MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài: ..................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:........................................................................2
- Mục đích:.................................................................................................................2
Nhiệm
vụ
cứu:..............................................................................................2
nghiên
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:.........................................................................3
-Đối tượng:.................................................................................................................3
- Phạm vi:...................................................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu:………………………………………………………..3
5. Tính mới của đề tài:………………………………………………………………3
PHẦN 2: NỘI DUNG………………………………………………………………3
- Cơ sở lý luận:……………………………………………………………………..3
- Cơ sở thực tiễn:……………………………………………………………………5
- Các giải pháp tiến hành giải quyết vấn đề:………………………………………..6
* Biện pháp 1:Tìm hiểu cơ chế hấp thu các chất dinh dưỡng………………………6
* Biện Pháp 2: Trò chuyện, đàm thoại, lòng ghép giáo dục dinh dưỡng…………..8
* Biện pháp 3: Phối hợp tốt với phụ huynh………………………………………..15
- Thực nghiệm và kết quả thực hiện:………………………………………………16
PHẦN 3: KẾT LUẬN……………………………………………………………..17
- Kết luận: …………………………………………………………………………17
- Đề xuất và kiến nghị:…………………………………………………………….18
0
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP
TỔ CHỨC GIỜ ĂN NGON, ĐỦ DINH DƯỠNG CHO TRẺ MẪU GIÁO
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, tồn tại và phát
triển. Khi xã hội ngày càng phát triển thì giá trị con người ngày càng được nhận
thức đúng đắn và được đánh giá toàn diện. Vì một tương lai tươi sáng, trẻ em sẽ trở
thành chủ nhân hữu ích của tương lai, thì ngay từ tuổi ấu thơ trẻ phải được hưởng
nền giáo dục phù hợp, hiện đại và toàn diện về mọi mặt: Đức, trí, thể, mỹ, lao.
Trong các mặt giáo dục trên thì giáo dục thể chất cho trẻ phải là nhiệm vụ
hàng đầu, quan trọng nhất, vì sức khoẻ là vốn quý giá nhất và có ý nghĩa sống còn
với con người, đặc biệt đối với trẻ mẫu giáo. Chúng ta đều biết tầm vóc của đứa trẻ
lớn lên hàng ngày bởi vì cơ thể trẻ em là cơ thể đang lớn, đang phát trển không
ngừng theo từng giai đoạn. Sự phát triển thể chất của trẻ được đánh giá dựa vào
một số chỉ số thông thường như: chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu, tỉ lệ
các phần của cơ thể.
Ở lứa tuổi này, cơ thể trẻ đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ và hoàn
thiện dần. Vì thế cơ thể trẻ còn non yếu dễ bị phát triển lệch lạc và mất cân đối. Do
vậy trẻ chỉ có thể phát triển tốt nếu như được chăm sóc một cách hợp lý.
Giáo dục thể chất cho trẻ ở trường mầm non có thể thông qua nhiều biện
pháp, như: Tổ chức cho trẻ vận động phù hợp, nghỉ ngơi hợp lý, ăn uống đầy đủ…
Như vậy, một trong những biện pháp phát triển thể chất là tổ chức bữa ăn cho trẻ.
Cơ thể trẻ đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện, do đó, nó cần năng lượng
để xây dựng. Năng lượng đó lại do thức ăn cung cấp, vì thế thức ăn chỉ phát huy
hết vai trò của mình đối với cơ thể khi phù hợp với thể trạng và lứa tuổi.
1
Xuất phát từ những đặc điểm cơ thể trẻ luôn phát triển tuân theo những quy
luật cơ bản của sinh học, trình tự và tốc độ của sự phát triển phụ thuộc vào những
yếu tố về di truyền, môi trường sống và đặc biệt là phương pháp nuôi dưỡng và rèn
luyện thân thể một cách có ý thức.
Thông qua bữa ăn, trẻ được bù đắp những năng lượng đã tiêu hao và cung cấp
năng lượng để tham gia và các hoạt động mới. Vì vậy việc tổ chức bữa ăn cho trẻ ở
trường mầm non là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình chăm sóc
giáo dục trẻ.
Trên thực tế, việc tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ ở các trường mầm non vẫn còn
nhiều vấn đề cần phải bàn đến (nhất là đối với khu vực nông thôn - điều kiện cơ sở
vật chất, nhận thức của giáo viên, phụ huynh còn hạn chế). Thường trong các bữa
ăn của trẻ cô giáo mới chỉ chú ý làm sao cho trẻ ăn hết xuất chứ chưa chú ý đến
việc tổ chức làm sao cho trẻ ăn ngon miệng, làm sao để trẻ có tâm lý thoải mái khi
ăn. Chính vì lý do trên mà tôi mạnh dạn chọn đề tài “Tổ chức giờ ăn ngon cho trẻ
mầm non” làm bài sáng kiến kinh nghiệm của mình. Tôi mong muốn cùng các bạn
lựa chọn tìm ra phương pháp, biện pháp để chăm sóc giáo dục trẻ ngày một tốt
hơn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích:
Giúp trẻ ăn ngon hơn, việc hấp thu các chất dinh dưỡng tốt hơn từ đó trẻ phát
triển cân đối khỏe mạnh.
