Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Khảo sát đơn thuốc sử dụng cho bệnh nhân điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa châu thành hậu giang năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.49 KB, 30 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Do tầm quan trọng và ý nghĩa nhiều mặt của đơn thuốc, các thầy thuốc
thường rất thận trọng khi kê đơn để đơn thuốc chính xác, hợp pháp, hợp lý, có
đầy đủ các hướng dẫn cần thiết bảo mật an toàn cho bệnh nhân trong quá trình
điều trị. Trong bối cảnh chi phí y tế ngày càng trở thành gánh nặng cho ngân
sách quốc gia, quỹ bảo hiểm y tế và túi tiền bệnh nhân, các chuyên gia y dược,
các nhà xã hội học và các nhà kinh tế y tế ngày càng nhấn mạnh đến khía cạnh
chuyên môn và kinh tế của việc kê đơn, chống lãng phí trong kê đơn và sử dụng
thuốc.
Tuy nhiên, trên thực tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau, vẫn còn rất
nhiều sai sót trong các đơn thuốc như: kê sai tên thuốc, nhầm lẫn liều lượng chỉ
định, quá liều gây ngộ độc, kê quá nhiều thuốc gây tương tác có hại giữa các
thuốc, khó kiểm soát tác dụng phụ có hại của thuốc và tăng gánh nặng chi phí y
tế và chi phí thuốc men. Kê đơn quá nhiều loại thuốc còn góp phần làm cho
bệnh nhân phụ thuộc vào thuốc và trong một số trường hợp gây nghiện thuốc
(với thuốc gây nghiện và hướng tâm thần...). Xét về mặt chuyên môn, các sai
sót nói trên đã tạo ra hậu quả xấu về nhiều mặt, giảm chất lượng khám chữa
bệnh và giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Tại Việt Nam, nhiều bất cập về sử dụng thuốc tại các cơ sở y tế đã phát
hiện. Chính vì lý do đó, việc kê đơn thuốc an toàn, hợp lý trở thành nhiệm vụ cấp
bách của toàn ngành y tế nói chung và công tác dược bệnh viện nói riêng. Bộ Y
tế đã ra Chỉ thị số 05/2004/CT-BYT nhằm chấn chỉnh hoạt động cung ứng và sử
dụng thuốc trong bệnh viện. Trong những tháng gần đây, hội đồng thuốc và điều


2

trị Bệnh viện Đa Khoa Châu Thành Hậu Giang thường xuyên có các hoạt động
nhằm tăng cường giám sát công tác kê đơn sử dụng thuốc cho bệnh nhân điều trị


ngoại trú. Để công tác này được thực hiện nhất quán hơn. Chúng tôi đã tiến hành
nghiên cứu đề tài “Khảo sát đơn thuốc sử dụng cho bệnh nhân điều trị ngoại
trú tại Bệnh viện Đa khoa Châu Thành - Hậu Giang.”


3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Mục tiêu tổng quát:
Khảo sát đơn thuốc sử dụng cho bệnh nhân điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa
khoa Châu thành – Hậu Giang.
Mục tiêu cụ thể:
Đánh giá các chỉ số kê đơn điều trị cho bệnh nhân ngoại trú tại Bệnh viện
Đa khoa Châu Thành – Hậu Giang.
Qua đó đề xuất với Hội đồng thuốc và điều trị xây dựng, thực hiện và
đánh giá các chiến lược can thiệp đến công tác sử dụng thuốc tại bệnh viện Đa
Khoa Châu Thành Hậu Giang.


4

Chương I/ TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1/ MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ ÐƠN THUỐC:
Trong lịch sử y học, trước khi công nghiệp dược ra đời, đơn thuốc do bác
sĩ kê để dược sĩ bào chế thuốc cho bệnh nhân. Ngày nay, đặc biệt từ nửa cuối thế
kỷ XX, công nghiệp dược phát triển như vũ bão đã làm cho việc pha chế theo
đơn thầy thuốc gần như không còn nữa hoặc chỉ rất hạn chế trong một số bệnh
viện lớn. Vì vậy, hiện nay đơn thuốc trở thành văn bản để thầy thuốc chỉ định và
hướng dẫn dùng thuốc cho bệnh nhân nhằm giúp họ có được những thứ thuốc
theo đúng phác đồ điều trị.và là căn cứ để hiệu thuốc bán thuốc cho bệnh nhân.

