Nguồn nhân lực
TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI HUYỆN
CỦ CHI - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG.....................................................................................................................................4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG.............................4
1.1 Một số khái niệm cơ bản...................................................................................................................4
1.1.1 Việc làm.........................................................................................................................................4
1.1.1.1 Việc làm dưới góc độ kinh tế xã hội...........................................................................................4
1.1.1.2 Việc làm dưới góc độ pháp lí......................................................................................................4
1.1.2 Tạo việc làm...................................................................................................................................5
1.1.3 Thất nghiệp.....................................................................................................................................6
1.1.3.1 Phân loại thất nghiệp..................................................................................................................6
1.1.3.2 Hình thức thất nghiệp.................................................................................................................6
1.2 Tổng quan vấn đề lao động - việc làm Việt Nam hiện nay..............................................................7
1.2.1 Nguồn lao động..............................................................................................................................7
1.2.2 Vấn đề việc làm..............................................................................................................................7
1.3 Tổng quan một số hoạt động về việc tạo việc làm ở huyện Củ Chi................................................8
CHƯƠNG 2:...............................................................................................................................................9
THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ TẠO VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG Ở HUYỆN CỦ CHI.....................9
2.1 Các nhân số ảnh hưởng đến việc làm của huyện.............................................................................9
2.1.1 Nhân tố tự nhiên.............................................................................................................................9
2.1.1.1 Địa hình.......................................................................................................................................9
2.1.1.2 Khí hậu........................................................................................................................................9
2.1.1.3 Thủy văn....................................................................................................................................10
2.1.1.4 Tài nguyên đất...........................................................................................................................10
2.1.1.5 Tài nguyên khoáng sản.............................................................................................................11
2.2 Một số chính sách giúp tạo việc làm cho người lao động.............................................................12
1
Nguồn nhân lực
2.2.1 Đào tạo nghề giúp giải quyết việc làm........................................................................................12
2.2.2 Tạo việc làm thông qua xuất khẩu lao động...............................................................................15
2.2.3 Chính sách “Nông thôn mới” góp phần nâng cao đời sống người lao động..............................16
2.2.4 Công nghiệp phát triển nâng cao mức sống người lao động......................................................18
2.2.5 Tạo điều kiện cho lao động thất nghiệp......................................................................................21
2.2.6 Một số khó khăn cho việc tạo việc làm.......................................................................................22
CHƯƠNG 3:.............................................................................................................................................25
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM............................................................25
3.1 Một số giải pháp tạo việc làm.........................................................................................................25
3.1.1 Đối với chính quyền....................................................................................................................27
3.2 Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Củ Chi............................................................28
PHẦN KẾT LUẬN...................................................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................................30
2
Nguồn nhân lực
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài :
-
Việc làm là hoạt động kiếm sống của con người nhằm mục tiêu là nhận được tiền
công, đó là những công việc mà người lao động thu lợi nhuận cho bản thân và gia
đình. Quá trình lao động là quá trình sử dụng sức lao động, sức lao động là năng
lực của con người nó bao gồm cả thê lực và trí lực. Bản thân cá nhân mỗi con
người trong nền sản xuất xã hội đều chiếm những vị trí nhất định, mỗi vị trí mà
người lao động chiếm giữ trong hệ thống sản xuất xã hội với tư cách là một sự kết
-
hợp của các yếu tố khác trong quá trình sản xuất được gọi là chỗ làm hay việc làm.
Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đối với
từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các hoạt
động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn bộ
mọi hoạt động của cá nhân và xã hội.Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu việc làm của
-
toàn xã hội đòi hỏi phải có những kế hoạch đáp ứng được nhu cầu này.
Củ Chi là một huyện ngoại thành của Thành phố Hồ Chí Minh, có Sông Sài Gòn
chảy qua. Huyện Củ Chi nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Tây Nam Bộ và
Đông Nam Bộ. Phía Bắc giáp huyện Trảng Bàng thuộc địa phận tỉnh Tây Ninh,
phía Nam giáp huyện Hóc Môn, phía Đông ngăn cách với tỉnh Bình Dương bởi
sông Sài Gòn, phía Tây giáp huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Có vị trí địa lý thích
-
hợp cho việc giao lưu kinh tế giữa các vùng.
Diện tích: 434,50 km² có số dân: 343.132 (2009). Huyện gồm có 1 thị trấn và 20
xã. Tổng diện tích đất tự nhiên cả huyện Củ Chi là 43.450,2 ha (đất nông nghiệp
28.228ha). Tỷ trọng nông nghiệp chiếm 12,56%. Dân số 389.049 người (dân số
trong độ tuổi lao động là 181.866 người).Theo số liệu thống kê năm 2003 diện tích
đất lâm nghiệp có rừng của huyện là 319,24 ha, trong đó rừng tự nhiên 139,27 ha
chiếm 43,63% diện tích đất có rừng; rừng trồng 179,97 ha chiếm 56,37% diện tích
-
đất có rừng.
Năm 2014, Đảng bộ và nhân dân huyện Củ Chi thực hiện đạt và vượt 17/17 chỉ tiêu
Nghị quyết. Kinh tế huyện đạt tốc độ tăng trưởng khá, tăng 18,43% so với cùng kỳ.
Các nhiệm vụ trên lĩnh vực văn hóa – xã hội, giáo dục, y ế được quan tâm chỉ đạo
thực hiện tốt; công tác chăm lo gia đình chính sách, hộ nghèo, người có thu nhập
thấp được thực hiện thường xuyên; việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn,
3
Nguồn nhân lực
chương trình giải quyết việc làm, hỗ trợ vốn cho người nghèo được tăng cường
từng bước phát huy hiệu quả. Tính đến nay số hộ nghèo toàn huyện theo tiêu chí
mới của Thành phố, giai đoạn 2014-2015 (mức thu nhập là 16 triệu đồng / người
/năm) còn 4.076 hộ, chiếm tỷ lệ 4,02% so với tổng hộ dân toàn huyện. Tình hình an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững, ổn định; công tác xây
-
dựng Đảng, xây dựng chính quyền được củng cố hoạt động ngày càng hiệu quả.
Theo chương trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị
trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2011 – 2015, Củ Chi sẽ trở thành vùng phát triển
nông nghiệp đô thị trọng điểm với diện tích 24.010 ha (năm 2015), 20.620 ha (năm
2020) và 18.960 ha (năm 2025). Theo đó, diện tích đất dành cho sản xuất nông
nghiệp ngày càng giảm thì yêu cầu sản xuất hiệu quả, năng suất, chất lượng và bền
-
vững càng phải được chú trọng.
Củ chi còn có hai khu công nghiệp lớn là: khu công nghiệp Tây Bắc Củ Chi và khu
công nghiệp Tân Phú Trung. Có ba cụm công nghiệp là: cụm công nghiệp Tân qui
khu A, cụm công nghiệp Tân Qui khu B và cụm công nghiệp cơ khí Samco. Trong
tương lai đến 2025 huyện sẽ có thêm hai khu công nghiệp lớn và hai cụm công
-
nghiệp nữa.
Huyện vừa có vị trí địa lý thuận lợi, có diện tích lớn, có tiềm năng phát triển công
nghiệp đã và đang đi lên, có diện tích canh tác nông nghiệp, có nguồn lực lao động
trong huyện và dân nhập cư dồi dào, được Nhà nước quan tâm và ưu đãi nhiều
chính sách. Vì vậy nơi đây sẽ tạo ra được rất nhiều việc làm cho người lao động.