Giảm tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng, nâng cao tầm vóc trẻ em Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng việc tổ chức giờ ăn,
chế độ dinh dưỡng cho trẻ từ đó chọn lọc các hình thức tổ chức giờ ăn phù hợp
nhất.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
2
-Đối tượng: Một số biện pháp tổ chức bữa ăn, giúp trẻ ăn ngon, chế độ dinh
dưỡng của trẻ, cơ chế hấp thu thức ăn.
- Phạm vi: Đề tài chỉ nghiên cứu “Một số biện pháp tổ chức giờ ăn ngon, đủ
dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo”, khắc phục phần lớn những khó khăn chung đồng
thời phát huy cao nhất được tính tích cực của trẻ.
- Địa điểm: Lớp Chồ 1, Trường Mẫu giáo nhơn mỹ
- Đối tượng: 33/13
-Thời gian Nghiên cứu từ tháng 9/ 2018, đến tháng 5/ 2019 .
- Ngoài ra, sáng kiến cũng có khả năng áp dụng rộng trên tất cả các lứa tuổi
mẫu giáo ngoài ra còn cho tất cả cá bạn đồng nghiệp trong và ngoài trường tham
khảo học hỏi.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp sau.
+ Phương pháp quan sát.
+Phương pháp trực quan.
+ Phương pháp dùng lời.
+ Phương pháp Trò chơi.
5. Tính mới của đề tài:
Giúp trẻ mẫu giáo có một giờ ăn ngon miệng là một vấn đề hết sức quan trọng
trong việc phát triển thể chất cho trẻ, có sức khỏe tốt thì mới tiếp thu tốt, học tập
tốt, vui chơi thoải mái…. Tạo điều kiện giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt: trí
tuệ, thẩm mĩ, đạo đức, thể lực.
PHẦN 2: NỘI DUNG
- Cơ sở lý luận: Dựa vào (Quyết định số:226/ QĐ/TTg về phê duyệt “chiến
lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến 2030” ngày
3
22/02/2012) là “Mục tiêu chung đến năm 2020, bữa ăn của người dân được cải
thiện về số lượng, cân đối hơn về chất lượng, bảo đảm an toàn vệ sinh; suy dinh
dưỡng trẻ em, đặc biệt thể thấp còi giảm mạnh, góp phần nâng cao tầm vóc và thể
lực của người Việt Nam, kiểm soát có hiệu quả tình trạng thừa cân béo phì, góp
phần hạn chế các bệnh mãm tính không liên quan đến dinh dưỡng.”
“Suy dinh dưỡng ở trẻ em vẫn còn ở mức cao so với phân loại của Tổ chức Y
tế thế giới và còn có sự khác biệt giựa các vùng, miền. Đặc biệt là là suy dinh
dưỡng thấp còi - ảnh hưởng đến chiều cao, tầm vóc của Người Việt Nam, tỉ lệ này
vẫn còn ở mức cao(29,3% năm 2010) và phân bố không đều giữa các vùng, miền
trong cả nước.”
Chính vì thế nhiệm vụ của ngành giáo dục mầm non thưc hiện “Chương trình
giáo dục mẫu giáo thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 đến 6
tuổi phát triển hài hòa về mặt thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm kỹ năng xã
hội và thẩm mỹ, chuẩn bị cho trẻ vào học ở tiểu học”(STK chương trình khung).
Chính vì lẽ đó mà xã hội quan tâm chăm sóc trẻ về mọi mặt để đứa trẻ có một nhân
cách tốt, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, hồn nhiên, cơ thể phát triển hài hoà cân đối, đặc
biệt là lứa tuổi mầm non. Trẻ khỏe mạnh và thông minh là niềm hạnh phúc của gia
đình là sự phồn vinh của đất nước. Muốn trẻ khoẻ mạnh và thông minh thì vấn đề
dinh dưỡng phải hợp lý, chăm sóc nuôi dưỡng phải có khoa học đây là một việc
làm không thể thiếu được, là trách nhiệm của gia đình, cộng đồng và toàn xã hội.
Nếu trẻ bị suy dinh dưỡng thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển về thể lực và trí tuệ.
Thiếu dinh dưỡng trẻ sẻ trở thành một gánh nặng của mỗi gia đình, của toàn xã hội,
ảnh hưởng đến nguồn nhân lực trong tương lai của đất nước. Vì vậy vấn đề chăm
sóc nuôi dưỡng trẻ ở trong trường Mầm non là một vấn đề hết sức quan trọng.
Muốn tạo được thế hệ trẻ có sức khoẻ tốt, đáp ứng với thời đại khoa học hiện đại
thì chúng ta phải chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tốt, trẻ sẽ khoẻ mạnh và thông minh phát
triển toàn diện về mọi mặt. Mặc dầu được quan tâm nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ nhưng vẫn còn trẻ bị suy dinh dưỡng, mặc dù nhà trường cũng như các giáo
viên đã rất chú trọng đến bữa ăn cho trẻ, luôn đảm bảo cung cấp đầy đủ năng lượng
4
theo nhu cầu cơ thể trẻ và các chất dinh dưỡng luôn theo tỷ lệ cân đối hợp lý. Công
tác tuyên truyền giáo dục các bậc cha mẹ đã được thực hiện tương đối có hiệu quả.