Trong thực hành y dược, đơn thuốc có ý nghĩa rất quan trọng cả về y khoa (chỉ
định điều trị), kinh tế (căn cứ để tính chi phí điều trị) và pháp lý (căn cứ để giải
quyết các khía cạnh pháp lý của hoạt động khám chữa bệnh và hành nghề dược,
đặc biệt liên quan đến thuốc độc, thuốc gây nghiện...).
Như vậy nói chung với một căn bệnh nào đó, đơn thuốc có những điểm
giống nhau về nguyên tắc và các chủng loại thuốc, nếu có khác chỉ là những tên
biệt dược. Tuy nhiên, do những khác biệt về tuổi tác, giới tính, tình trạng cơ thể
bệnh tật, như phụ nữ mang thai, đang cho con bú, bệnh nhân bị suy gan, suy
thận..., đặc biệt là người có tiền sử dị ứng với một dược chất nào đó nên việc kê
đơn nhiều khi rất khó khăn. Từ những thông tin trên, người thầy thuốc có thể suy
nghĩ và thay thế bằng những loại thuốc khác có cùng tác dụng dược lý. Vì thế,
nhiều trường hợp tuy cùng một bệnh nhưng mỗi thầy thuốc lại có những cách kê
đơn khác nhau. Ðiều hết sức cần tránh đối với người bệnh là không nên dựa vào


5

đơn thuốc của người khác có chung một chẩn đoán hoặc triệu chứng na ná như
mình để điều trị [4].
Đơn thuốc (prescription) có nguồn gốc từ tiếng Latinh "praescriptus" bao
gồm tiếp đầu ngữ "prae" có nghĩa là "trước" và "scribere" có nghĩa là "viết".
"Praescriptus" có nghĩa là "viết trước" [6]. Theo Quy chế kê đơn trong điều trị
ngoại trú, đơn thuốc là căn cứ hợp pháp để bán thuốc, cấp phát thuốc, pha chế
thuốc theo đơn và sử dụng thuốc [2]. Ðơn thuốc liệt kê số lượng thuốc, liều
lượng, số lần dùng thuốc trong ngày, thời gian dùng thuốc trước hay sau bữa ăn.
Một đơn thuốc được coi là tốt phải đạt được các yêu cầu: Hiệu quả chữa bệnh
cao, an toàn trong dùng thuốc và tiết kiệm [4].

2/ THẾ NÀO LÀ SỬ DỤNG THUỐC HỢP LÝ AN TOÀN:
Sử dụng thuốc hợp lý an toàn (SDTHL) là nhiệm vụ quan trọng trong

ngành y tế. Để đạt được mục tiêu này trách nhiêm trực tiếp thuộc về 3 nhóm đối
tượng: người kê đơn (bác sĩ điều trị ), dược sĩ lâm sàng (DSLS) và người sử
dụng thuốc trong đó DSLS đóng vai trò là cầu nối giữa bác sĩ - người đưa ra y
lệnh và người sử dụng - nguời phải thực hiện y lệnh [5].
Để SDTHL trước hết phải chọn được thuốc hợp lý. Hợp lý là phải cân
nhắc sao cho chỉ số Hiệu quả/Rủi ro và Hiệu quả/Chi phí đạt cao nhất [5].
Tuy nhiên, một số thuốc hợp lý phải nằm trong một đơn hợp lý, nghĩa là
ngoài tiêu chuẩn hợp lý của từng thuốc riêng biệt còn phải tính đến nhiều mặt
khác, trong đó 3 vấn đề quan trọng nhất là:


6

 Phối hợp thuốc phải đúng (không có tương tác bất lợi ).
 Khả năng tuân thủ điều trị của người bệnh cao (số lần dùng trong
ngày ít, khả năng chi trả phù hợp với người bệnh).
 Có chỉ dẫn dùng thuốc đúng.
Muốn sử dụng thuốc hợp lý không chỉ cần đến các kiến thức liên quan đến
thuốc và bệnh mà còn phải đưa kiến thức này đến người bệnh cụ thể có nghĩa là
phải hiểu rõ các đặc điểm của người bệnh như các bệnh mắc kèm (gan, thận, tim,
phổi....), các bất thường về sinh lý (béo phì, có thai...), tuổi tác (trẻ em, người
già) đến các thói quen (nghiện rượu, thuốc lá, ăn kiêng...) và cả hoàn cảnh kinh
tế.
Như vậy trong điều trị phải tính đến người bệnh chứ không phải chỉ là bệnh
đơn thuần. Sau đây là bốn nội dung cụ thể liên quan đên sử dụng thuốc hợp lý an
toàn:
- Hiệu quả điều trị tốt: Hiệu quả là khả năng khỏi bệnh tốt, tỷ lệ bệnh nhân
được chữa khỏi bệnh cao.
- An toàn cao: Là khả năng xuất hiện các tác dụng không mong muốn thấp
nghĩa là tỷ lệ Hiêu quả/Nguy cơ rủi ro cao.