4
Nguồn nhân lực
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO
ĐỘNG
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Việc làm
Việc làm hay công việc là một hoạt động được thường xuyên thực hiện để đổi lấy việc
thanh toán hoặc tiền công, thường là nghề nghiệp của một người. Một người thường
bắt đầu một công việc bằng cách trở thành một nhân viên, người tình nguyện, hoặc bắt
đầu việc buôn bán. Thời hạn cho một công việc có thể nằm trong khoảng từ một giờ
(trong trường hợp các công việc lặt vặt) hoặc cả đời (trong trường hợp của các thẩm
phán). Nếu một người được đào tạo cho một loại công việc nhất định, họ có thể có một
nghề nghiệp. Tập hợp hàng loạt các công việc của một người trong cả cuộc đời là sự
nghiệp của họ.
1.1.1.1 Việc làm dưới góc độ kinh tế xã hội
-
Việc làm là các hoạt động tạo ra, đem lại lợi ích, thu nhập cho người lao động
được xã hội thừa nhận, là hoạt động kiếm sống quan trọng nhất của thế giới nói
chung và con người nói riêng. Có thể hiểu việc làm là các hoạt động tạo ra, đem
lại lợi ích, thu nhập cho người lao động được xã hội thừa nhận.
1.1.1.2 Việc làm dưới góc độ pháp lí
-
Theo pháp luật Việt Nam, Bộ luật lao động Việt Nam không đưa ra khai niệm
cụ thể về việc làm, song việc làm cũng được quy định tại điều 13 Bộ luật lao
động như sau: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp
-
luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” (Điều 13 Bộ luật lao động).
Bên cạnh đó, theo ILO (International Labour Organization) cũng coi việc khiến
nghị và xúc tiến việc làm là một trong những mục tiêu quan trọng trong tôn chỉ
hoạt động của minh. Theo quan điểm của ILO, người có việc làm là những
người làm việc gì đó được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng
hiện vật hoặc những người tham gia các hoạt động mang tính chất tự tạo việc
5
Nguồn nhân lực
làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện
vật.
1.1.2 Tạo việc làm
-
Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất; số
lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội cần thiết khác
-
để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động.
Muốn tạo việc làm cần 3 yếu tố cơ bản: tư liệu sản xuất, sức lao động và các
điều kiện KTXH khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động. Ba yếu tố
này lại chịu tác động của nhiều yếu tố khác như:
+ Nhân tố điều kiện tự nhiên, vốn, công nghệ: là các tiền đề vật chất để tiến
hành bất cứ một hoạt động sản xuất nào.
+ Nhân tố bản thân người lao động trong quá trình lao động. Bao gồm: thể lực,
trí lực, kinh nghiệm quản lý, sản xuất của người lao động. Người lao động có
được những thứ này lại phụ thuộc vào điều kiện sống, quá trình đào tạo và tích
luỹ kinh nghiệm của bản thân, sự kế thừa những tài sản đó từ các thế hệ trước.
+ Cơ chế, chính sách kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia: Việc làm được tạo ra
như thế nào, chủ yếu cho đối tượng nào, với số lượng dự tính bao nhiêu,… phụ
thuộc vào cơ chế, chính sách KT-XH của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ cụ
thể.
+ Hệ thống thông tin thị trường lao động: được thực hiện bởi chính phủ và các
tổ chức kinh tế, cá nhân có nhu cầu tuyển dụng lao động thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, đài phát thanh,…
1.1.3 Thất nghiệp
-
Theo khái niệm của Tổ chức lao động quốc tế, thất nghiệp (theo nghĩa chung
nhất) là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động muốn có việc
-
làm nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công nhất định.
Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng
-
không có việc làm và đang có nhu cầu tìm việc làm.
Theo quan điểm nêu trên, tình trạng thất nghiệp của nền kinh tế được đánh giá
bằng tiêu chí "Tỷ lệ thất nghiệp". Nó được xác định bằng tỷ lệ phần trăm giữa
số người thất nghiệp và lực lượng lao động trong độ tuổi lao động.
6
Nguồn nhân lực
1.1.3.1 Phân loại thất nghiệp
Nếu phân theo tính chất của thất nghiệp, chúng ta có các dạng sau:
-
Thất nghiệp tạm thời: phát sinh là do sự di chuyển không ngừng của con người
giữa các vùng, các công việc hoặc các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.
-
Thất nghiệp có tính cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu đối
với công nhân. Sự mất cân đối này có thể diễn ra vì mức cầu đối với một loại
lao động nào đó tăng lên trong khi mức cầu đối với một loại lao động khác lại
giảm đi, trong đó mức cung không điều chỉnh kịp với sự thay đổi này
-
Thất nghiệp chi kỳ: xảy ra khi mức cầu chung về lao động thấp. Khi tổng mức
chi và sản lượng giảm, chúng ta thấy thất nghiệp tăng hầu hết ở khắp nơi. Việc
thất nghiệp tăng hầu hết ở các vùng là dấu hiệu cho thấy thất nghiệp tăng phần
lớn là theo chu kỳ.
1.1.3.2 Hình thức thất nghiệp
-
Thất nghiệp hữu hình: là hình thức thất nghiệp thường thấy ở khu vực thành
thị, đặc điểm của hình thức này là người lao động hoàn toàn không có một việc
gì làm để tạo ra thu nhập.
-
Thất nghiệp trá hình: hay còn gọi là thiếu việc làm là một trong những đặc
trưng cơ bản của nền kinh tế nông nghiệp, chậm phát triển. Trong khu vực
thành thị, dạng thất nghiệp này tồn tại dưới dạng khác nhau như: làm việc với
năng suất thấp, không góp phần tạo ra thu nhập cho xã hội mà chủ yếu chỉ tạo
thu nhập đủ sống (nhiều khi dưới mức sống tối thiểu). Trong khu vực nông
thôn, thất nghiệp trá hình chủ yếu tồn tại dưới dạng thiếu việc làm. Chẳng hạn ở
Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế, trong thời gian
mùa vụ, một nông dân có thể làm việc 11 giờ/ngày trong khi đó ở thời kỳ nông
nhàn họ chỉ làm việc 3 giờ/ngày.
1.2 Tổng quan vấn đề lao động - việc làm Việt Nam hiện nay
Giải quyết việc làm là một chính sách kinh tế - xã hội cơ bản, là yếu tố quyết định để
phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp
ứng nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân.
1.2.1 Nguồn lao động
-
Nguồn lao động nước ta rất dồi dào. Theo điều tra của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, lực lượng lao động năm 1998 gồm 37,4 triệu người. Mặc dù
mức gia tăng dân số và nguồn lao động đã giảm, mỗi năm vẫn tăng thêm
khoảng 1,1 triệu lao động.
7
Nguồn nhân lực
-
Người lao động Việt Nam cần cù, khéo tay, có những truyền thống, kinh
nghiệm sản xuất (nhất là trong nông, lâm, ngư nghiệp và sản xuất tiểu thủ công
nghiệp) được tích luỹ qua nhiều thế hệ, có khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật.
Chất lượng nguồn lao động ngày càng cao do đội ngũ lao động có chuyên môn
kỹ thuật là gần 5 triệu người, chiếm hơn 13% tổng lực lượng lao động, trong đó
số người có trình độ đại học và cao đẳng trở lên chiếm 23%.
-
Tuy nhiên, từ một nước nông nghiệp đi lên, người lao động nước ta nhìn chung
còn thiếu tác phông công nghiệp, kỉ luật lao động chưa cao. Đội ngũ cán bộ
khoa học kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao vẫn còn ít trước yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
-
Lực lượng lao động, đặc biệt là lao động có kỹ thuật tập trung chủ yếu ở vùng
đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ, nhất là ở một số thành phố lớn
(Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ,...).
-
Đó là điều kiện thuận lợi để phát triển ở đây các ngành dịch vụ, các ngành công
nghiệp đòi hỏi trình độ cao.