Tuy nhiên, trong các bữa ăn ở lớp có nhiều trẻ vẫn còn có cảm giác chán ăn, thích
ăn thức ăn này, không thích ăn thức ăn kia. Mặt khác, một số giáo viên kiến thức về
dinh dưỡng, kỹ năng tổ chức bữa ăn cho trẻ còn hạn chế. Là một giáo viên trực tiếp
đứng lớp bán trú, tôi luôn xem công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ là một
nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với bản thân. Nên đứng trước những vấn đề trên,
bản thân tôi thực sự băn khoăn, trăn trở làm sao trong các bữa ăn hàng ngày của trẻ
ở lớp trẻ ăn không kiêng khem, trẻ ăn hết suất của mình một cách ngon lành, không
gượng ép. Do vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài "Một số biện pháp tổ chức giờ ăn
ngon, đủ dinh dưỡng cho trẻ Mẫu giáo" làm sáng kiến năm học 2018- 2019.
- Cơ sở thực tiễn: Theo nghiên cứu của Viện dinh dưỡng thì sự ăn uống có sự
ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của trẻ. Trẻ được nuôi dưỡng tốt, ăn uống đầy đủ
thì da dẻ hồng hào, thịt chắc nịch và cân nặng đảm bảo. Sự ăn uống không điều độ
sẽ ảnh hưởng đến sự tiêu hoá của trẻ. Nếu cho trẻ ăn uống không khoa học, không
có giờ giấc, thì thường gây ra rối loạn tiêu hoá và trẻ có thể mắc một số bệnh như
tiêu chảy, còi xương, khô mắt do thiếu VitaminA…
Thực tế lớp học của tôi thời điểm đầu năm có nhiều trẻ ăn kém, biến ăn, hấp
thu kém…Một số phụ huynh tâm sự “Tôi cho cháu ăn nhiều lắm mà không thấy
cháu tăng cân”, “ở nhà cháu không chịu ăn gì”…vì thế mong muốn của phụ huynh
khi gởi cháu vào trường Mẫu giáo là được các cô chăm sóc cho cháu tốt hơn. Cháu
phát triển cân đối khỏe mạnh là mong muốn của tất cả các bật cha mẹ. Chính vì thế
mà công tác chăm sóc trẻ ở trường mầm non rất quan trọng, đòi hỏi giáo viên phải
kiên trì, thật sự yêu nghề.
Bảng theo dõi thể lực đầu năm
Tháng 9
Bình thường
SDDV
SDDN
26
3
4
5
Ghi chú
Tỉ lệ
78,8%
9,1%
12,1%
Một số vấn đề cần lưu ý khi tổ chức bữa ăn cho trẻ ở trường mầm non như:
trẻ ăn có ngon không, có đủ dinh dưỡng không, trẻ thích ăn món gì…. không được
bắt buộc trẻ ăn hết suất nếu trẻ không muốn ăn làm như vậy thức ăn sẽ không được
hấp thu tốt, cho trẻ ăn không đúng lúc sẽ làm giảm khẩu vị, làm ức chế trung tâm
điều khiển ăn uống và làm phá hoại chế độ ăn uống đúng đắn. Ngoài ra, thức ăn có
hình thức đẹp, mùi vị hấp dẫn thì sẽ gây cảm giác thèm ăn cuả trẻ. Mọi khẩu phần
giành cho trẻ em thì phải cho ăn cùng một lúc để trẻ quen ăn hết khẩu phần.
- Các giải pháp tiến hành giải quyết vấn đề: Trong đề tài này tôi đã chọn và sử
dụng những biện pháp nghiên cứu sau:
* Biện Pháp 1: Tìm hiểu cơ chế hấp thu các chất dinh dưỡng.
Từ ngày xưa, con người đã biết mối quan hệ giữa ăn uống và sức khoẻ. Con
người là một thực thể sống, nhưng sự sống không thể tồn tại được nếu con người
không được ăn và uống. Khoa học dinh dưỡng cho chúng ta biết: Thức ăn, các chất
dinh dưỡng làm vật liệu xây dựng cơ thể con người. Các vật liệu này phải thường
xuyên được đổi mới và thay thế thông qua quá trình hấp thụ và chuyển hoá các chất
trong cơ thể. Ngược lại, khi cơ thể không được cung cấp đầy đủ các chất dinh
dưỡng sẽ không thể phát triển bình thường và đó là nguyên nhân gây ra bệnh tật
như: Suy dinh dưỡng, còi xương, thiếu máu do thiếu sắt...