- Tiện dụng (dễ sử dụng): Tiện dụng hay rễ sử dụng bao gồm cách đưa thuốc, số
lần dùng thuốc trong ngày .. phù hợp, càng đơn giản càng tốt.
-

Kinh tế (rẻ nhất so với các thuốc đã đạt 3 tiêu chuẩn trên): Kinh tế có thể tính

theo chi phí tiền của một loại thuốc đó cho một ngày điều trị hoặc cho cả liệu
trình điều trị. Giá thuốc có thể chọn là thuốc sản xuất trong nước hoặc ngoại


7

nhập. Có những trường hợp người ta tính vào chi phí điều trị cả tiền của các xét
nghiệm cận lâm sàng cần phải làm khi sử dụng thuốc.
Kê đơn là một khâu trong giai đoạn sử dụng thuốc của chu trình cung ứng
thuốc. Để đánh giá thực trạng trên, trên thế giới người ta đã sử dụng chỉ số kê
đơn.

3/ THẾ NÀO LÀ CHỈ SỐ KÊ ĐƠN:
Chỉ số kê đơn là một chỉ số định lượng được áp dụng trong nhiều nghiên
cứu. Người ta sử dụng các số liệu thu thập ở từng bệnh nhân, ví dụ các đơn thuốc
hoặc số lần tiếp xúc giữa bác sĩ và người bệnh. Các thông tin chỉ số nghiên cứu
được thu thập nhằm điều tra tình hình sử dụng thuốc, nhưng không đủ để đánh
giá về sự phù hợp của thuốc được sử dụng cho điều trị so với chẩn đoán trên
từng bệnh nhân. Vì thế, những thông tin này có thể thu thập được từ những nhân
viên kỹ thuật mà không nhất thiết phải là bác sĩ, dược sĩ hay y tá [6] . Các chỉ số
được thiết kế để lượng giá các khía cạnh đặc biệt về hành vi của người cung cấp
dịch vụ y tế trong các cơ sở y tế theo một cách thức có thể tái lập được không
phụ thuộc người đánh giá và thời điểm đánh giá. Các chỉ số có thể được sử dụng
nhanh và hiệu quả trong nhiều cơ sở để đánh giá các vấn đề tiềm tàng trong sử

dụng thuốc và để xác định vấn đề ưu tiên, tập trung các cố gắng tiếp theo để điều
chỉnh những vấn đề này. Từ những nghiên cứu ban đầu ở Yemen và Uganda có
sử dụng một số chỉ số cơ bản để đánh giá hiệu quả của chương trình thuốc thiết
yếu hoặc những can thiệp cụ thể trong chương trình đến những thử nghiệm ở
Indonesia, Bangladesh và Nepal, với sự hợp tác chặt chẽ với WHO, các chỉ số


8

được sửa đổi sau đó đã được sử dụng lại ở Sudan, Uganda, Malawi, Nigeria và
Tazania Ngay từ năm 1988, một nghiên cứu ở Yemen tại 19 cơ sở y tế đã sử
dụng một số chỉ số trên trong nghiên cứu, kết quả cho thấy rằng số thuốc trung
bình trong một đơn là 1,5; tỉ lệ phần trăm đơn thuốc có kháng sinh là 46%. Sau
đó, từ năm 1990 đến năm 1992, một số nghiên cứu được tiến hành ở một số nước
Uganda, Sudan, Malawi, Indonesia, Bangladesh, Zimbabwe, Tanzania, Nigeria,
Nepal, Ecuador. Tổng hợp số liệu của 10 nghiên cứu, kết quả cho thấy: các chỉ
số thường sử dụng trong nghiên cứu là số thuốc trung bình trong một đơn (10/10
nghiên cứu), tỉ lệ phần trăm đơn thuốc kê kháng sinh (10/10 nghiên cứu), các chỉ
số ít sử dụng hơn gồm: tỉ lệ phần đơn thuốc kê tên gốc (7/10) ), tỉ lệ phần trăm
bệnh nhân hiểu biết về liều (6/10), tỉ lệ phần trăm thuốc có sẵn trong kho (5/10),
thời gian khám bệnh (5/10), thời gian phát thuốc (3/10), tỉ lệ phần trăm đơn
thuốc kê thuốc thiết yếu (2/10), tỉ lệ phần trăm thuốc duợc phát (2/10), tỉ lệ phần
trăm cơ sở có danh mục thuốc thiết yếu hoặc dược thư [6].

4/ NGUYÊN TẮC KÊ ĐƠN THUỐC:
Một đơn thuốc tốt phải thể hiện được các yêu cầu: Hiệu quả chữa bệnh cao, an
toàn trong dùng thuốc và tiết kiệm. Muốn kê đơn thuốc tốt phải tuân theo quy
trình.
Thuốc chỉ được kê đơn khi cần thiết. Khi kê đơn thuốc, thầy thuốc cần
phải cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ đối với người bệnh. Ðiều này đặc biệt

quan trọng khi kê đơn cho người mang thai, người cho con bú, người cao tuổi,
người có bệnh thận, bệnh gan hoặc có cơ địa dị ứng.