-
Mặt khác, sự tập trung quá cao lực lượng lao động ở vùng đồng bằng o7va2
duyên hải có thể gây căng thẳng cho việc giải quyết việc làm. Trong khi đó,
vùng núi và vùng trung du giàu tài nguyên lại thiếu lao động, đặc biệt là lao
động có kỹ thuật.
1.2.2 Vấn đề việc làm
-
Việc làm đang là một vấn đề kinh tế - xã hội gay gắt ở nước ta, đặc biệt là ở các
thành phố. Theo điều tra Bộ lao động – Thương binh và Xã hội, năm 1998 cả
nước có 9,4 triệu người thiếu việc làm và 856 nghìn người thất nghiệp. Tỉ lệ
thiếu việc làm ở vùng nông thôn là 28,2%. Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị là 6,8%.
-
Hiện nay, tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn và tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị cao
nhất là ở đồng bằng sông Hồng, tiếp đến là ở Bắc Trung Bộ. Vấn đề việc làm ở
Đông Nam Bộ trước đây cũng rất căng thẳng nay đã được cải thiện rõ rệt.
-
Vấn đề việc làm đã và đang được giải quyết theo các hướng sau:
Phân bố lại dân cư và nguồn lao động giữa các vùng, để vừa tạo thêm
việc làm, vừa khai thác được tốt hơn tiềm năng của mỗi vùng.
Đẩy mạnh kế hoạch hóa gia đình và đa dạng hóa các hoạt động kinh tế
nông thôn. Việc khẳng định vai trò của kinh tế hộ gia đình sẽ tạo điều
kiện sử dụng có hiệu quả hơn lao động nông nghiệp. Nền nông nghiệp
đang chuyển dần từ tự cấp, tự túc thành nông nghiệp hàng hóa, thâm
canh và chuyên canh. Các ngành nghề thủ công truyền thống, các hoạt
động dịch vụ ở nông thôn được khôi phục và phát triển. Lao động thuần
8
Nguồn nhân lực
nông ngày càng giảm đi. Nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa nông
thôn nhờ vậy mà vấn đề việc làm ở nông thôn sẽ được giải quyết vững
chắc hơn.
Phát triển các hoạt động công nghiệp và dịch vụ. Công nghiệp và dịch vụ
quy mô nhỏ, thu hồi vốn nhanh, sử dụng kỹ thuật tinh xảo và cần nhiều
lao động, có khả năng tạo ra được nhiều việc làm mới cho thanh niên ở
các thành phố, thị xã.
-
Việc đa dạng hóa các loại hình đào tạo (trong đó có các hình thức đào tạo từ xa,
đào tạo mở rộng,…), đẩy mạnh hoạt động hướng nghiệp ở nhà trường, hoạt
động dạy nghề và giới thiệu việc làm vừa giúp nâng cao chất lượng người lao
động, vừa giúp cho người lao động có thể tự tạo việc làm hoặc dễ tìm việc làm
hơn.
1.3 Tổng quan một số hoạt động về việc tạo việc làm ở huyện Củ Chi
-
Đảng ta xác định: Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng,
Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động
nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn. Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng, thời gian qua huyện Củ Chi đạt
được nhiều thành công trong công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn
được thành phố đánh giá cao. Kết quả này đã góp phần thực hiện có hiệu quả
-
mục tiêu giảm nghèo tăng hộ khá trên địa bàn huyện.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động đang hưởng trợ cấp thất
nghiệp, lao động thanh niên chưa có việc làm, sinh viên, học sinh và đặc biệt là
lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, gia đình chính sách trên địa bàn huyện
Củ Chi tiếp cận thông tin tuyển dụng của các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức và
cá nhân lựa chọn và quyết định cho mình một công việc mới phù hợp với trình
độ, khả năng hiện có, ngày 24/6/2016, Trung tâm dịch vụ việc làm Thành phố
tổ chức Sàn giao dịch việc làm lưu động lần thứ 2-2016 tại Cơ sở 2 của Trung
-
tâm dịch vụ việc làm thành phố Hồ Chí Minh đóng tại huyện Củ Chi.
Khu công nghiệp thường xuyên tuyển lao động.
Tiếp tục thực hiện phong trào thi đua sản xuất thực hiện các biện pháp chuyển
đổi cơ cấu kinh tế của huyện theo hướng “công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
nông nghiệp, thương mại, dịch vụ. Thông qua việc thực hiện các chính sách hỗ
trợ sản xuất, kích cầu và tiêu dùng, sản xuất công nghiệp trên địa bàn huyện đã
tăng trưởng khá cao.
9
Nguồn nhân lực
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ TẠO VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG Ở
HUYỆN CỦ CHI
2.1 Các nhân số ảnh hưởng đến việc làm của huyện
2.1.1 Nhân tố tự nhiên
2.1.1.1 Địa hình
Địa hình huyện Củ Chi nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Tây Nam Bộ và miền
sụt Đông Nam Bộ, với độ cao giảm dần theo hai hướng Tây bắc - Đông nam và Đông
bắc – Tây nam. Độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 8m – 10m.
Ngoài ra địa bàn huyện có tương đối nhiều ruộng, đất đai thuận lợi để phát triển nông
nghiệp so với các quận trong Thành phố.
2.1.1.2 Khí hậu
Huyện Củ Chi nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang tính chất cận xích
đạo. Khí hậu chia thành hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ
tháng 12 đến tháng 4 năm sau, với đặc trưng chủ yếu là:
-
Nhiệt độ tương đối ổn định, cao đều trong năm và ít thay đổi, trung bình năm khoảng
26,6oC. Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là 28.8oC (tháng 4), nhiệt độ trung bình
tháng thấp nhất 24,8oC (tháng 12). Tuy nhiên biên độ nhiệt độ giữa ngày và đêm
chênh lệch khá lớn, vào mùa khô có trị số 8 - 10oC.
-
Lượng mưa trung bình năm từ 1.300 mm - 1.770 mm, tăng dần lên phía Bắc
theo chiều cao địa hình, mưa phân bổ không đều giữa các tháng trong năm, mưa
tập trung vào tháng 7,8,9; vào tháng 12,tháng 1 lượng mưa không đáng kể.
-
Độ ẩm không khí trung bình năm khá cao 79,5% cao nhất vào tháng 7,8,9 là 80
- 90%, thấp nhất vào tháng 12,1 là 70%.
-
Tổng số giờ nắng trung bình trong năm là 2.100 - 2.920 giờ.
Thích hợp chia mùa vụ để canh tác, trồng các loại cây theo mùa.
10
Nguồn nhân lực
2.1.1.3 Thủy văn
-
Huyện Củ Chi có hệ thống sông, kênh, rạch khá đa dạng, với những đặc điểm
chính:
Sông Sài Gòn chịu chế độ ảnh hưởng dao động bán nhật triều, với mực nước
triều bình quân thấp nhất là 1,2m và cao nhất là 2,0m.
Các hệ thống kênh rạch tự nhiên khác, đa số chịu ảnh hưởng trực tiếp chế độ
hủy văn của sông Sài Gòn như Rạch Tra, Rạch Sơn, Bến Mương … Riêng chỉ
có kênh Thầy Cai chịu ảnh hưởng chế độ thủy văn của sông Vàm Cỏ Đông.
Nhìn chung hệ thống sông, kênh, rạch trực tiếp chi phối chế độ thủy văn của
huyện và nét nổi bậc của dòng chảy và sự xâm nhập của thủy triều.
-
Lưu lượng nước kênh phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp (trồng rau sạch, lúa
nước, cây ăn quả,…).