Theo nghiên cứu của Viện dinh dưỡng thì ăn uống có sự ảnh hưởng rất lớn đến
sức khoẻ của trẻ. Trẻ được nuôi dưỡng tốt, ăn uống đầy đủ thì da dẻ hồng hào, thịt
chắc nịch và cân nặng đảm bảo. Sự ăn uống không điều độ sẽ ảnh hưởng đến sự
tiêu hoá của trẻ. Nếu cho trẻ ăn uống không khoa học, không có giờ giấc, thì
thường gây ra rối loạn tiêu hoá và trẻ có thể mắc một số bệnh như tiêu chãy, còi
xương, khô mắt do thiếu Vitamin A… Như vậy, vấn đề ăn uống đối với trẻ Mầm
non đó được quan tâm từ rất sớm. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ quan tâm đến ảnh
hưởng của sự ăn uống về sức khoẻ và bệnh tật của trẻ. Đồng thời các tác giả cũng
cho rằng: để có cơ thể phát triển tốt, tránh được bệnh tật thì cần phải đảm bảo một
6
chế độ ăn uống khoa học, hợp lý và vệ sinh, thức ăn có hình thức đẹp, mùi vị hấp
dẫn thì sẽ gây cảm giác thèm ăn của trẻ. Mọi khẩu phần giành cho trẻ em thì phải
cho ăn cùng một lúc để trẻ quen ăn hết khẩu phần của trẻ. Mọi sự đổi mới trong cấu
tạo cơ thể con người, nguồn năng lượng cho cơ thể hoạt động, sinh trưởng và phát
triển... đều lấy từ các chất dinh dưỡng khác nhau do thức ăn cung cấp qua khẩu
phần ăn hằng ngày. Do đó, trong đời sống con người, dinh dưỡng chiếm một vị trí
quan trọng đặc biệt. Chế độ dinh dưỡng có ảnh hưởng quyết định đến sự sinh
trưởng và phát triển của cơ thể. Tình trạng dinh dưỡng tốt của con người phụ thuộc
vào khẩu phần dinh dưỡng thích hợp, phụ thuộc vào kiến thức ăn uống khoa học
các thói quen của mỗi người. Vì vậy muốn khoẻ mạnh cần được ăn uống hợp lý và
đảm bảo vệ sinh. Do đó bữa ăn đối với con người rất quan trọng. Nếu chúng ta ăn
mà không biết mình đang ăn gì thì rất là nguy hiểm. Vì vậy việc tổ chức bữa ăn tại
trường Mầm non vô cùng quan trọng đối với cơ thể trẻ em.
Hoạt động của cơ quan tiêu hóa phụ thuộc vào sự muốn ăn của cơ thể. Cảm
giác muốn ăn có liên quan đến sự hưng phấn của trung khu thần kinh điều khiển ăn
uống của bộ não, từ đó có sự liên quan đến tăng cường các phản xạ ăn uống. Vì vậy
nếu ta không muốn ăn thì dịch tiêu hóa sẽ tiết ra ít, thức ăn sẽ tiêu hóa chậm hơn và
ít hiệu quả hơn.
Để trẻ có cảm giác muốn ăn, ăn ngon miệng thì điều trước tiên của chúng ta là
thành lập cho trẻ phản xạ ăn uống có điều kiện, phụ thuộc vào sự ngon miệng của
trẻ, nghĩa là phụ thuộc vào sự hưng phấn của trung khu thần kinh ăn uống.
Như vậy muốn tạo cảm giác muốn ăn, ăn ngon miệng của trẻ thì cần phải hình
thành những thói quen ăn uống đúng giờ giấc theo chế độ sinh hoạt một ngày ở
trường mầm non. Khi thói quen hình thành thì chỉ cần đến giờ ăn thì các cơ quan
tiêu hóa bắt đầu tiết dịch trước khi ăn. Khi đó trẻ có cảm giác muốn ăn và khi được
ăn sẽ ngon miệng, đồng thời thức ăn sẽ được tiêu hóa nhanh, hấp thu tốt.
7
Bên cạnh đó còn phụ thuộc vào: phòng ăn sạch sẽ, dụng cụ ăn uống, cách chế
biến các món ăn, cách bố trí trên bàn ăn cũng rất quan trọng tạo ra cảm giác muốn
ăn của cơ thể.
Tổ chức bữa ăn cho trẻ mẫu giáo cần đáp ứng nhu cầu năng lượng tại trường
735 – 882 Kcal/ ngày, ăn đủ các chất dinh dưỡng trẻ được cô giáo chăm sóc nuôi
dưỡng tại trường. Trẻ được ăn uống đầy đủ, vui chơi phù hợp với lứa tuổi, được
chăm sóc giấc ngủ, kích thích trẻ phát triển thông qua giáo dục, trên cơ sở đó phát
triển toàn diện cả về thể chất và tinh thần, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc
sức khoẻ. Tổ chức ăn tại trường, góp phần giáo dục vệ sinh, dinh dưỡng, giúp trẻ
rèn luyện kỹ năng thực hành, tự phục vụ thông qua các bữa ăn và các hoạt động
trong ngày. Tổ chức bữa ăn cho trẻ, đảm bảo được chế độ ăn của trẻ, đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm.
* Biện pháp 2: trò chuyện đàm thoại, lòng ghép, giáo dục dinh dưỡng .
Cho trẻ làm quen với các nhóm thực phẩm và giáo dục trẻ biết về tầm quan
trọng của các chất dinh dưỡng của các nhóm thực phẩm đó đối với cơ thể trẻ.
Không một thực phẩm nào cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cơ thể, chính
vì vậy chúng ta cần phối hợp cho trẻ ăn nhiều loại thực phẩm khác nhau thì mới
đảm bảo đủ chất.
