BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
SỬ THỊ MỸ HÀ
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ
HÌNH ẢNH SIÊU ÂM QUA ĐƯỜNG TRỰC TRÀNG
Ở BỆNH NHÂN XUẤT TINH MÁU
LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP II
HÀ NỘI - 2019BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
SỬ THỊ MỸ HÀ
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ
HÌNH ẢNH SIÊU ÂM QUA ĐƯỜNG TRỰC TRÀNG
Ở BỆNH NHÂN XUẤT TINH MÁU
Chuyên ngành
: Chẩn đoán hình ảnh
Mã số
: CK. 62720501
LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP II
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Duy Huề
HÀ NỘI – 2019
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và làm luận văn, tôi đã nhận được sự quan
tâm, giúp đỡ rất nhiều của nhà trường, bệnh viện, gia đình và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, phòng đào tạo sau đại học
trường đại học y Hà Nội, Bộ môn chẩn đoán hình ảnh trường đại học y Hà nội
đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoành thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn:
Khoa chẩn đoán hình ảnh bệnh viện Việt Đức.
Trung tâm Nam Học bệnh viện Việt Đức.
Khoa xét nghiệm huyết học, sinh hóa bệnh viện Việt Đức.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS
Nguyễn Duy Huề- Nguyên chủ nhiệu bộ môn chẩn đoán hình ảnh trường đại
học y Hà Nội, thầy là tấm gương sáng về học tập và làm việc, tuy nghiêm
khắc nhưng đầy trách nhiệm, thầy đã dạy bảo, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện
tốt nhất giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Phạm Minh Thông- Nguyên chủ
nhiệm bộ môn chẩn đoán hình ảnh đại học y Hà Nội, thầy đã luôn động viên,
quan tâm và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho chúng tôi trong quá trình học tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn các nhà khoa học trong Hội đồng chấm đề
cương và chấm luận văn đã đóng góp cho tôi nhiều ý kiến quí báu, giúp tôi
hoàn thiện luận văn này.
Tôi cũng không quên gửi lời cảm ơn tới BSCKII. Vũ Hải ThanhTrưởng khoa chẩn đoán hình ảnh bệnh viện Việt Đức, cùng các anh chị em
bác sỹ, điều dưỡng, kỹ thuật viên khoa chẩn đoán hình ảnh bệnh viện Việt
Đức, những người đã luôn yêu thương, động viên, giúp đỡ tôi trong học tập
cũng như trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
Tôi xin gửi tình cảm thân thương tới các anh chị em cùng khóa chuyên
khoa II, các bác sỹ nội trú, cao học, chuyên khoa I đã luôn đồng hành, cùng
tôi trải qua nhiều lần thi với nhiều cảm xúc và kỷ niệm đáng nhớ.
Cuối cùng tôi xin gửi trọn lòng biết ơn và tình cảm yêu quí nhất tới
người thân trong gia đình, những người đã luôn sát cánh, động viên, giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập.
Hà Nội, Ngày 10 tháng 8 năm 2019
Sử Thị Mỹ Hà
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Sử Thị Mỹ Hà, học viên CKII khóa 31, chuyên ngành Chẩn đoán hình ảnh,
Trường Đại học Y Hà Nội, xin cam đoan:
1.
Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
2.
dẫn của PGS.TS. Nguyễn Duy Huề.
Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
3.
được công bố tại Việt Nam.
Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp nhận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2019
Sử Thị Mỹ Hà
DANH TỪ VIẾT TẮT
BN
: Bệnh nhân
BV
: Bệnh viện
CLVT: Cắt lớp vi tính
MRI
: Cộng hưởng từ
TRUS
: Siêu âm qua đường trực tràng
TSV
: Nội soi túi tinh qua đường niệu đạo
XN
: Xét nghiệm
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC HÌNH
11
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xuất tinh máu (Hematospermia) được định nghĩa là hiện tượng có máu
trong tinh dịch, có thể quan sát bằng mắt thường hoặc kính hiển vi, tùy thuộc
vào thời gian mà máu có thể đỏ tươi hoặc nâu thẩm, trong hầu hết trường hợp
xuất tinh máu không gây đau [1],[2],[3]
Xuất tinh máu là một bệnh khá phổ biến và gây ra nhiều lo lắng ở nam
giới, tuy nhiên dịch tể của xuất tinh máu thường không được thống kê chính
xác do nam giới thường không quan sát tinh dịch của mình và cũng là bệnh
nhạy cảm nên ít được thừa nhận. Theo một số nghiên cứu, xuất tinh máu chiếm
tỷ lệ 1-1,5% các bệnh lý tiết niệu, thường gặp người trẻ tuổi <40, có thể một
lần hoặc nhiều lần, thời gian xuất hiện thay đổi từ 1-24 tháng [1],[4],[5]
Trong lịch sử, xuất tinh máu được cho là do kiêng khem tình dục kéo dài
hoặc do hoạt động tình dục quá mức. Ngày nay do tiến bộ trong chẩn đoán
nên nguyên nhân gây xuất tinh máu dần được xác định [2]
Hầu hết các trường hợp xuất tinh máu là lành tính như viêm đường tiết
niệu – sinh dục và có thể điều trị khỏi hoàn toàn, một số ít các trường hợp là
thứ phát sau một bệnh tiềm ẩn như ung thư tuyến tiền liệt, ung thư tinh
hoàn…Vì vậy bệnh cần sự đánh giá một cách hệ thống của các chuyên gia
nam học-tiết niệu.
Các yếu tố có thể gây xuất tinh máu đa dạng, được phân loại theo từng
nhóm như sau: tự phát, dị dạng bẩm sinh, viêm nhiễm, tắc nghẽn, bệnh lý ác
tính, bất thường mạch máu, chấn thương và các nguyên nhân khác. Vị trí tổn
thương có thể từ tinh hoàn, mào tinh hoàn, ống dẫn tinh, túi tinh, tuyến quanh
niệu đạo, niệu đạo, tuyến tiền liệt và bàng quang. Các nhóm nguyên nhân lành
tính thường gặp ở nhóm tuổi nam dưới 40 tuổi, nhóm nguyên nhân ác tính
thường gặp ở nhóm tuổi nam trên 40 tuổi [2], [4]
Chẩn đoán xuất tinh máu trước đây chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm
sàng, và xét nghiệm tinh dịch đồ, chưa quan tâm nhiều đến xác định nguyên
12
nhân, chủ yếu cho rằng tự phát, vì vậy chưa có phác đồ điều trị hợp lý và hiệu
quả cho người bệnh
Hiện nay với sự phát triển của y học nói chung và ngành chẩn đoán hình
ảnh nói riêng, việc áp dụng các phương phát như siêu âm, cắt lớp vi tính
(CLVT), cộng hưởng từ (MRI) trong chẩn đoán các yếu tố liên quan đến hiện
tượng xuất tinh máu ngày càng được áp dụng rộng rãi và mang lại hiệu quả cao
Trong khi CLVT và cộng hưởng từ là những phương pháp đắt tiền khó
áp dụng đại trà, siêu âm qua đường trực tràng (TRUS) là một phương pháp
chẩn đoán hình ảnh không xâm lấn, rẻ tiền, dễ làm, mang lại hiệu quả cao
trong chẩn đoán các bệnh lý liên quan đến xuất tinh máu.
Trên siêu âm qua đường trực tràng chúng ta có thể đánh giá cấu trúc giải
phẫu cũng như bất thường của túi tinh, ống phóng tinh, tuyến tiền liệt, cho
hình ảnh chi tiết, rõ nét hơn so với siêu âm trên đường bụng, ngoài ra qua siêu
âm đường trực tràng có thể tiến hành sinh thiết tuyến tiền liệt nếu nghi ngờ
ung thư.
Trên thế giới việc áp dụng siêu âm qua đường trực tràng đã được tiến hành
từ những năm 90 của thế kỷ trước và đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn
đề này [5],[6].
