyết. Luận án dự báo những yếu tố tác động, mục
tiêu, phương hướng và những giải pháp chủ yếu tiếp tục xây dựng
ĐNCB này hiện nay, trong đó tập trung vào việc: Nâng cao nhân thức

của các cấp ủy đảng, chính quyền, lãnh đạo đơn vị về vị trí, vai trò của
thi đua, khen thưởng và việc xây dựng ĐNCB này trong tình hình mới;
xây dựng tiêu chuẩn từng chức danh cán bộ phù hợp với yêu cầu hiện
nay; đẩy mạnh việc tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân
chuyển cán bộ; thực hiện tốt việc quản lý, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ;
phát huy vai trò tự giác phấn đấu học tập, rèn luyện của bản thân cán bộ
và thực hiện tốt chính sách đối với đội ngũ cán bộ này.
Những công trình khoa học nêu trên, đã cung cấp những cơ sở khoa
học cho việc tiếp cận, luận giải những vấn đề về cán bộ, và xây dựng ĐNCB.
Đây, là một nội dung quan trọng bảo đảm cho công tác cán bộ luôn đi đúng
hướng, tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, đạt hiệu quả cao. Các chủ trương, giải
pháp xây dựng ĐNCB phải được tiến hành đồng bộ, làm tốt tất cả các khâu,
các bước từ tạo nguồn, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đến bố trí, sử dụng cán
bộ. Xây dựng ĐNCB phải bảo đảm cả số lượng và chất lượng chính trị. Những
công trình khoa học trên là cơ sở để vận dụng vào việc xác định các nội dung,
yêu cầu, giải pháp xây dựng ĐNCB của cơ quan chính trị ở các HV,TSQ trong
QĐND Việt Nam hiện nay.
1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về đội ngũ cán bộ quân đội và
xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam


22

* Công trình nghiên cứu về bồi dưỡng, nâng cao chất lượng
ĐNCB quân đội
Trong cuốn “Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới”, (2002), Nxb
QĐND [131] , các tác giả đã nghiên cứu và khẳng định vị trí, vai trò của đào
tạo, bồi dưỡng đối với xây dựng ĐNCB chính trị quân đội trong các thời kỳ
cách mạng. Nhấn mạnh và phân tích sâu sắc những vấn đề có tính quy luật

trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị. Trong đánh giá thực trạng,
đã đề cập và đánh giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giảng dạy, nghiên
cứu khoa học xã hội và nhân văn của quân đội. Đưa ra một số giải pháp cơ
bản nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị quân đội thời kỳ
mới. Trong đó, có một số biện pháp về nâng cao chất lượng nguồn đào tạo,
bồi dưỡng, xây dựng quy trình tổng thể đào tạo, bồi dưỡng, đổi mới toàn diện,
nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị.
Nguyễn Kim Ninh (2003), trong cuốn “Quan hệ giữa số lượng và chất
lượng con người trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay” [43], đã luận giải vấn đề số lượng, chất lượng và phân tích thực chất
mối quan hệ giữa số lượng, chất lượng con người trong sức mạnh chiến đấu của
quân đội. Theo tác giả, số lượng và chất lượng con người tuy là hai mặt khác nhau
nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau trong nâng cao sức mạnh
chiến đấu của quân đội, số lượng con người là yếu tố không thể thiếu được để hình
thành nên chất lượng con người và sức mạnh chiến đấu của quân đội, còn chất
lượng con người là yếu tố quyết định sức mạnh chiến đấu ấy. Đây, là tài liệu khoa
học quan trọng, giúp cho tác giả tiếp cận nghiên cứu quan niệm về chất lượng, số
lượng cán bộ và mối quan hệ của chúng trong xây dựng đội ngũ cán bộ.
Nguyễn Tiến Quốc (2011), trong cuốn “Nâng cao phẩm chất, năng lực
của đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay” [115], đã chỉ ra mô hình nhân cách người chính uỷ, chính trị viên được
cấu thành bởi: Phẩm chất (phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức), năng lực,
phương pháp tác phong công tác. Theo tác giả, “phẩm chất chính trị, phẩm