Chúng thuộc 4 nhóm chính:
+Nhóm chất đạm
+ Nhóm chất bột đường
+ Nhóm chất béo, dầu mỡ
+ Nhóm rau quả
8
- Việc cho trẻ làm quen với các
nhóm thực phẩm giàu chất dinh
dưỡng rất cần thiết đối với cơ thể
trẻ. Khi trẻ đã làm quen và biết
được tầm quan trọng của các chất
dinh dưỡng đó đối với cơ thể thì trẻ sẻ hứng thú và thích tìm hiểu về các thực phẩm
đó. Vì vậy tôi đã chú trọng đến việc xây dựng môi trường giáo dục dinh dưỡng ở
trong lớp như: treo tranh ảnh các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng như thịt cá các
loại, trái cây, rau củ đẹp, màu sắc tươi, hấp dẫn.
- Sưu tầm, các bài thơ, câu đố, trò chơi về các món ăn, các loại thực phẩm,
các bài hát, bài đồng dao. Ví dụ: bài thơ “vè trái cây” câu đố về quả dưa hấu… Làm
thêm các đồ dùng, đồ chơi ở các góc như: Đồ chơi về rau, củ, quả, tranh lô tô dinh
dưỡng.
Ví dụ: Bài thơ "Ăn quả"
Bé ăn nhiều quả người khỏe mạnh ra
…..
bé ăn quả mận da dẻ hồng hào
bé ăn quả đào sạch răng sạch lưỡi
bé ăn quả bưởi nhiều sinh tố c….
Qua bài thơ giúp bé biết nhiều loại quả trong quả bưởi có nhiều sinh tố c khi
ăn giúp bé khỏe mạnh.
Hay qua bài thơ “Giờ ăn”
Đến giờ ăn cơm
9
Vào bàn bạn nhé
Nào thìa bát đĩa
Mút cho gọn gàng
Chớ vội chớ vàng
Cơm rơi cơm vãi.
Tôi thường cho cháu đọc trước mõi bữa ăn để cháu có hành vi lịch sự, văn
minh trong ăn uống, ăn từ tốn.
* Tích cực lồng ghép vào các hoạt động trong ngày và trong các bữa ăn:
+ Lồng ghép vào các hoạt động học tập:
- Có thể lồng ghép dinh dưỡng thông qua tất cả các hoạt động trong ngày.
Ví dụ: giờ thể dục cô có thể lòng ghép cháu chạy lên chọn thực phẩm giàu
đạm( thịt, cá, trứng sữa), thực phẩm có nhiều vitamin (rau, củ, quả) hay qua trò
chơi “ mẹ đi chợ” trẻ thích làm nội trợ, biết tên các loại thực phẩm.
- Thông qua các hoạt động đó trẻ sẽ biết được tên gọi, các chất dinh dưỡng và
tác dụng của các thực phẩm chẳng hạn như: Trong hoạt động khám phá" một số
loại quả", “Làm thế nào để bé lớn lên khỏe mạnh”… thì trẻ sẻ biết được các loại
các loại quả đó cung cấp nhiều Vitamin …thực phẩm nào cần thiết cho cơ thể, giúp
cho cơ thể khỏe mạnh như thế nào.
- Trong hoạt động tạo hình trẻ được làm quen với các loại thực phẩm như: nặn
bánh, xếp các loại quả, nặn các loại quả...Thông qua đó cô giáo đã giáo dục cho trẻ
biết được các chất dinh dưỡng. Thông qua các bài thơ, câu chuyện, bài hát trẻ cũng
biết được về các thực tế và các chất dinh dưỡng của các loại thực phẩm đó.
- Mặt khác thông qua các hoạt động đó còn giúp trẻ nhận biết các loại thức ăn
có sẵn ở địa phương như cá, thịt lợn, các loại rau, các loại trái cây…. giúp trẻ biết
lợi ích thức ăn đối với sức khỏe của cơ thể, biết một số bệnh liên quan đến ăn uống.
+ Thông qua các bữa ăn hàng ngày:
10
- Trong các bữa ăn cô giới thiệu cho trẻ biết món ăn và các chất dinh dưỡng
mà trẻ sẽ được ăn trong món ăn, các món ăn đó được chế biến là nhờ bàn tay khéo
léo của các cô nhà bếp bằng việc phối hợp các loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng
tạo sự hứng thú cho trẻ khi ăn, đặc biệt là các món ăn mới, động viên trẻ ăn ngon,
ăn hết suất không kén chọn mà phải ăn các thức ăn do cô nhà bếp chế biến rất vất
vã.
Ví dụ: Cô giới thiệu “Hôm nay các con sẽ được ăn Cơm rang dương châu,
canh susu nấu tép. Các con xem trong cơm rang có những gì….có thơm ngon
không, con ngửi xem.” qua gợi ý của cô trẻ quan sát bát cơm của mình, biết được
trong bát cơm có nhiều thực phẩm khác nhau như: cơm, thịt lợn, trứng vịt màu
vàng, lạp xưởng màu đỏ, đậu cove màu xanh, củ cải màu đỏ…Cháu nhìn bát cơm
với màu sắt hấp dẫn thơm lừng sẽ tạo cho cháu cảm giác thèm ăn, muốn được ăn
ngay.
- Giáo dục trẻ có nề nếp ăn uống sạch sẽ, văn minh, lịch sự như: Rửa tay
sạch trước khi ăn, biết mời cô và các bạn ăn cơm, ngồi ngay ngắn trước khi ăn,
không co chân lên ghế trong khi ăn, ăn uống từ tốn, ăn chậm nhai kĩ, không ngậm
cơm, biết lấy tay che miệng, quay chổ khác khi hắt xì, không để thức ăn rơi vãi ra
sàn nhà hoặc bàn, không bốc cơm, thức ăn hoặc xúc thức ăn từ bát này sang bát
khác tránh mất vệ sinh.