Tại Việt Nam, hiện nay hệ thống máy siêu âm có đầu dò trực tràng đang
được trang bị rộng rãi tại các cơ sở y tế như: Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện
Bạch Mai, Bệnh viện K… tạo điều kiện nâng cao chất lượng chẩn đoán các
bệnh lý về túi tinh-tuyến tiền liệt nói chung và bệnh lý xuất tinh máu nói
riêng. Tuy nhiên hiện tại chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề
này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đặc điểm lâm sàng, cận
lâm sàng và hình ảnh siêu âm qua đường trực tràng ở bệnh nhân xuất
tinh máu” với hai mục tiêu sau:
1.
2.
Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân xuất tinh máu
Mô tả đặc điểm hình ảnh siêu âm qua đường trực tràng ở bệnh nhân xuất
tinh máu.
13
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1.
Sơ lược lịch sử nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Xuất tinh máu (Hemospemia) được định nghĩa là có sự hiện diện của
máu trong tinh dịch, đã được chẩn đoán trong nhiều thế kỷ trước.
Người đầu tiên có bài báo cáo đầy đủ về hiện tượng xuất tinh máu là
Lydton (Hugues) vào năm 1894, theo tác giả trong y văn các nhà khoa học
như Hippocrates, Galen, Pare, Morgagni và Fournier đã từng có các nhận xét
về hiện tượng này, ngoài ra một số tác giả khác như Dermarquary (1865),
Guelliot (1882), Hugues (1894), Keersmecker (1899) cũng đề cập đến hiện
tượng này [7].
Hầu hết xuất tinh máu đều có liên quan đến các bệnh lý tuyến tiền liệt,
túi tinh, ống dẫn tinh, tinh hoàn, niệu đạo, bàng quang…
Nguyên nhân chủ yếu nhất gây xuất tinh ra máu ở nam giới đã được báo
cáo gồm: sau sinh thiết tuyến tiền liệt, phì đại tuyến tiền liệt, vôi hóa tuyến
tiền liệt. Ngoài ra một số nguyên nhân khác như viêm tuyến tiền liệt, viêm túi
tinh...tuy nhiên, phần lớn xuất tinh máu là vô căn và vị trí thường gặp nhất là
chảy máu trong túi tinh [2].
Triệu chứng lâm sàng đa dạng thường thấy thấy như: đổi màu tinh dịch
sang nâu đỏ, đau vùng chậu, đau khi xuất tinh, đau tinh hoàn... [5]
Năm 1969, Ross và cộng sự cho rằng hầu hết các trường hợp xuất tinh
máu là vô căn khi nghiên cứu trên 31 trường hợp xuất tinh máu [2]
Một trong những nghiên cứu với số lượng lớn trường hợp xuất tinh máu
được báo cáo bởi Leary và cộng sự (1974), nghiên cứu >200 bệnh nhân, trong
14
đó 75% trường hợp > 40 tuổi, 63% trương hợp xuất tinh máu vô căn, 4% có
ung thư tuyến tiền liệt, 1% ung thư bàng quang [2]
Zinrral và cộng sự (1997) đã nghiên cứu thấy có 75% trường hợp xuất
tinh máu ở nam giới trên 40 tuổi là vô căn [2]
Tuy nhiên một nghiên cứu khác của Han và cộng sự (2004) nghiên cứu trên
26.126 bệnh nhân xét nghiệm sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt thông thường, chỉ
có 0,5% có biểu hiện xuất tinh máu, nhưng 14% trường hợp có xuất tinh máu
được chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy đối với trường hợp nam giới >40
tuổi bị xuất tinh máu thì nên sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt [2].
Sau này khi mà siêu âm phát triển, đặc biệt là siêu âm qua đường trực
tràng cho phép đánh giá rõ hơn về tuyến tiền liệt, đã có các nghiên cứu khác
khi sử dụng siêu âm qua đường trực tràng (TRUS).