9

Một đơn thuốc tốt phải thể hiện được các yêu cầu: Hiệu quả chữa bệnh
cao, an toàn trong dùng thuốc và tiết kiệm. Muốn kê đơn thuốc tốt phải tuân theo
quy trình sau đây:
- Chẩn đoán, xác định đúng bệnh
Thầy thuốc cần tìm hiểu hoàn cảnh của người bệnh, phát hiện các dấu hiệu
lâm sàng và xét nghiệm phi lâm sàng. Cần tìm hiểu lịch sử dùng thuốc của người
bệnh, đã dùng những thuốc gì, kết quả ra sao để ghi vào bệnh án. Như vậy thầy
thuốc đã xác định được các vấn đề của người bệnh. Trên cơ sở đó, xác định các
mục tiêu điều trị chính, phụ, trước, sau; tập trung giải quyết mục tiêu chính.
- Lựa chọn thuốc phù hợp với người bệnh
Thầy thuốc phải tự hỏi xem những thuốc quen dùng theo kinh nghiệm bản
thân trước đây liệu có hiệu quả và an toàn đối với từng người bệnh cụ thể. Ðồng
thời liệt kê các thứ thuốc mà mình biết có thể điều trị phù hợp cho từng người
bệnh. Nên sử dụng các thuốc đã quen dùng. Cần hỏi người bệnh về các phản ứng
đã xảy ra khi dùng thuốc trong quá khứ.
Sàng lọc lần lượt các thuốc đó dựa trên các tiêu chí sau:
Thuốc có hiệu quả nhất, an toàn nhất và phù hợp với hoàn cảnh của người
bệnh nhất.
Trong những trường hợp bệnh nặng thì hiệu quả là yêu cầu trước tiên.
Trong những trường hợp bệnh mạn tính và thể trạng người bệnh yếu thì tiêu
chuẩn an toàn phải được đặt lên hàng đầu.
- Kê đơn thuốc khi đã có chỉ định rõ ràng



10

Khi kê đơn, tốt nhất là dùng tên gốc hay tên chung quốc tế kèm theo tên
biệt dược đặt trong ngoặc, nếu thấy cần thiết. Phải tránh viết tắt. Khi kê hai thuốc
hoặc nhiều thuốc hơn trong cùng một đơn thuốc, thuốc chính ghi đầu tiên. Nên
tránh kê quá nhiều thuốc trong một đơn thuốc. Kê đơn càng ít thuốc càng tốt để
tránh tương tác thuốc.
Ðơn thuốc phải viết rõ ràng bằng mực, ghi rõ ngày, tháng, năm, họ và tên,
tuổi, địa chỉ, số thẻ bảo hiểm y tế của người bệnh (nếu có). Người kê đơn phải ký
vào đơn bằng mực và ghi rõ họ tên.
Các thuốc độc, thuốc hướng tâm thần và thuốc gây nghiện phải viết riêng
trong một đơn khác, theo quy chế về quản lý thuốc độc, thuốc hướng thần và
thuốc gây nghiện do Bộ Y tế ban hành. Tên thuốc, hàm lượng, số lần dùng trong
ngày, liều dùng mỗi lần phải ghi rõ bằng chữ và số. Người kê đơn phải ký, đề
ngày, tháng, năm và phải viết rõ tên, địa chỉ.
- Hướng dẫn dùng thuốc cho người bệnh
Thầy thuốc cần giải thích rõ ràng và ngắn gọn bằng ngôn ngữ thông
thường để người bệnh hiểu được cách dùng các thuốc đã kê (số lượng phải dùng,
thời gian, số lần dùng và các điều khác như cách pha, cách dùng). Nếu phải dùng
đến một dụng cụ để đưa thuốc vào cơ thể, thầy thuốc phải hướng dẫn cụ thể hoặc
cùng làm với người bệnh. Thầy thuốc phải luôn luôn cảnh giác để phát hiện quá
liều đối với các thuốc tác dụng mạnh kê trong đơn.
Cần dặn dò những điều kiêng cữ đối với người bệnh. Nên hết sức thận
trọng khi kê đơn cho những người đang mang thai, đang cho con bú, người có
tiền sử bệnh gan, thận, cơ địa dị ứng.


11

- Thông tin về phản ứng không mong muốn của thuốc

Bất cứ thuốc nào cũng có thể gây tác dụng không mong muốn. Cần chú ý
theo dõi, phát hiện, ghi chép các tác dụng không mong muốn.
Hướng dẫn người bệnh phát hiện những dấu hiệu của phản ứng không
mong muốn, hướng dẫn cách xử trí và báo cáo.
Thầy thuốc phải hẹn ngày khám lại đối với người bệnh.
- Theo dõi hiệu quả điều trị
Nếu người bệnh không quay lại thì có thể đơn thuốc đã có hiệu quả, bệnh
đã đỡ hơn hoặc khỏi. Nếu đơn thuốc không có hiệu quả thì người bệnh có thể sẽ
quay lại. Cần tìm hiểu lý do: Thuốc không hiệu quả; không an toàn, người bệnh
không chịu đựng được các phản ứng phụ; không thuận tiện do cách uống, mùi
vị...
Trong trường hợp này tùy từng lý do, thầy thuốc lại bắt đầu quy trình
khám lại.
Chú ý:
Không nên kê nhiều thuốc trong một đơn.
Nên kê những thuốc một thành phần. Không nên kê những thuốc hỗn hợp
nhiều thành phần.
Nên kê đơn thuốc theo tên gốc của thuốc. Tên thương mại ghi bên cạnh,
trong dấu ngoặc.
Nên tranh thủ sự giúp đỡ của dược sĩ để có các thông tin về thuốc.