23

chất đạo đức, lối sống, trình độ kiến thức, năng lực toàn diện và phương pháp
tác phong công tác của chính ủy, chính trị viên luôn có mối quan hệ mật thiết,
tác động tương hỗ lẫn nhau, cùng hợp thành mô hình nhân cách của người

chính ủy, chính trị viên trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, vị trí, vai trò của mỗi
yếu tố không ngang bằng nhau, trong đó, phẩm chất chính trị, đạo đức là gốc,
là cơ sở nền tảng cho việc hình thành, phát triển các yếu tố khác” [115, 55].
* Công trình nghiên cứu về xây dựng ĐNCB quân đội
Đề tài của Tổng cục Chính trị (2000) “Xây dựng đội ngũ cán bộ quân
đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới” [127], là kết quả
nghiên cứu khoa học công phu, tương đối hệ thống cơ sở lý luận, thực tiễn, đề xuất
các giải pháp xây dựng ĐNCB quân đội trong thời kỳ mới. Ban đề tài đã đưa ra quan
niệm về cán bộ, ĐNCB và phân tích khá sâu sắc tiêu chuẩn cán bộ quân đội; tổng kết
sáu bài học kinh nghiệm xây dựng ĐNCB quân đội qua các thời kỳ xây dựng, chiến
đấu, công tác của quân đội. Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ về cơ cấu, chất lượng,
những hạn chế của ĐNCB quân đội. Đánh giá thực trạng ĐNCB khoa học công nghệ
quân sự, cán bộ khoa học nghệ thuật quân sự, cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự, cán
bộ y dược học quân sự và cán bộ khoa học xã hội và nhân văn.
Đề tài đưa ra năm giải pháp lớn về xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội
trong thời kỳ mới: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh của
hệ thống chính trị; quy hoạch tổng thể đội ngũ cán bộ quân đội; quy hoạch tạo
nguồn cán bộ chủ trì, đầu ngành cấp chiến lược, cán bộ phía Nam, cán bộ dân
tộc ít người; đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và củng cố hệ thống nhà
trường; tiếp tục sủa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách đối với cán
bộ và gia đình cán bộ. Đề tài, nghiên cứu làm rõ về cán bộ, công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ trong quân đội, đề tài là cơ sở rất quan trọng để vận dụng và
tiếp tục bổ sung, phát triển, cụ thể hoá khi nghiên cứu về xây dựng đội ngũ
cán bộ của cơ quan chính trị ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Trần Danh Bích (1996), trong luận án tiến sĩ: “Xây dựng cơ cấu hợp lý
đội ngũ cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới”
[17], đã đề cập, nghiên cứu về vị trí, vai trò của cán bộ và khẳng định, đội ngũ