-
Nguồn nước của huyện chủ yếu là nước ở các sông, kênh, rạch, hồ, ao. Tuy
nhiên, phân bố không đều tập trung ở phía Đông của huyện (Sông Sài Gòn) và
trên các vùng trũng phía Nam và Tây Nam với chiều dài gần 300 km cả hệ
thống, đa số chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều. Theo các kết quả điều
tra khảo sát về nước ngầm trên địa bàn huyện Củ Chi cho thấy, nguồn nước
ngầm khá dồi dào và đang giữ vị trí quan trọng trong việc cung cấp nước cho
sản xuất và sinh hoạt của người dân.
-
Chất lượng nhìn chung khá tốt trừ các khu vực vùng trũng như: Tam Tân, Thái
Mỹ. Ngoài ra, do tác dụng của hệ thống kênh Đông Củ Chi đã bổ sung một
lượng nước ngầm đáng kể, nâng mực nước ngầm lên từ 2 – 4m.
2.1.1.4 Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện Củ Chi là 43.450,2 ha và căn cứ nguồn gốc phát
sinh có 3 nhóm đất chính sau:
Đất phù sa: loại này lý tưởng cho việc trồng lúa độ bazơ cao, các chất dinh
dưỡng về mùn, đạm, lân và kali rất giàu. Đây là một loại đất rất quí hiếm, cần
thiết phải được cung cấp nước tưới, ưu tiên sản xuất lúa nước 2 đến 3 vụ và sử
dụng một phần diện tích nhỏ cho việc trồng cây ăn trái. Đất phù sa được hình
11
Nguồn nhân lực
thành trên các trầm tích Alluvi tuổi haloxen muộn ven các sông, kênh, rạch. Đất
có thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng.
Nhóm đất xám: Loại đất này rất dễ thoát nước, thuận lợi cho cơ giới hóa và
thích hợp với các loại cây công nghiệp hàng năm, cây công nghiệp ngắn ngày,
rau, đậu … Nên ưu tiên sử dụng cho việc trồng các cây như cao su, điều vì khả
năng bảo vệ và cải tạo đất tốt. Trong sử dụng phải chú ý biện pháp chống xói
mòn và rửa trôi, tăng cường phân bón bổ sung dinh dưỡng nhất là phân hữu cơ.
Nhóm đất đỏ vàng: Loại đất này có thể được sử dụng để trồng một số cây công
nghiệp: Cao su, ca cao, cà phê, điều,... Ngoài ra cũng có thể canh tác cây lương
thực: lúa, ngô, sắn mì,... có giá trị với việc trồng rừng và cây công nghiệp. Loại
này hình thành trên sản phẩm phong hóa của các loại đá mẹ và mẫu chất khác
nhau. Đặc điểm của nhóm đất này là chua, độ no bazơ thấp,khả năng hấp thụ
không cao, khoáng sét phổ biến là Kaolinit, axit mùn chủ yếu là fuvic, chất hòa
tan dễ bị rửa trôi.
2.1.1.5 Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản trên địa bàn huyện so với Thành Phố khá phong phú gồm có
các loại chủ yếu sau:
Mỏ Cao Lanh: có trữ lượng khoảng 5 triệu tấn phân bố chủ yếu ở Rạch Sơn.
Than bùn ở Tam Tân, trữ lượng khoảng 0,5 triệu tấn
Sạn sỏi ở Bầu Chứa, trữ lượng cấp B khoảng 0,8 triệu tấn.
Ngoài ra, còn có mỏ đất sét làm gạch ngói và đá xây dựng nhưng với trữ lượng không
đáng kể.
2.2 Một số chính sách giúp tạo việc làm cho người lao động
2.2.1 Đào tạo nghề giúp giải quyết việc làm
Đảng ta xác định: Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng,
Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông
thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Thực
hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng, thời gian qua huyện Củ Chi đạt được nhiều thành
công trong công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn được thành phố đánh giá
12
Nguồn nhân lực
cao. Kết quả này đã góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu giảm nghèo tăng hộ khá
trên địa bàn huyện.
Xác định công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn là một trong những nhiệm
vụ quan trọng để tạo điều kiện cho tất cả người dân có thêm kiến thức áp dụng vào sản
xuất, thay đổi nhận thức từ đó có việc làm ổn định nâng cao thu nhập phát triển kinh tế
gia đình góp phần giảm hộ nghèo, tăng hộ khá tạo nguồn lực quan trọng tiếp sức cho
chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện. Ngay từ năm đầu tiên
(2010) triển khai thực hiện đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020” của chính phủ, từ huyện đến xã, ấp, tổ nhân dân tập trung điều tra, khảo sát lao
động trong độ tuổi chưa có trình độ qua đào tạo để định hướng và tổ chức đào tạo cho
học nghề, nhu cầu học nghề của lao động nông thôn, nhu cầu sử dụng lao động qua
đào tạo nghề của các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh. qua khảo sát, huyện
đã xác định hơn 20 nghề có nhu cầu đào tạo của lao động nông thôn và 2.104 người có
nhu cầu học nghề, chiếm tỷ lệ 41% trên tổng số lao động chưa có việc làm, chưa qua
đào tạo.
-
Thực hiện đào tạo nghề cho lao động trên địa bàn huyện và chương trình hỗ trợ
dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn Ủy ban Nhân dân huyện đã kiểm
tra, giám sát, tuyên truyền vận động người lao động tham gia. Chỉ đạo các xã –
thị trấn rà soát lao động trong độ tuổi chưa có trình độ qua đào tạo, từ đó định
hướng và tổ chức đào tạo người lao động học nghề. Bên cạnh đó, Hội nông
dân, Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên, Huyện đoàn, Đài truyền thanh
cũng đã tổ chức 60 cuộc tuyên truyền, 06 đợt tuyên truyền, phân phối trên
2.700 sổ tay công tác dạy nghề, thường xuyên phát tin, bài trên hệ thống loa
không dây. Với các hình thức tuyên truyền trên, trên 90% hộ dân đã nắm bắt
được nội dung, chính sách theo Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ và
-
kế hoạch triển khai thực hiện của Ủy ban Nhân dân huyện, các xã – thị trấn.
Huyện đã tổ chức các lớp dạy nghề như tin học văn phòng, thú y, kỹ thuật nấu
ăn, kỹ thuật trồng rau an toàn, kỹ thuật trồng – chăm sóc và khai thác cây cao
-
su...
Kết quả 2010:
Theo khảo sát tổng lao động đã qua đào tạo nghề đến năm 2010 của
huyện là 79.629/181.866 người tham gia trong nền kinh tế, chiếm tỷ lệ
13
Nguồn nhân lực
43,78%. Từ năm 2010 đến nay, huyện đã mở 103 lớp đào tạo nghề theo
quyết định 1956 cho 3.819 học viên, trong đó có 1.226 học viên học
ngành nông nghiệp và 1.434 học viên học ngành phi nông nghiệp. Bên
cạnh đó còn có 52.211 lao động được đào tạo tại các doanh nghiệp, các
-
trung tâm đào tạo.
Kết quả 2013:
Thực hiện đào tạo nghề theo Quyết định 1956, Ủy ban Nhân dân huyện
đã mở 42 lớp có 1.230 học viên được tốt nghiệp, chiếm 86,98% so với
số học viên đăng ký, với kinh phí đào tạo trên 1 tỷ 575 triệu đồng.
Số lao động được đào tạo trên địa bàn huyện đến cuối năm 2013 là
133.133 người.
Tính đến cuối năm 2013, đã có 16.857 lao động đã được đào tạo qua
các hình thức như đào tạo nghề tại doanh nghiệp, tại các trung tâm đào
tạo và người lao động tự học nghề; nâng tổng số lao động đã qua đào
tạo trên toàn huyện là 133.133 lao động trên 181.866 người, chiếm
73,2% tổng số dân. Trong đó, đào tạo nông nghiệp là 2.785 lao động
chiếm 16,5% và đào tạo phi nông nghiệp là 14.072 lao động chiếm
83,5%.