Worischeck và cộng sự (1994) nghiên cứu 21 trường hợp xuất tinh máu
mạn tính qua đường trực tràng, thấy 92% trường hợp có bất thường gồm: giãn
túi tinh 31%, nang ống phóng tinh 15%, vôi hóa ống phóng tinh và túi tinh
15%, nang túi tinh 8%, nang ống mullerian 8% [6].
Cũng tương tự Amano và cộng sự 1994 nghiên cứu trên
46 trường hợp xuất tinh máu qua đầu dò đường trực tràng,
thấy bất thường chiếm 75% bao gồm: vôi hóa tuyến tiền liệt
37%, phì đại lành tính 24%, viêm tuyến tiền liệt 9%, giãn túi
tinh 24%, vôi hóa túi tinh 7%, các u nang khác ở tuyến tiền
liệt 7% [2].
Yagci và cộng sự (2004) nghiên cứu qua siêu âm trực tràng ở 54 bệnh
nhân có xuất tinh ra máu, phát hiện 95% bất thường bao gồm: vôi hóa tuyến
tiền liệt 43%, vôi hóa ống phóng tinh 39%, giãn ống phóng tinh 33%, phì đại
15
lành tính 33%, giãn túi tinh 22%, vôi hóa túi tinh 20%, nang ống phóng tinh
11%, viêm tuyến tiền liệt 11%, nang tuyến Cowper 2% [2],[3].
Nghiên cứu sâu hơn nữa, Furuya và cộng sự 2005 chỉ đánh giá túi tinh
qua đường trực tràng ở 21 bệnh nhân xuất tinh máu thấy, 52% trường hợp có
dịch máu trong túi tinh, 82% trường hợp có túi tinh bất thường như: giãn túi
tinh, nang túi tinh, túi tinh dạng tinh bột (seminal vesicle amyloidosis) [2] .
Năm 2012, Hongwei Zhao và cộng sự nghiên cứu trên siêu âm qua
đường trực tràng 270 trường hợp, so sánh giữa hai nhóm tuổi <40 và ≥ 40
tuổi, thấy trong số 270 trường hợp có 3% bệnh lý ác tính và tất cả đều nằm ở
nhóm ≥ 40 tuổi (p=0,007), các bất thường khác như phì đại lành tính, vôi hóa
tuyến tiền liệt cũng gặp nhiều hơn ở nhóm tuổi ≥40 (p<0,001) [8].
Trong một nghiên cứu khác của Fujua và cộng sự báo cao năm 1999, tác
giả đã sử dụng chọc hút túi tinh dưới hướng dẫn siêu âm đường trực tràng
trong chẩn đoán xuất tinh máu ở 21 trường hợp có tuổi từ 26-75 [9]
Báo cáo năm 2012 của Changyong Xing và cộng sự khi làm nghiên cứu
so sánh giá trị hai phương pháp TRUS và nội soi túi tinh qua đường niệu đạo
(transurethral seminal vesiculoscopy: TSV) ở 98 bệnh nhân thấy giá trị chẩn
đoán của hai phương pháp là 45,3% và 75,4% sự khác biệt có ý nghĩa thông
kê với p<0,001 [10]
Tuy nhiên hai phương pháp trên là các phương pháp có xâm lấn, cần
phải gây mê hoặc gây tê tủy sống, kỹ thuật phức tạp khó áp dụng đại trà trong
chẩn đoán.
Ngày nay khi mà kỹ thuật cộng hưởng từ (MRI) phát triển mức chuyên
sâu, đã có các nghiên cứu hình ảnh tuyến tiền liệt túi tinh trên cộng hưởng từ
với coil đặt trong trực tràng [1].
Maeda và cộng sự (1993) cũng phát hiện được 94% bất thường khi
nghiên cứu MRI ở 15 trường hợp xuất tinh máu gồm: giãn và nang túi tinh
chiếm 87%, chảy máu trong túi tinh 73%, nang đường giữa tuyến tiền liệt
20% [2].