- Giáo dục trẻ biết ăn uống đúng cách để có lợi cho sức khỏe như: Ăn chín,
uống sôi, ăn sạch, uống sạch, ăn chậm nhai kĩ, ăn nhiều loại thức ăn khác nhau, ăn
uống giúp cho cơ thể khỏe mạnh, thông minh, chống lớn mới ngoan và học giỏi.
- Cô cần đi đến từng trẻ động viên, nhắc nhỡ, đút cơm, cho những trẻ ăn chậm,
trẻ mới ốm dậy, trẻ mới đi học để tạo cho trẻ tâm thế thoải mái trong khi ăn, giúp
trẻ ăn ngon miệng hết khẩu phần ăn của trẻ.
* Phối hợp chặt chẽ với nhà bếp và các nhóm lớp để lựa chọn thực phẩm hợp
lý với trẻ.
Xây dựng chế độ ăn, khẩu phần ăn phù hợp với độ tuổi:
11
- Nhu cầu khuyến nghị về năng lượng của 1 trẻ trong một ngày là: 12301320 Kcal.
- Nhu cầu khuyến nghị về năng lượng tại trường của 1 trẻ trong một ngày
(chiếm 50 – 55% nhu cầu cả ngày): 615 - 726 Kcal.
Số bữa ăn tại cơ sở giáo dục mầm non: Tối thiểu một bữa chính và một bữa
phụ.
Năng lượng phân phối cho các bữa ăn: bữa chính buổi trưa cung cấp từ 30%
đến 35% năng lượng cả ngày. Bữa phụ cung cấp từ 15% đến 25% năng lượng cả
ngày.
Tỷ lệ các chất cung cấp năng lượng theo cơ cấu:
+ Chất đạm (Protit) cung cấp khoảng 13 - 20 % năng lượng khẩu phần.
+ Chất béo (Lipit) cung cấp khoảng
25 - 35 % năng lượng khẩu phần.
+ Chất bột (Gluxit) cung cấp khoảng 52- 60 % năng lượng khẩu phần.
+ Nước uống: khoảng 1,6 – 2,0 lít / trẻ/ngày (kể cả nước trong thức ăn).
Xây dựng thực đơn hàng ngày, theo mùa và dinh dưỡng phải cân đối.
Mặt khác tôi còn tham khảo, trao đổi với các lớp xem những món ăn đó như
thế nào có phù hợp với trẻ hay không. Nếu những món ăn đó không phù hợp và
chưa đảm bảo được năng lượng thì tôi sẽ trao đổi với nhà bếp, BGH nhà trường để
12
lựa chọn thực phẩm phù hợp và cùng với nhà bếp nghiên cứu để xây dựng thực đơn
hàng tuần, hàng tháng phù hợp với trẻ hơn, với điều kiện thực tế các thực phẩm sẵn
có ở địa phương.
* Phải nắm được quy trình của việc tổ chức một bữa ăn cho trẻ: Thông thường
tổ chức bữa ăn cho trẻ được tiến hành 3 bước:
a. Trước khi ăn:
- Cô cần làm tốt khâu chuẩn bị đồ dùng phương tiện, vệ sinh cho cô và trẻ.
Đồ dùng phương tiện phải đầy đủ sạch sẽ như bát thìa được nhúng nước sôi, số thìa
phải dư so với số trẻ, dĩa để thức ăn và cơm rơi, dĩa để khăn, khăn đã được giặt
sạch, bàn ghế sạch sẽ được sắp xếp sẵn và thuận tiện khi chăm sóc, nước uống, bố
trí nơi ăn của trẻ phải rộng rãi thoáng mát, thức ăn phải được đựng trong dụng cụ
sạch có nắp đậy kín.
- Trước khi ăn cô và trẻ phải vệ sinh sạch sẽ như: Rửa tay, lau mặt theo đúng
quy trình, cho trẻ đi tiểu tiện. Cô rửa tay sạch, đầu tóc, áo quần sạch sẽ gọn gàng,
đeo khẩu trang, mang tạp dề để đảm bảo an toàn vệ sinh.
b.Trong khi ăn:
- Cô chia cơm vào tô, thức ăn mặn ra dĩa, canh vào thao chia xong cô mời trẻ
vào bàn ăn.
13
- Trẻ ngồi ngay ngắn ở bàn ăn.
- Cô giới thiệu giờ ăn đã đến rồi và nhắc nhở trẻ ngồi ngay ngắn nghiêm túc,
không co chân lên ghế, không xô đẫy bàn ghế.
- Cô giới thiệu tên các món ăn và chất dinh dưỡng của các món ăn đó.
Ví dụ: Hôm nay các con ăn cơm với món mặn là Thịt rim tép, món canh là
Canh rau dền mướp hương nấu thịt. Thịt và tép có nhiều chất đạm giúp con mau
lớn, trong rau có nhiều vitamin và chất sơ ăn rất tốt cho sức khỏe.