-
Tiếp tục thực hiện Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ huyện đề ra mục
tiêu đào tạo 6.400 lao động và 1.560 lao động nông thôn trong năm 2015.
-
Uỷ ban Nhân dân Huyện yêu cầu Uỷ ban Nhân dân các xã – thị trấn xây dựng
kế hoạch, triển khai thực hiện và đưa vào nghị quyết các cấp ủy. Điều tra, cập
nhật cung lao động và khảo sát nhu cầu học nghề; tuyên truyền chính sách học
nghề cho người lao động trên địa bàn huyện; tuyên truyền sâu rộng về các chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước về đào tạo nghề để người
lao động nông thôn biết và tích cực tham gia học nghề; nhân rộng mô hình dạy
nghề có hiệu quả; gắn dạy nghề cho lao động nông thôn với chuyển đổi cơ cấu
cây trồng vật nuôi, giải quyết việc làm.
-
Huyện đưa ra những định hướng sản phẩm tập trung vào rau, hoa, bò sữa, tạo
việc làm tại chỗ cho người dân. Huyện đã sớm thực hiện: tập huấn khuyến
nông, xây dựng sổ tay hướng dẫn sản xuất các sản phẩm chủ lực này và tập
trung đào tạo nông dân làm nông. Áp dụng nhiều chính sách hỗ trợ cho vay
14
Nguồn nhân lực
phát triển sản xuất cho những hộ có dự án nuôi bò, hoa kiểng (có hộ được vay
hơn chục tỷ đồng). Từ đó có những bước phát triển sản xuất vượt bậc: Đàn bò
sữa tăng so với trước 22.000 con. Diện tích thủy sản tăng gần 100ha (gần gấp 2
lần so với trước). Đã chuyển được gần 2.000ha từ đất lúa sang trồng rau, hoa,
cỏ nuôi bò. Trung bình thu nhập 258 triệu/ha/năm, xuất hiện nhiều mô hình đạt
đến 800 triệu đồng/ha/năm.
-
Dù là nghề nông nghiệp hay phi nông nghiệp, sau khi hoàn thành chương trình
tại các lớp đào tạo nghề, phần lớn các người lao động đã phát huy được nghề
ngay tại địa phương hoặc hành nghề tại một số doanh nghiệp, người lao động
đã mạnh dạn đầu tư vào mô hình chăn nuôi sản xuất của mình để mang lại hiệu
quả kinh tế cao.
-
Huyện tiếp tục phát động phong trào thi đua sản xuất thực hiện các biện pháp
chuyển đổi cơ cấu kinh tế của huyện theo hướng “công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ. Thông qua việc thực hiện các chính
sách hỗ trợ sản xuất, kích cầu và tiêu dùng, sản xuất công nghiệp trên địa bàn
huyện đã tăng trưởng khá cao.
Đoàn công tác Trung ương đã đi kiểm tra thực tế và đặc biệt ấn tượng với các mô
hình sản xuất kinh tế giỏi đem lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân tại huyện Củ
Chi, như: mô hình nuôi cá kiểng tại xã Tân Thông Hội, trang trại nuôi bò sữa và mô
hình vườn lan tại xã An Nhơn Tây.
Ông Lê Văn Khá, Trưởng Phòng Lao động Thương binh và xã hội huyện cho biết:
“Trong 4 năm thực hiện Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn của huyện, cái
được lớn nhất là người nông dân đã thay đổi được nhận thức. Từ thói quen lao động
nhỏ lẻ trong sản xuất nông nghiệp, giờ đây phần lớn trong số họ đã mạnh dạn làm ăn
nhờ những kiến thức, hiểu biết thông qua các lớp tập huấn, các chương trình đào tạo
nghề... để đem lại hiệu quả cao hơn trong sản xuất, kinh doanh. Không chỉ nhiều nghề
mới đang cho thu nhập khá mà ngay trong sản xuất nông nghiệp, nhiều gia đình đã biết
áp dụng tiến bộ kỹ thuật nên năng suất cây trồng, vật nuôi, cao hơn trước. Số lao động
được học nghề ngày càng gia tăng, qua đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động. Một số lao động nông nghiệp, nông thôn đã chuyển sang lao động phi
nông nghiệp theo quá trình đô thị hóa. Số lao động còn lại được trang bị kỹ thuật mới
15
Nguồn nhân lực
theo hướng nông nghiệp đô thị. Cụ thể từ năm 2010 đến cuối 2012 đã có 534 hộ thoát
nghèo; 598 hộ vươn lên khá giả sau một năm tham gia học các lớp dạy nghề”.
2.2.2 Tạo việc làm thông qua xuất khẩu lao động
-
Huyện Củ Chi đã phát huy tối đa nguồn lực con người trong lao động phát triển
hôm nay, xuất khẩu lao động là một trong những biện pháp thoát nghèo nhanh
nhất cho hộ dân ở địa phương, đây cũng là biện pháp giải quyết tốt các vấn đề
xã hội, chỉ khi đời sống được nâng cao thì các công tác vận động sẽ dễ dàng và
thuận lợi hơn Tuy nhiên để cho việc xuất khẩu lao động sang thị trường các
nước giảm bớt những rủi ro đồng chí cũng đã lưu ý một số vấn đề mà địa
phương cần quan tâm như tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật và tìm hiểu
đối tác cũng như thị trường lao động giúp cho người dân có thông tin cần thiết
để lựa chọn cho phù hợp.
-
Trong những năm qua, những người đi xuất khẩu lao động tại các nước đã
mang về một nguồn tài chính khá lớn, góp phần phát triển kinh tế gia đình, xây
dựng địa phương, huyện Củ Chi phấn đấu đến cuối năm 2014, tuyên truyền,
vận động những người lao động hết hạn hợp đồng lao động tại Hàn Quốc và các
nước khác trở về nước đúng hạn, tạo cơ sở để thực hiện tốt chương trình xuất
khẩu lao động trong thời giao tiếp theo. Theo báo cáo của Ủy ban Nhân dân
huyện Củ Chi (Cuộc họp sáng ngày 20 tháng 6 với Trung tâm lao động ngoài
nước) năm 2014, trên toàn huyện Củ Chi có 52 người lao động có hộ khẩu
thường trú thuộc huyện Củ Chi, đang làm việc tại Hàn Quốc đã và sắp hết hạn
hợp đồng lao động phải về nước, chiếm 62% tổng số lao động tại Hàn Quốc
phải về nước năm nay của toàn thành phố. Qua quá trình tuyên truyền, vận
động, đến nay, số lao động hết hạn hợp đồng phải về nước từ đây đến cuối năm
2014 của huyện là 42 người. Việc người đi xuất khẩu lao động về nước đúng
hạn sau khi hợp đồng lao động kết thúc sẽ tạo thuận lợi rất lớn cho bản thân họ
có cơ hội được trở lại làm việc tại nước đó chỉ trong từ 3 đến 6 tháng.
2.2.3 Chính sách “Nông thôn mới” góp phần nâng cao đời sống người lao động
Được Thành phố đầu tư lớn để thực hiện xây dựng nông thôn mới: trong 3 năm, ngân sách
thành phố, huyện đạt 1.390 tỷ đồng, chiểm khoảng 80% tổng mức đầu tư.
16
Nguồn nhân lực
Khuyến khích hỗ trợ tín dụng cho sản xuất nông nghiệp, đạt mức khoảng 1.584
tỷ.
Thu nhập bình quân tăng từ 21 triệu lên 40 triệu đồng/người/năm (trước khi làm
nông thôn mới là 19 triệu đồng). Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 3,8% theo chuẩn nghèo
thành phố (theo chuẩn nghèo Trung ương, tỷ lệ này giảm còn khoảng dưới 1%).