12

Nên theo dõi những tin tức cập nhật về thuốc ở đơn vị thông tin thuốc.
Nên sử dụng Dược thư quốc gia Việt Nam nhằm khai thác các thông tin sử
dụng thuốc hiệu quả, hợp lý, an toàn, tiết kiệm.
Nên đưa nội dung điều trị bằng thuốc thành chủ đề trong các cuộc họp của
Hội đồng thuốc và điều trị của bệnh viện.
Nên hết sức thận trọng sử dụng các thông tin về thuốc từ những nguồn

thông tin thương mại.
Nên phối hợp với dược sĩ sắp xếp các thuốc điều trị cùng nhóm, đánh giá
theo 4 tiêu chuẩn: Hiệu quả, an toàn, thích hợp và giá cả. Bảng này cần luôn
được cập nhật.
Trước khi chấp thuận nhận xét về hiệu quả của những thuốc mới, cần có
những số liệu thống kê dịch tễ học về các phản ứng không mong muốn.
Trước khi sử dụng thuốc mới, cần có những thử nghiệm lâm sàng ngay tại
cơ sở để thu thập những kinh nghiệm thực tế.

5. CÁC QUY TRÌNH ÐỂ CÓ MỘT ÐƠN THUỐC TỐT
Chẩn đoán, xác định đúng bệnh. Ðây là điều rất quan trọng có ảnh hưởng
đến hiệu quả điều trị. Bệnh không thể điều trị khỏi nếu dùng không đúng thuốc.
Ðôi khi có những trường hợp nào đó bệnh có thể giảm nhưng đây là quá trình
tự khỏi của bệnh nhân thông qua hệ thống đề kháng tự nhiên hay miễn dịch.
Muốn chẩn đoán bệnh chính xác, nói chung thầy thuốc phải mất khá nhiều thời
gian để nghiên cứu các thông tin về triệu chứng bệnh, các dấu hiệu chẩn đoán
hình ảnh và những xét nghiệm khác. Từ đó đề ra được một phác đồ điều trị cụ
thể cho từng bệnh nhân. Tiếp theo phải có những thông tin về sự tiến triển của


13

bệnh để đánh giá lại chẩn đoán của mình. Rất tiếc các điều nói trên rất ít nơi, ít
người làm được, nhất là ở khu vực y tế ngoài công lập.
Lựa chọn thuốc phù hợp với người bệnh. Ðây là một tiêu chí rất quan
trọng, phụ thuộc vào kinh nghiệm và sự thường xuyên cập nhật kiến thức về
thuốc của người thầy thuốc. Ðiều này giải thích tại sao có những khác biệt
thường xảy ra trong thực tế, đó là một người bệnh, cùng trong một khoảng thời
gian đi khám ở nhiều nơi với nhiều bác sĩ khác nhau và sẽ "sưu tập" được một
bộ đơn thuốc không hề giống nhau. Muốn làm tốt sự lựa chọn thuốc, người thầy

thuốc phải dựa vào kinh nghiệm điều trị trước đây của mình xem có hiệu quả,
an toàn và kinh tế đối với từng bệnh nhân cụ thể, đồng thời liệt kê trong đầu
những loại thuốc mình đã dùng hoặc các loại thuốc mới để cân nhắc và đưa ra
quyết định lựa chọn. Nhìn chung nên chọn các loại thuốc đã quen dùng, tuy
nhiên tùy từng hoàn cảnh cụ thể của bệnh nhân (chẳng hạn đối với những người
có điều kiện kinh tế khá giả) bác sĩ vẫn có thể mạnh dạn kê những biệt dược
ngoại có độ khả dụng sinh học tốt hơn, đã được các thử nghiệm lâm sàng chứng
minh và qua đó rút kinh nghiệm dần. Ðấy cũng là cách tự nâng cao năng lực
điều trị của người thầy thuốc


14

Chương II
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU:
- Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện Đa
khoa Châu Thành – Hậu Giang.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 5/ 2014 đến tháng 11/2014
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Tất cả các đơn thuốc điều trị ngoại trú được kê bằng hệ thống kê toa vi
tính mạng nội bộ tại Bệnh viện Đa khoa Châu Thành – Hậu Giang.
3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
- Thống kê các số liệu cần nghiên cứu theo các chỉ số kê đơn: số thuốc
trong một đơn thuốc, số đơn thuốc sử dụng kháng sinh, các nhóm kháng sinh sử
dụng, số đơn thuốc sử dụng vitamin.
4. PHƯƠNG PHÁP CHỌN MẪU:
Tiêu chuẩn lựa chọn: Chọn đơn thuốc điều trị ngoại trú của các khoa
khám bệnh - Bệnh viện Đa khoa Châu Thành Hậu Giang.
Tiêu chuẩn loại trừ: Các đơn thuốc không phải của Bệnh viện Đa khoa

Châu Thành, các đơn thuốc không thuộc diện ngoại trú.