- Cô nhắc trẻ mời cô, mời các bạn cùng ăn cơm, sau đó cô mời các cháu ăn
cơm trẻ mới được ăn.
- Trong khi trẻ ăn cô cần bao quát hết trẻ, chú ý nhắc nhở động viên trẻ ăn
không để cơm rơi vãi không nói chuyện riêng không được xúc cơm và thức ăn
sang bát của bạn, nhắc trẻ ăn uống từ tốn, ăn chậm nhai kỷ.
- Trẻ ăn xong cơm cô tiếp tục chia canh cho trẻ.
c. Sau khi ăn:
- Trẻ ăn xong nhắc trẻ đưa chén cất vào thao, cô lau miệng, lau tay cho trẻ và
cho trẻ uống nước súc miệng sạch sẽ, đi vệ sinh vào chuẩn bị nằm ngủ.
14
- Cô thu dọn bàn, cơm rơi vãi trên bàn, không hắt cơm xuống sàn nhà, lau bàn
bằng khăn ướt, giặt sạch và phơi khô. Quét sạch thức ăn, cơm rơi dưới sàn nhà. Lau
sạch sàn nhà sau mỗi bữa ăn.
- Rửa bát thìa, soong nồi bằng nước rữa bát và nước sạch, tráng lại ít nhất hai
lần bằng nước sạch. Phơi nắng bát thìa riêng của lớp. Sau khi phơi khô đậy kĩ cất ở
nơi quy định và chỉ dùng các dụng cụ trên khi chia thức ăn cho trẻ.
* Biện pháp 3: Phối hợp tốt với phụ huynh
Làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh: Công tác tuyên truyền
phối kết hợp giữa nhà trường với gia đình và cộng đồng xã hội là việc làm không
thể thiếu được ở các trường Mầm non. Vì vậy lớp đã chuẩn bị trước nội dung tuyên
truyền sau:
- Nuôi con bằng sữa mẹ
- Theo dõi sức khoẻ trẻ bằng biểu đồ phát triển.
- Phòng chống các bệnh suy dinh dưỡng.
- Vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Phối hợp với đơn vị Y tế khám sức khoẻ định kỳ cho trẻ 2 lần/năm.
- Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh về tầm quan
trọng của việc tổ chức bữa ăn cho trẻ bằng nhiều hình thức như: Qua các buổi họp
phụ huynh, qua các giờ đón, trả trẻ, qua góc tuyên truyền cha mẹ cần biết của lớp.
15
- Phối hợp chăt chẽ với phụ huynh trong việc tổ chức bữa ăn cho trẻ như: trao
đổi những kinh nghiệm, những biện pháp để nâng cao chất lượng tổ chức bữa ăn
cho trẻ nhằm đem lại cho trẻ có một sức khỏe tốt.
- Ngoài ra nhà trường kết hợp với hội phụ huynh và các giáo viên trong trường
về công tác giám sát dinh dưỡng, chế độ ăn của trẻ hàng ngày để gây được lòng tin
trong phụ huynh.
Ví dụ: Mời phụ huynh tham quan nhà bếp, nếm thử thức ăn xem có ngon, phù
hợp với trẻ không.
- Nhờ công tác phối kết hợp với phụ huynh chặt chẽ nên trong năm vừa qua
phụ huynh tin tưởng để gữi con vào trường đông tạo điều kiện cho nhà trường làm
tốt công tác huy động số lượng đạt 100% và vượt chỉ tiêu trên giao.
- Thực nghiệm và kết quả thực hiện:Qua quá trình cố gắng và đưa hết khả
năng của mình vào thực hiện sáng kiến, cộng với sự ủng hộ của các giáo viên trong
lớp, cùng với sự chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường, sự phối hợp của các
bậc phụ huynh, Tôi đã sử dụng các biện pháp nói trên một cách hợp lý nên đến nay
chất lượng bữa ăn đã được nâng lên rõ rệt và đạt được những kết quả sau:
Thông qua việc xây dựng môi trường giáo dục dinh dưỡng và lồng ghép dinh
dưỡng vào các hoạt động trong ngày đã gây được sự chú ý của trẻ và đem lại hứng
thú cho trẻ với các món ăn trong các bữa ăn, trẻ luôn ăn hết suất của mình đảm bảo
đủ các chất dinh dưỡng trong ngày, kết quả cân đo cho thấy trẻ tăng cân rõ rệt.
Bảng so sánh kết quả
Bình thường
SDDV
SDDN
Có 26 trẻ tỉ lệ 78,8%
Có 3 trẻ tỉ lệ 9,1%
Có 4 trẻ tỉ lệ 12,1%
Tháng 12 Có 29 trẻ tỉ lệ 87,8%
Có 2 trẻ tỉ lệ 6,1%
Có 2 trẻ tỉ lệ 6,1%
Tháng 3
Có 1 trẻ tỉ lệ 3,0%
0
Tháng 9
Có 32 trẻ tỉ lệ 97,0%
16
Qua kết quả trên cho thấy tất cả các trẻ đều tăng cân và tỉ lệ trẻ suy dinh
dưỡng giảm đáng kể: từ 7 trẻ suy dinh dưỡng cả 2 thể còn 4 trẻ suy dinh dưỡng ở
tháng 12 và tiếp tục giảm còn 1trẻ suy dinh dưỡng ở tháng 3.