Từ năm 2012 đã xây dựng cuộc thi mẫu kiến trúc nhà ở và cảnh quan nông
thôn, tạo điều kiện để các xã hướng dẫn người dân xây dựng, cải tạo chỉnh trang nơi ở.
Cơ sở hạ tầng nâng cấp giúp đỡ nhiều trong lao động cũng như sinh hoạt cho
người dân. Giao thông (cả giao thông nội đồng), làm mới, sửa chữa nâng cấp đạt
chuẩn 204km đường trục liên xã, 211km trục liên ấp, 80km đường ngõ xóm, 145km
đường trục nội đồng. Đây là hạng mục được đầu tư lớn do là huyện ven đô, nhiều
tuyến đường giao thông chính được làm với tiêu chuẩn kỹ thuật cao hơn yêu cầu. Thủy
lợi, cấp nước phục vụ chăn nuôi, nhà văn hóa ấp.
Định hướng cho người dân chuyển dần diện tích đất nông nghiệp sản xuất kém
hiệu quả sang các mô hình sản xuất tiên tiến hiệu quả cao nhằm góp phần cải thiện
cuộc sống và nâng cao thu nhập cho người dân. Theo chuẩn nghèo Thành phố năm
2014, tổng số hộ nghèo thu nhập dưới 16 triệu đồng/người/năm hiện nay là 88/3.439
hộ (chiếm 2,58%).
Thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn mới, trong năm 2012 – 2013,
xã Tân Thông Hội và xã Thái Mỹ đã đào tạo cho 605 lao động với kinh phí 781 triệu
800 ngàn đồng. Song song đó, thông qua nguồn vốn Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm,
Quỹ 156, Quỹ xóa đói giảm nghèo, huyện đã hỗ trợ cho 3.475 lượt lao động vay vốn
với số tiền 50 tỷ 844 triệu đồng.
Xã Tân Thạnh Đông tổ chức lớp tập huấn về công tác thú y trong chăn nuôi bò
sữa cho 26 học viên. Đây là lớp học nằm trong chương trình đào tạo nghề do Phòng
lao động thương binh và xã hội kết hợp với Trường Trung cấp nghề huyện thực hiện
nhằm trang bị những kiến thức nghề căn bản cho lao động nông thôn dành cho các xã
xây dựng mô hình nông thôn mới.
Chi cục Phát triển nông thôn thành phố vừa đến xã An Nhơn Tây tổ chức lớp
tập huấn về việc xây dựng hợp tác xã ở xã nông thôn mới. 70 bà con đến dự đã được
trang bị các kiến thức về xây dựng mô hình hợp tác xã nông nghiệp, kinh tế hộ gia
17
Nguồn nhân lực
đình, lập trang trại, tổ hợp tác… nhằm định hướng để bà con cùng tham gia vào mô
hình kinh tế hợp tác, làm ăn tập thể… tạo thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa
nông sản làm ra, ổn định kinh tế gia đình.
Trạm Khuyến nông và Trạm Thú y huyện phối hợp tổ chức lớp hội thảo về
phòng chống dịch bệnh trong chăn nuôi. Có gần 50 bà con của các xã như An Nhơn
Tây, An Phú, Nhuận Đức và Trung Lập Thượng đến dự. Nội dung tập huấn xoay
quanh các vấn đề tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc gia cầm trong năm 2010 và công
tác phòng chống dịch bệnh năm 2011. Đồng thời hướng dẫn các phương pháp an toàn
sinh học trong chăn nuôi; cách xử lý chất thải, tiêu độc khử trùng chuồng trại; tiêm
phòng dịch bệnh; cách thức bảo vệ nguồn nước sạch và tạo nguồn thức ăn sao cho đảm
bảo vệ sinh, an toàn cho đàn gia súc, gia cầm.
Xã Tân Thạnh Đông và Thái Mỹ tổ chức lớp tập huấn về kỹ thuật chăn nuôi cá,
bò sữa, bò ta cho bà con chăn nuôi. Đây là chương trình tập huấn dành cho xã nông
thôn mới, tạo điều kiện để bà con nông dân được học tập nhiều ngành nghề khác nhau
trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống.
Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, bà con đã ý
thức được ruộng, đất nếu có được đường giao thông qua lại, bà con nông dân sẽ thuận
lợi hơn trong việc vận chuyển phân tro ra ruộng cho người dân sản xuất và chở hàng
nông sản đem bán được thuận lợi, dễ dàng hơn, nên cùng nhau hiến đất làm đường
giao thông nông thôn, giao thông nội đồng. Mặc dù có hộ ruộng đất ít, nhà cửa còn
nhiều khó khăn, nhưng cũng vì lợi ích chung mà tham gia hiến đất. 100% hộ dân có
đường đi qua nhà đều hiến đất với 1.293 hộ dân hiến đất 264.655 m2 ước trị giá 105 tỷ
862 triệu đồng. Chỉ tính riêng tại ấp Bình Hạ Đông đã có 120 hộ dân tự nguyện tham
gia hiến đất với diện tích 89.900m2 đất để xây dựng 5 tuyến đường trị giá 22 tỷ 250
triệu đồng.
2.2.4 Công nghiệp phát triển nâng cao mức sống người lao động
Trong tháng 8 năm 2010 giá trị sản xuất ngành công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp đạt gần 488 tỷ đồng, tăng 2,29% so với tháng trước, đạt 101,43% kế hoạch
năm, tăng 88,4% so với cùng kỳ; thương mại – dịch vụ đạt trên 690 tỷ đồng, tăng
1,92% so với tháng trước, đạt 71,14% kế hoạch năm, tăng 36,62% so với cùng kỳ; kim
ngạch xuất khẩu đạt 4.980 ngàn USD, giảm 35,34% so tháng trước, đạt 65,87% kế
18
Nguồn nhân lực
hoạch năm, giảm 28,6% so cùng kỳ. Trong thực hiện chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,
toàn huyện đã chuyển đổi 3.42,34 ha đất sang trồng các loại cây con khác, đến nay
diện tích đất trồng lúa còn 6.525,89 ha, đạt 92, 59% kế hoạch năm. Các hoạt động trên
lĩnh vực văn hóa xã hội được chú trọng với nhiều hoạt động thiết thực chăm lo đến đời
sống vật chất tinh thần cho người dân như giải quyết việc làm, tặng nhà tình nghĩa, nhà
tình thương, hỗ trợ vốn... đã góp phần đưa ra khỏi chương trình xóa đói giảm nghèo
3.202 hộ. Như vậy đến nay còn 19.738 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 20, 85% so với tổng số
hộ trong toàn huyện. Các ngành đoàn thể quan tâm chăm lo đến hộ nghèo bằng nhiều
giải pháp thiết thực, hiệu quả. Chuẩn bị tốt cho năm học mới 2010 – 2011, đảm bảo
vận động 100% các em trong độ tuổi đều được đến trường. Quản lý tốt hoạt động
Internet, nhất là việc di dời các điểm đang hoạt động gần trường học. Chú ý đến công
tác phòng chống tội phạm, nhất là tình hình trộm cắp, vi phạm Luật giao thông đường
bộ... phấn đấu thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu kinh tế - xã hội mà huyện đã đề ra
trong năm 2010.
Theo Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ 11 khóa X,
những tháng cuối năm 2012, huyện phấn đấu thực hiện đạt 100% kế hoạch đối với các
chỉ tiêu về tăng trưởng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp, thương mại
dịch vụ, thu ngân sách Nhà nước; tập trung thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ về
những giải pháp tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh
xã hội gắn với thực hiện Nghị quyết số 13 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ
khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường; đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự
án trung tâm thương mại, nghĩa trang công viên An Nhơn Tây, thực hiện giải tỏa đền
bù các dự án và khu tái định cư; củng cố và nâng cao chất lượng các loại hình kinh tế
tập thể ; hoàn thành quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5
năm 2011 – 2015 đối với các xã; đẩy nhanh tiến độ hoàn thành công tác cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho người dân và tiến độ xây dựng nông thôn
mới tại các xã.