24


cán bộ bao giờ cũng giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong xây dựng các tổ
chức trong hệ thống tổ chức quân đội. Các tác giả khái quát đưa ra nhận định
là, hiện nay, khái niệm về cán bộ, đội ngũ cán bộ, cơ cấu đội ngũ cán bộ quân
đội đã có bước phát triển mới, hoàn thiện hơn so với trước đây.
Việc xác định cơ cấu các diện bố trí cán bộ trong bảng chức danh cán
bộ là để lựa chọn, bồi dưỡng, sử dụng và thực hiện chính sách đãi ngộ phù
hợp với từng loại hình của tổ chức quân đội, thu hút tài năng của đất nước vào
phục vụ lâu dài trong quân đội. Trong một tổ chức, nếu công tác cán bộ được
thực hiện tốt toàn diện các nội dung, các khâu, các bước sẽ đảm bảo bố trí, sử
dụng hợp lý, phát huy tối đa tài năng, sức sáng tạo của cán bộ. Từ thực tiễn
xây dựng ĐNCB quân đội trong từng phạm vi được nghiên cứu, các tác giả đã
khái quát, phân tích các kinh nghiệm xây dựng các loại cán bộ.
Về phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội thời kỳ mới
được đề xuất và luận giải khá đầy đủ và phù hợp tình hình thực tế. Tuy vậy, đối với
cán bộ cơ quan chính trị trong quân đội cũng chỉ được đề cập nghiên cứu bước đầu
chung nhất về cán bộ ở một số cơ quan, đơn vị trong đối tượng và nội dung của
CTĐ,CTCT, nghiên cứu khái lược quá trình phát triển, tình hình số lượng, chất
lượng và cơ cấu cán bộ trong mối quan hệ với các loại cán bộ, về việc vận dụng
thực hiện chính sách đãi ngộ. Các tác giả chưa nghiên cứu về xây dựng ĐNCB cơ
quan chính trị trong các HV,TSQ quân đội, hoặc nếu có đề cập thì rất khái lược.
Nguyễn Quang Phát, (2001), trong luận án tiến sĩ “Xây dựng đội ngũ cán bộ
chính trị cấp phân đội của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [105], đã nghiên cứu luận giải làm sáng tỏ tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ chính trị viên và việc quán triệt tư tưởng đó vào
xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong giai đoạn mới. Tác giả khái quát quan điểm
của Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn cán bộ chính trị: Phải là người thật sự tiêu biểu về
đạo đức cách mạng; có năng lực toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ở đơn vị; thật
sự mẫu mực về phong cách, phương pháp công tác, lời nói đi đôi với việc làm. Xây
dựng ĐNCB chính trị phải tuyển chọn chặt chẽ qua thực tiễn phong trào cách

mạng; đào tạo, bồi dưỡng phải toàn diện, chú trọng nâng cao đạo đức cách mạng;


25

có phương pháp đánh giá đúng, khéo bố trí sử dụng cán bộ; quan tâm đến đời sống
vật chất, tinh thần để cán bộ phát huy hết khả năng trong công tác của mình.
Ngô Xuân Lịch, (2010), trong bài “Tăng cường công tác cán bộ trong
quân đội đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc” [83], cho rằng:
những năm qua công tác cán bộ, công tác cán bộ trong quân đội đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong thời kỳ
mới. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm: công tác quy hoạch,
bồi dưỡng tài năng; công tác đào tạo còn chậm đổi mới nội dung, chương
trình và chưa gắn chặt với mục tiêu sử dụng; chưa kết hợp chặt chẽ giữa đào
tạo theo chức vụ với đào tạo theo trình độ học vấn, giữa bồi dưỡng chuyên
môn với phát triển nhân cách....Đồng thời, tác giả đưa ra biện pháp nâng cao
chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng góp phần xây dựng ĐNCB vững
mạnh. ĐNCB phải được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng toàn diện.
Đối với cán bộ chỉ huy, quản lý phải chú ý kiến thức, năng lực toàn diện; cán
bộ chuyên môn, nghiệp vụ phải chú ý trình độ chuyên môn sâu; đào tạo càng
cao càng phải nhuần nhuyễn giữa kiến thức khoa học xã hội nhân văn với
kiến thức chuyên ngành và tạo được tiềm năng phát triển lâu dài. Trong quá
trình đào tạo, cùng với việc nâng cao trình độ lý luận, cần hết sức chú ý bồi
dưỡng năng lực thực tiễn, truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu; kết hợp giữa đào
tạo tại nhà trường với bồi dưỡng tại chức, gắn đào tạo với tự đào tạo.
Những kết quả nghiên cứu của các trên công trình có ý nghĩa thiết thực
đối với công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị nói chung,
cán bộ cơ quan chính trị nói riêng. Tuy nhiên, cần phải nghiên cứu bổ sung,
phát triển cho đầy đủ theo yêu cầu chất lượng đào tạo, xây dựng đội ngũ cán
bộ hiện nay. Với những vấn đề chưa được đề cập nghiên cứu như tạo nguồn

đào tạo, bồi dưỡng, vấn đề chính sách đào tạo cán bộ, nội dung, chương trình,
phương pháp giảng dạy, cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung đầy đủ hơn.
1.2.3. Nhóm công trình nghiên cứu về cơ quan chính trị và xây dựng
đội ngũ cán bộ cơ quan chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam


×