Cỡ mẫu được tính theo công thức:
Với n là cỡ mẫu


15

N là số lượng tổng thể
e là sai số tiêu chuẩn (0,05)

Do N dao động trong khoảng 300- 400 đơn thuốc/ ngày. Vì thế N ở đây
chúng tôi chọn là 400 đơn thuốc/ ngày. Cho nên cỡ mẫu n sẽ là 17,454 đơn
thuốc trong thời gian 6 tháng của đợt nghiên cứu.
5. CÁCH LẤY MẪU:
Các đơn thuốc sẽ được lấy ngẫu nhiên từ trên xuống, không phân biệt
chuyên khoa hay phòng khám nào cho tới khi đủ số lượng cần lấy.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu khảo sát tiến cứu.
7. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP SỐ LIỆU:
Dựa vào bảng thiết kế thu thập số liệu ( theo mẫu ).
Cách tính số liệu:
Chỉ số kê đơn tổng quát: Tổng số thuốc/ Tổng số đơn
Số thuốc trung bình trong một đơn thuốc của các phòng khám chuyên
khoa: Tổng số thuốc sử dụng tại khoa/ Tổng số đơn.
Sự phân bố số thuốc trong một đơn thuốc: (Số thuốc trong một đơn/
Tổng số đơn thuốc) * 100%
Chia làm 4 mức:



16

1-5 thuốc
6-10 thuốc
11-15 thuốc
16-20 thuốc
Tỉ lệ sử dụng kháng sinh của các phòng khám chuyên khoa: Tổng số
kháng sinh sử dụng tại khoa/ Tổng số đơn.
Tỉ lệ sử dụng các nhóm kháng sinh: Số kháng sinh trong nhóm/ Tổng số
đơn.
Tỉ lệ sử dụng kết hợp kháng sinh: Tổng số đơn có kết hợp kháng sinh/
Tổng số đơn.
Tỉ lệ sử dụng vitamin của các phòng khám chuyên khoa: Tổng số vitamin
sử dụng tại khoa/ Tổng số đơn.
8. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU:
Xử lý số liệu, tính toán, và biểu đồ minh họa các kết quả nghiên cứu
bằng phần mềm Microsoft Excel 2003. Bàn luận các kết quả nghiên cứu trên cơ
sở khuyến cáo chung của WHO và phác đồ điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Châu
Thành.

BẢNG THU THẬP SỐ LIỆU


17

1/ Đơn thuốc thuộc phòng khám ?
□ PK Nội

□ PK Sản


□ PK Ngoại

□ PK Đông Y

□ PK Mắt

□ PK Nhi

□ PK Răng Hàm Mặt

□ PK Tai Mũi Họng

2/ Số khoản thuốc được kê trong đơn ?
□ 1-5 thuốc
□ 6-10 thuốc
□ 11-15 thuốc
□ 16-20 thuốc
3/Có sử dụng kháng sinh trong đơn ?
□ Có

□ Không

4/ Trong đơn có phối hợp kháng sinh ?
□ Có

□ Không

5/ Kháng sinh thuộc nhóm nào ?
□ Beta-lactam


□ Phenicol

□ Quinolon

□ Aminoglycosid

□ Macrolid

□ Nitro-imidazol

6/ Số lượng vitamin được sử dụng trong đơn thuốc?
□ 1 loại

□ 3 loại

□ 2 loại

□ 4 loại

CHƯƠNG III


18

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
1. Kết quả nghiên cứu về các Chỉ số kê đơn tổng quát :
Kết quả nghiên cứu về các Chỉ số kê đơn tổng quát qua 17454 đơn thuốc
điều trị ngoại trú của Bệnh viện Đa khoa Châu thành Hậu Giang được trình bày ở
bảng 1.
Chỉ số kê đơn