Sau 2 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 22 (Chỉ thị số 22 – CT/TW của Ban bí
thư về “Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn
định và tiến bộ trong doanh nghiệp” và Chương trình “Đồng hành cùng doanh
nghiệp”) hoạt động của công đoàn cơ sở được định hướng và nâng dần chất lượng.
19
Nguồn nhân lực
Liên đoàn lao động đã thành lập mới 140 công đoàn cơ sở và phát triển 13.910 đoàn
viên, nâng tổng số công đoàn cơ sở lên 372 đơn vị. Bên cạnh đó, ý thức trách nhiệm
của người sử dụng lao động trong việc xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và
tiến bộ trong doanh nghiệp từng bước được nâng cao. Người sử dụng lao động đã nhận
thức được tầm quan trọng của tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp và tạo điều kiện
nhiều hơn cho công đoàn cơ sở hoạt động cũng như chăm lo nhiều hơn cho người lao
động. Hai năm qua các công đoàn cơ sở ở các doanh nghiệp đã chăm lo cho người lao
động với số tiền 2.487.687.000 đồng. Một số doanh nghiệp như Công ty Việt Nam
Samho, Công ty may túi xách Sài Gòn, Công ty Tân Hùng Ngọc… đã có nhiều hoạt
động giúp người lao động ổn định cuộc sống như tổ chức đám cưới cho công nhân,
xây dựng nhà lưu trú, xây dựng nhà trẻ… Đội ngũ công nhân lao động ngày càng nâng
cao hơn về kiến thức pháp luật lao động, tác phong công nghiệp, duy trì đạo đức lối
sống lành mạnh hơn. Công đoàn cơ sở cần phối hợp với người sử dụng lao động tổ
chức bồi dưỡng nâng chất lượng, trình độ tay nghề, trình độ văn hóa, xây dựng tác
phong công nghiệp trong công nhân. Các ngành chức năng thường xuyên theo dõi và
nắm tình hình việc làm, đẩy mạnh công tác kiểm tra về thực hiện pháp luật lao động,
về ký kết thỏa ước lao động tập thể. Quan tâm hơn nữa đến đời sống của người lao
động để kịp thời tham gia giải quyết giúp cho người lao động đảm bảo cuộc sống, an
tâm lao động sản xuất, giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất và phát triển. Hướng dẫn
đối thoại giữa người sử dụng lao động và người lao động để tạo sự hài hòa.
Để thực hiện Nghị quyết 20, Liên đoàn lao động huyện tổ chức quán triệt, tuyên
truyền 32 cuộc về các nội dung xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ
CNH – HĐH đất nước đến với công nhân viên chức lao động thu hút 20.000 đoàn viên
công đoàn và 10.000 công nhân lao động tham gia. Đồng thời, tuyên truyền 169 cuộc
tại các doanh nghiệp về Luật lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật bảo hiềm thất
nghiệp cho hơn 21.500 lượt công nhân. Phát hành đĩa CD và hơn 17.000 tờ rơi các loại
về các loại luật có liên quan đến người lao động. Hướng dẫn công đoàn cơ sở dự thảo
nội dung, tổ chức thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể. Có 129/160 đơn
vị đã ký thỏa ước lao động tập thể. Ngoài ra, Liên đoàn lao động huyện gắn việc triển
khai Nghị quyết 20 với thực hiện cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” với công tác đẩy mạnh phong trào thực hành tiết kiệm chống lãng
20
Nguồn nhân lực
phí. Bên cạnh đó, Liên đoàn lao động đã chỉ đạo theo dõi và cử cán bộ, chuyên viên
trực tiếp đi cơ sở, nắm tình hình triển khai quán triệt Nghị quyết tại các công đoàn cơ
sở nhằm đôn đốc đẩy nhanh tiến độ thực hiện triển khai một cách rộng rãi và có chất
lượng. Qua 3 năm Liên đoàn lao động huyện đã thành lập mới 129 công đoàn cơ sở,
phát triển 17.032 đoàn viên. Các công đoàn cơ sở có những chuyển biến tích cực trong
thực hiện Nghị quyết. Nhiều công đoàn cơ sờ chú ý nhiều hơn đến nội dung thực hiện
nhằm xây dựng chất lượng người lao động và chất lượng hoạt động công đoàn. Công
đoàn cơ sở kịp thời tham gia cùng chính quyền, chủ doanh nghiệp giải quyết chế độ,
chính sách cho người lao động theo quy định hiện hành; đồng thời tích cực hỗ trợ tư
vấn, giới thiệu cho gần 5.000 công nhân lao động có việc làm tại các doanh nghiệp
khác cùng ngành nghề.
Việc nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, tay nghề trong công nhân viên
chức lao động tại các đơn vị doanh nghiệp là một yêu cầu bức thiết cho công nhân lao
động nhằm nâng cao thu nhập, ổn định việc làm. Từ nhận thức trên, Liên đoàn lao
động huyện và các công đoàn cơ sở phối hợp tốt với thủ trưởng cơ quan, đơn vị, giám
đốc các doanh nghiệp hỗ trợ tạo điều kiện cho 10.350 cán bộ, công nhân viên chức lao
động theo học các lớp bổ túc văn hóa, tin học, ngoại ngữ, chuyên môn nghiệp vụ. Qua
đây phần lớn công nhân viên chức lao động nhận thấy việc nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn, tay nghề không chỉ đảm bảo được việc làm ổn định lâu dài, nâng cao thu
nhập mà họ cảm thấy khi mất việc họ dễ tìm việc làm hơn. Còn chủ doanh nghiệp xem
việc thực hiện Nghị quyết 20 là trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp vừa tạo
mối quan hệ lao động hài hòa, vừa khắc phục khó khăn về nhân lực góp phần phát
triển sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt điều nay phải kể đến các công ty như Việt
Nam Samho, Quảng Việt, Đệ Nhất. Riêng công ty Việt Nam Samho còn tổ chức 3 lớp
ngoại ngữ trình độ A cho gần 200 công nhân lao động. Ngoài ra, Liên đoàn lao động
huyện phối hợp Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện tổ chức triển khai học tập 4 bài
lý luận chính trị cơ bản một cách linh hoạt cho người lao động, nhất là số công nhân
trẻ đang làm việc trong khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước
ngoài.
Trong tháng 8/2015, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế ước đạt trên
1.650 tỷ đồng, tính từ đầu năm đến nay đạt gần 68% kế hoạch năm, tăng trên 29% so
21
Nguồn nhân lực
với cùng kỳ. Doanh số bán hàng ước thực hiện trên 2.003 tỷ đồng, đạt trên 68% kế
hoạch năm, tăng gần 23% so với cùng kỳ. Huyện thực hiện 2 đợt bán hàng lưu động
tại các xã và tính từ đầu năm đến nay, huyện đã tổ chức 63 đợt, cung cấp khoảng 80
đến 100 mặt hàng thiết yếu phục vụ nhân dân, doanh thu bình quân mỗi đợt khoảng 5
đến 8 tỷ đồng.
2.2.5 Tạo điều kiện cho lao động thất nghiệp
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động đang hưởng trợ cấp thất
nghiệp, lao động thanh niên chưa có việc làm, sinh viên, học sinh và đặc biệt là lao
động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, gia đình chính sách trên địa bàn huyện Củ Chi
tiếp cận thông tin tuyển dụng của các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân lựa
chọn và quyết định cho mình một công việc mới phù hợp với trình độ, khả năng hiện
có, ngày 24/6/2016, Trung tâm dịch vụ việc làm Thành phố tổ chức Sàn giao dịch việc
làm lưu động lần thứ 2-2016 tại Cơ sở 2 của Trung tâm dịch vụ việc làm thành phố Hồ
Chí Minh đóng tại huyện Củ Chi.