Từ đó phụ huynh ngày càng tin tưởng vào cô giáo và nhà trường hơn đã chú
trọng hơn vào việc đóng góp tiền ăn và tổ chức bữa ăn của trẻ, kiến thức về dinh
dưỡng ngày một nâng cao. Thường xuyên trao đổi tình hình sức khỏe của trẻ với
giáo viên từ đó việc kết hợp giữa nhà trường và gia đình ngày càng gắn bó hơn.
Thông qua việc thường xuyên tổ chức bữa ăn theo quy định đã tạo cho trẻ có
thói quen ăn uống sạch sẽ, văn minh, lịch sự, hình thành cho trẻ một số thói quen
như: Biết rửa tay sạch trước khi ăn, biết chào mời, ngồi ngay ngắn trước khi ăn,
không co chân lên ghé trong khi ăn, không để cơm rơi vãi, không nói chuyện riêng
khi ăn. Ăn uống từ tốn, ăn chậm nhai kĩ, không xúc cơm và thức ăn sang bát của
bạn.
Đối với bản thân phải hiểu và nắm chắc được kiến thức, kĩ năng thực hành về
dinh dưỡng và tổ chức bữa ăn cho trẻ một cách hợp lý và khoa học.
Với những biện pháp cơ bản trên và bằng những việc làm cụ thể của bản thân,
sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường nên chất lượng tổ chức bữa ăn ngày
càng được nâng lên rõ rệt và đem lại hiệu quả cao trong công tác chăm sóc nuôi
dưỡng trẻ, tỉ lệ suy dinh dưởng giảm hẳn so với đầu năm học, 97,0% trẻ đều đạt sức
khỏe cân nặng và chiều cao bình thường có 1 trẻ suy dinh dưỡng 3,0%.
PHẦN 3: KẾT LUẬN
- Kết luận: Chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ở Trường Mẫu giáo là một
nhiệm vụ vô cùng quan trọng là yếu tố quyết định của Trường Mẫu giáo, chăm sóc
trẻ ở lứa tuổi mầm non tốt là nền móng đầu tiên cho việc phát triển một con người
toàn diện và đây là trách nhiệm của mỗi giáo viên Mầm non, mỗi gia đình, của mỗi
cộng đồng bằng nhiều biện pháp tích cực và việc làm cụ thể. Trẻ em có sức khoẻ
tốt sẽ phát triển toàn diện mọi mặt về "Đức - trí - Thể - Mỹ”. Hình thành những yếu
tố đầu tiên của nhân cách con người mới Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Chuẩn bị
17
mọi điều kiện đầy đủ cho trẻ vào lớp 1. Mỗi một giáo viên cần phải nắm vững trách
nhiệm của mình là đảm bảo nuôi dưỡng trẻ khỏe mạnh và an toàn. Chính vì vậy mà
trong năm học qua bản thân tôi đã tích cực học tập, nghiên cứu, thực hành nhằm
tìm ra các biện pháp để nâng cao chất lượng tổ chức bữa ăn cho trẻ mầm non. Hoạt
động đó đã đem lại kết quả đáng phấn khởi như: Kiến thức dinh dưỡng, kỹ năng
thực hành tổ chức bữa ăn ngày càng đạt kết quả cao. Nâng cao được nhận thức của
phụ huynh về công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng
trẻ được nâng lên một bước, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm so với đầu năm học.
Quy trình tổ chức bữa ăn được thực hiện thường xuyên và đạt hiệu quả cao.
Trên đây là những vấn đề qua thực tế học hỏi mà bản thân tôi đã thực hiện
được. Kính mong Ban giám hiệu trường các cô, các cấp lãnh đạo xét duyệt, bổ
sung, góp ý chân thành để sáng kiến kinh nghiệm của tôi mang tính khả thi cao
hơn, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non tốt
hơn, đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục Mầm non trong giai đoạn hiện nay.
Xin chân thành cảm ơn!
- Đề xuất và kiến nghị: Ngày nay đời sống, xã hội phát triển, đòi hỏi những
trẻ mầm non phải được học trong môi trường có đủ điều kiện để trẻ phát triển toàn
diện cả về nhân cách lẫn trí thức. Vì thế tôi có một số kiến nghị với phòng giáo dục
và ban giám hiệu nhà trường là: Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị thường xuyên
tổ chức các buổi tập huấn chuyên đề cho trẻ để giáo viên có cơ hội học hỏi nâng
cao trình độ chuyên môn.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chương trình giáo dục mầm non.
2. Hướng dẫn thực hiện kế hoạch năm học và hồ sơ chuyên môn.
3. Hướng dẫn tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục trong trường mầm
non theo chủ đề.( Lê Thu Hương).
4. Hướng dẫn tổ chức các hoạt động giáo dục phát triển thể chất cho trẻ trong
trường mầm non.
5. Quyết định số:226/QĐ/TTg về phê duyệt “chiến lược quốc gia về dinh
dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến 2030” ngày 22/02/2012.
6. Tuyển tập thơ ca, truyện kể, câu đố, cho trẻ mầm non.
7. Tạp chí mầm non.
Xác nhận của Hiệu Trưởng
Nhơn Mỹ, Ngày 10 tháng 5 năm 2019
Người Viết
Trần Thị Mộng Thu
19