Ngoại trú

Tính theo

Đơn vị tính

Tổng
Số thuốc trong
đơn

4.9

ST/ Tổng

Số thuốc


Sử dụng KS
Sử dụng
vitamin

36.8

38.1

Tổng số
đơn
Tổng số
đơn


Tỉ lệ %

Tỉ lệ %

Bảng 1: Kết quả nghiên cứu về các chỉ số kê đơn tổng quát
Ghi chú: ST= Số thuốc; SĐ= Số đơn
Kết quả nghiên cứu ở bảng 1 cho thấy: Số thuốc sử dụng trung bình trong
một đơn thuốc điều trị cho bệnh nhân ngoại trú là 4.9; Tỉ lệ đơn thuốc sử dụng
kháng sinh là 36.8%; Tỉ lệ đơn thuốc sử dụng vitamin là 37.8%.
2. Kết quả nghiên cứu Số thuốc trung bình trong một đơn thuốc của các
phòng khám chuyên khoa:


19

Kết quả nghiên cứu được trình bày ở biểu đồ 1:

Biểu đồ 1: Số thuốc trung bình trong một đơn
thuốc của các phòng khám chuyên khoa
Kết quả nghiên cứu ở biểu đồ 1 cho thấy:
Số thuốc sử dụng trung bình trong một đơn thuốc điều trị cho bệnh nhân
ngoại trú là 4.9. Số thuốc trung bình trong một đơn thuốc của các phòng khám
chuyên khoa cũng chỉ ở mức 2.4-5.2 thuốc trong 1 đơn và phù hợp với khuyến
cáo của WHO.
3. Kết quả nghiên cứu Sự phân bố số thuốc trong một đơn thuốc
Kết quả nghiên cứu Sự phân bố số thuốc trong một đơn thuốc được bình
bày ở bảng 2.



20

Số thuốc

Tỉ lệ (%)

trong một

BHYT

Ghi chú

1-5 thuốc

67.9

Theo tổng số đơn thuốc

6-10 thuốc

32.1

Theo tổng số đơn thuốc

11-15 thuốc

0.0

Theo tổng số đơn thuốc


16-20 thuốc

0.0

Theo tổng số đơn thuốc

đơn

Bảng 2: Kết quả nghiên cứu Sự phân bố số thuốc trong một đơn thuốc
Nhận xét: Số đơn sử dụng 1-5 loại thuốc của bệnh nhân điều trị ngoại trú là 67.9
%.
Số đơn sử dụng 6-10 loại thuốc của bệnh nhân điều trị ngoại trú là 32.1%. Không
có đơn thuốc nào được kê đơn cho bệnh nhân sử dụng trên 11 loại thuốc.
4. Kết quả nghiên cứu về tỉ lệ sử dụng kháng sinh
Kết quả nghiên cứu về tỉ lệ sử dụng kháng sinh của các phòng khám
chuyên khoa được thể hiện ở biểu đồ 3.


21

Biểu đồ 3: Tỉ lệ sử dụng kháng sinh của các phòng khám chuyên khoa
Nhận xét: Chỉ số sử dụng kháng sinh (KS) chung là 36.8 %. Tỉ lệ vẫn là con số
tương đối cao so với giới hạn báo động của WHO. Đặc biệt , một số khoa có tỉ lệ
sử dụng KS khá cao: TMH (91.7%)….
5. Kết quả nghiên cứu về Tỉ lệ sử dụng các nhóm kháng sinh
Kết quả nghiên cứu về tỉ lệ sử dụng các nhóm kháng sinh được trình bày ở biểu
đồ 4.

Biểu đồ 4: Tỉ lệ sử dụng các nhóm kháng sinh


Nhận xét:


22

- Các nhóm Betalactam là nhóm kháng sinh được sử dụng phố biến nhất cho
điều trị ngoại trú (35.23%).
- Nhóm kháng sinh Quinolon và Nhóm kháng sinh Imidazol được sử dụng cho
điều trị ngoại trú (0.6%)
- Nhóm kháng sinh Macrolid được sử dụng ở mức thấp nhất ( 0.3%)
6. Kết quả nghiên cứu Tỉ lệ sử dụng kết hợp kháng sinh
Kết quả nghiên cứu được trình bày ở bảng 3.

Chỉ số kê đơn

Ngoại trú
Số đơn

Tỉ lệ (%)

6,418

36.8

83

1.3

Sử dụng 2 KS


83

100

Sử dụng 3 KS

0

0

Sử dụng 4 KS

0

0

Sử dụng KS
Sử dụng kết
hợp KS

Tính theo
Tổng số toa nghiên
cứu
Tổng số toa sử
dụng KS
Tổng số toa kết
hợp KS
Tổng số toa kết
hợp KS
Tổng số toa kết

hợp KS

Bảng 3: Kết quả nghiên cứu Tỉ lệ sử dụng kết hợp kháng sinh


23

Nhận xét:
Sử dụng đơn thuốc có kết hợp kháng sinh (KS) chiếm tỉ lệ 1.3%. Trong đó
sử dụng kết hợp 2 loại KS là chủ yếu ( 100%). Không có trường hợp nào kê đơn
kết hợp 3 KS và 4 KS cho điều trị ngoại trú.
7. Kết quả nghiên cứu số toa có kết hợp sử dụng vitamin của các phòng
khám chuyên khoa:
Tỉ lệ sử dụng 1