Phiên giao dịch việc làm thu hút 8 đơn vị tham gia tuyển dụng trực tiếp tại sàn
với hơn 4.000 vị trí việc làm ở các ngành nghề như điện, cơ khí, may, dệt, hàn kế toán,
thiết kế xây dựng, lao động phổ thông… với mức lương cơ bản từ 3.500.000 –
5.000.000 đồng.
Tại đây, người lao động sẽ được hướng dẫn điền vào phiếu đăng ký giới thiệu
việc làm và được các doanh nghiệp tư vấn về công việc, mức lương phù hợp với trình
độ chuyên môn của từng người.
Trong sàn giao dịch việc làm lần này, có tổng cộng 550 người lao động đến
tham gia đăng ký tuyển dụng. Trong đó, sồ người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp đến
tham gia là 450 người; 60 người lao động chưa có việc làm trên địa bàn huyện Củ Chi
và 40 người là sinh viên học sinh. Thông qua sàn giao dịch lần này có 450 người lao
động được doanh nghiệp phỏng vấn, sơ tuyển trực tiếp tại sàn.
2.2.6 Một số khó khăn cho việc tạo việc làm
Quy hoạch đô thị, khu công nghiệp trong nhiều năm chưa rõ rệt, gây khó khăn
cho các xã trong quy hoạch nông thôn mới, nhất là phát triển sản xuất nông nghiệp.
22
Nguồn nhân lực
Đất rộng nhưng tỷ lệ hoang hóa nhiều, nhiều vùng đất chua phèn, sản xuất nông
nghiệp trước nông thôn mới chưa được coi trọng nên thu nhập người nông dân còn
thấp, không có sản phẩm chủ lực rõ rệt.
Tỷ lệ nhà tạm, dột nát còn nhiều (~500 căn), tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với bình
quân chung.
Dưới tác động của nhiều yếu tố, nhất là kinh tế thị trường đã tiến hành sàng lọc
các sản phẩm làng nghề một cách tự nhiên. Những sản phẩm làng nghề nào phù hợp
với nhu cầu thị trường thì tồn tại phát triển, ngược lại những làng nghề nào không cạnh
tranh được, thị trường không chấp nhận thì dần bị thu hẹp. Kéo theo sự lụi tàn đó là sự
mất đi những giá trị truyền thống văn hoá của địa phương. Nằm trong xu hướng chung
đó trong những năm gần đây, làng nghề bánh tráng Phú Hoà Đông (Người dân ở đây
chủ yếu sống bằng nghề tráng bánh và chăn nuôi. Theo thống kê, vào thời điểm cao
nhất, toàn xã có 2.300 lò tráng bánh, trong đó có 1.500 lò tráng bánh xuất khẩu, mỗi
ngày sản xuất ra khoảng 30 tấn sản phẩm, tổng sản lượng hàng năm tạo ra hàng trăm
tỷ đồng, góp phần rất lớn trong công tác xóa đói giảm nghèo của xã, giải quyết việc
làm cho khoảng 5 ngàn lao động tại chỗ, vì thế đây là làng nghề có ý nghĩa rất quan
trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội tại xã Phú Hoà Đông nói riêng và thành phố Hồ
Chí Minh nói chung) cũng đang gặp phải những tác động tương tự. Những khó khăn
ảnh hưởng đến sự phát triển nói chung của làng nghề, cụ thể:
Thứ nhất, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, không tập trung, mang tính thủ công
nhiều (chiếm khoảng 92%), từ đó kéo theo năng suất chất lượng chưa cao đây
là điểm hạn chế rất lớn mà làng nghề bánh tráng hiện nay cần phải khắc phục.
Sản xuất hàng hoá không thể nào chỉ sử dụng đôi tay, mấy cây củi, ngày sản
xuất ra được 15 – 20 kg/bánh tráng /hộ gia đình.
Thứ hai, việc sản xuất còn mang tính tự phát, chưa có sự liên kết từ khâu sản
xuất đến người tiêu dùng, sản phẩm làm ra không định vị trước được đầu ra (chỉ
có 6,7% số hộ có ký kết các hợp đồng nguyên tắc), gặp thời điểm thị trường có
người mua thì bán được, ngược lại thì đem về nhà để dành ăn, dần dần dẹp lò.
Thứ ba, vấn đền vệ sinh an toàn thực phẩm chỉ có một số ít các hộ sản xuất lớn
mới quan tâm, nhưng chưa có chiều sâu. Chỉ có 13,6% số hộ sản xuất là có
quan tâm, còn lại 86,4% số hộ chưa quan tâm. Sản phẩm của làng nghề tạo ra
23
Nguồn nhân lực
món ăn trực tiếp cho người tiêu dùng, nhưng người sản xuất không có kiến thức
gì về an toàn thực phẩm, chưa được hướng dẫn về an toàn vệ sinh thực phẩm,
…..điều này rất nguy hiểm cho người tiêu dùng, nhất là khi xuất khẩu bánh
tráng đi các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ năm, công nghệ bảo quản đóng gói sản phẩm của làng nghề hiện nay còn
lạc hậu, nên thời gian bảo quản ngắn, tạo áp lực về thời gian tiêu thụ của sản
phẩm, điều này ảnh hưởng đến giá đầu ra của sản phẩm.
Thứ sáu, thành phố Hồ Chí Minh là nơi có chỉ số tốc độ đô thị hoá cao nhất
nước, các vùng ven ngoại thành dần dần phát triển thành các khu công nghiệp,
khu đô thị, khu bảo dưỡng, sân golf,…Riêng tại xã Phú Hoà Đông, sự phát triển
rất nhanh chóng của các ngành về thương mại, dịch vụ, xây dựng,….làm cho
diện tích đất khu vực sản xuất của làng nghề giảm đi nhanh chóng, mà sản xuất
bánh tráng phải cần nhiều diện tích để phơi bánh. Hơn nữa, lao động là yếu tố
mà làng nghề phải đối diện trong nay mai, nếu xét về thu nhập thì mức lao động
tại làng nghề không thua kém so với thu nhập trong các ngành phi nông nghiệp
khác, nhưng do tính chất của nghề bánh tráng không thu hút được lực lượng lao
động trẻ bây giờ tham gia vào sản xuất của làng nghề, đây là một thách thức rất
lớn.
Thứ bảy, sản phẩm của làng nghề khi được xuất khẩu mới tạo ra giá trị mới cao
được, từ đó kéo theo sự phát triển của làng nghề. Gia nhập WTO là cơ hội lớn
để các sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài, chính sự mở rộng đó
làm ảnh hưởng trực tiếp đến thế mạnh hay tiềm lực của một quốc gia khác, đo
đó là hạn chế khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trong nước, có ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích của công dân họ hay một lý do chính trị nào khác, nên việc
bảo hộ các mặt hàng trong nước, bảo vệ người sản xuất trong nước hay đặt ra
các rào cản luôn được các nước quan tâm, từ đó đặt ra các điều kiện nghiêm
ngặt. Nếu chúng ta không chứng minh được đấy là một hạn chế lớn. Hơn nữa
sản phẩm bánh tráng là nhu loại thực phẩm nên vấn đề về an toàn thực phẩm là
hết sức quan trọng, trong khi làng nghề bánh tráng còn rất yếu về an toàn vệ
sinh thực phẩm.
24
Nguồn nhân lực
Thứ tám, hiện nay dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm
cho thị trường sản phẩm bánh tráng giảm đáng kể, điều này ảnh hưởng trực tiếp
đến lượng tiêu thụ cũng như giá cả của các sản phẩm làng nghề bánh tráng.
25