Tỉ lệ sử dụng 2

Tỉ lệ sử dụng 3

thành phẩm

thành phẩm

thành phẩm

Vitamin

Vitamin

Vitamin


(%)

(%)

(%)

Sản

15.2

44.0

1.6

Nhi

40.0

11.2

1.7

RHM

51.4

0.7

0


Nội

36.2

7.7

0.2

TMH

38.6

2.5

0.1

Mắt

20.1

0.9

0

Ngoại

17.9

1.9


0

Đông Y

9.2

0.8

0

Chuyên khoa

Bảng 4: Kết quả nghiên cứu số toa có kết hợp sử dụng vitamin của các
phòng khám chuyên khoa
Nhận xét: Tỉ lệ sử dụng thành phẩm vitamin ở các chuyên khoa tương đối cao.
Số đơn sử dụng 1 vitamin nhiều nhất là khoa RHM (51.4%). Sử dụng 2 Vitamin


24

trong đơn nhiều nhất là khoa Sản (44%). Bên cạnh đó số chuyên khoa kê đơn sử
dụng 3 loại Vitamin chỉ có 4 chuyên khoa và cao nhất là Khoa Nhi ( 1.7%).

BÀN LUẬN:
Theo Quy chế kê đơn trong điều trị ngoại trú, đơn thuốc là căn cứ hợp
pháp để bán thuốc, cấp phát thuốc, pha chế thuốc theo đơn và sử dụng thuốc.
Một đơn thuốc được coi là tốt phải đạt được các yêu cầu: Hiệu quả chữa bệnh
cao, an toàn trong dùng thuốc và tiết kiệm [4]. Trong thực hành lâm sàng ở nuớc
ta hiện nay, việc kê đơn nhiều loại thuốc đang rất phổ biến, thường dùng tới 4-5

loại thuốc cho một lần điều trị, thậm chí có nhiều đơn thuốc số thuốc được kê
lên đến hơn 10 loại, do dó càng cần đặc biệt quan tâm tới vấn đề tương tác thuốc.
Qua nghiên cứu 17,454 đơn thuốc điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa Khoa
Châu Thành – Hậu Giang, chúng tôi nhận thấy:


25

Số thuốc sử dụng trung bình trong một đơn thuốc điều trị của bệnh nhân
ngoại trú là 4.9. Theo Nguyễn Thị Sơn Hà tại bệnh viện Đa khoa Hà Đông tỉ lệ
này là 3.8. Lê Ngọc Hiếu – Học viện Quân Y tỉ lệ này là 2.96. Kết quả của chúng
tôi không khác biệt nhiều so với đề tài của Trần Nhân Thắng tại Bệnh viện Bạch
Mai năm 2011 là 4.2.
Mặt khác Số thuốc trung bình trong một đơn thuốc của các phòng khám
chuyên khoa cũng chỉ ở mức 2.4-5.2 thuốc (so với đề tài của Trần Nhân Thắng
3.8-6.0) trong 1 đơn .
Mức sử dụng thuốc trong điều trị ngoại trú như vậy nằm trong giới hạn sử
dụng thuốc an toàn theo khuyến cáo của WHO (5 thuốc) [1], [3], [9]. Sử dụng ít
thuốc trong một đơn thuốc không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là sự an toàn do tỉ
lệ các phản ứng có hại (ADR) khi kết hợp nhiều loại thuốc sẽ tăng theo cấp số
nhân khi dùng đồng thời với nhau sẽ có nguy cơ tương tác hoặc tương kỵ thuốc
mà nhiều khi các thầy thuốc không lường trước được. Ðây chính là nguyên nhân
đã gây ra nhiều tai biến đáng tiếc.
Số đơn sử dụng 1-5 loại thuốc của bệnh nhân điều trị ngoại trú là 67.9 %
(của Trần Nhân Thắng là 74.8% ). Đây là tỉ lệ có ý nghĩa tích cực, thể hiện sự
phù hợp giữa chẩn đoán và điều trị. Sử dụng thuốc ở mức thấp như vậy sẽ làm
giảm tỉ lệ xuất hiện ADR xuống mức 4.2%.
Số đơn sử dụng 6-10 loại thuốc của bệnh nhân điều trị ngoại trú 32.1%
(của Trần Nhân Thắng là 25.3% ) Một thống kê dịch tễ học cho thấy tỷ lệ ADR
là 7% ở bệnh nhân dùng phối hợp 6-10 loại thuốc, nhưng tỷ lệ này sẽ là 40% khi

dùng phối hợp 16-20 loại [3]. Trong khi đó không có đơn thuốc nào được kê đơn
cho bệnh nhân điều trị ngoại trú sử dụng trên 11 loại thuốc. Tuy nhiên trong
trạng thái đa bệnh lý, đa triệu chứng lại càng cần phải phối hợp nhiều loại thuốc.


×