16
Lencioni và cộng sự (1999) đã nghiên cứu trên 90 trường hợp xuất tinh
máu phát hiện được 54% trường hợp bất thường gồm: giãn túi tinh hoặc ống
phóng tinh chiếm 34%, máu trong túi tinh hoặc ống phóng tinh chiếm 25%,
nang túi bầu dục 9%, nang ống phóng tinh 7%, vôi hóa túi tinh 8% [2].
1.1.2. Trong nước
Hiện nay chưa có nghiên cứu nào về xuất tinh máu được công bố
1.2.
Giải phẫu hệ thống dẫn tinh
Tinh dịch là hỗn hợp chất dịch được phóng ra ngoài khi hoạt động tình
dục ở nam giới. Tinh dịch gồm hai thành phần chính là tinh trùng và chất dịch
tiết, ngoài ra còn một số thành phần khác như tế bào biểu mô ống dẫn tinh, túi
tinh, tế bào máu (hồng cầu, bạch cầu), một số vi khuẩn gây bệnh. Tinh trùng
được sản xuất từ tinh hoàn, tích trữ trong mào tinh. Chất dịch được sản xuất
chủ yếu từ túi tinh (70%), ống dẫn tinh tinh (10%), tuyến tiền liệt (10%), một
phần nhỏ từ mào tinh hoàn, tuyến hành niệu đạo (tuyến Cowper). Tinh trùng
được vận chuyển qua ống dẫn tinh, đổ vào tính tinh, đẩy vào niệu đạo qua ống
phóng tinh [11],[12].
Ống dẫn tinh xuất phát từ phía đuôi mào tinh hoàn, chạy trong thừng
tinh, phía sau bàng quang, hợp với túi tinh tạo thành ống phóng tinh.
Ống phóng tinh xuyên qua tuyến tiền liệt, đổ vào niệu đạo tuyến tiền liệt
ở vị trí ụ núi. Tuyến tiền liệt bổ sung thêm chất lỏng cho tinh dịch từ các
tuyến sinh dục dọc theo niệu đạo tuyến tiền liệt.
Tuyến Cowper nằm thấp phía dưới đỉnh tuyến tiền liệt và phía sau niệu đạo
màng, tiết ra dịch cung cấp chất bôi trơn và môi trường kiềm cho tinh trùng.
Tinh dịch qua niệu đạo màng, tiếp tục qua dương vật và thoát ra ngoài.
Bất kỳ thay đổi bất thường nào dọc theo đường đi giải phẫu của tinh dịch
cũng có thể dẫn đến xuất tinh máu.
17
Hình 1.1: Sơ đồ hệ thống dẫn tinh [13]
1.3.
Sinh lý xuất tinh
Xuất tinh là một hoạt động sinh dục được đặt dưới sự kiểm soát của hệ
thần kinh giao cảm. Xuất tinh gồm hai giai đoạn: [4], [12].
Giai đoạn giải thoát tinh dịch: là kết quả của sự co thắt mào tinh, ống dẫn
tinh, túi tinh, tuyến tiền liệt do kích thích, tinh dịch được vận chuyển từ mào
tinh lên ống dẫn tinh, túi tinh vào trong niệu đạo tuyến tiền liệt, cơ vòng cổ
bàng quang và niệu đạo ngoài đóng lại làm cho niệu đạo tuyến tiền liệt căng
phồng hình củ hành [4],[12].
Giai đoạn xuất tinh: cơ vòng niệu đạo ngoài mở ra, các cơ vùng đáy
chậu, cơ thành túi tinh, ống dẫn tinh co bóp đều đặn giúp tống tinh dịch ra
ngoài từng đợt, có khoảng 3-10 đợt như vậy trong một lần xuất tinh [4], [12].
Tinh dịch bình thường có máu trắng đục, đặc quánh, để ra ngoài một lúc
thì hóa lỏng.
1.4.
Đánh giá về tình trạng xuất tinh máu
18
Cách xác định có máu trong tinh dịch: thường quan sát màu tinh dịch
thay đổi sang đỏ, nâu, tuy niên cần phải loại từ máu từ kinh nguyệt của người
phụ nữ, cách khuyến cáo đó là sử dụng bao cao su.
Tuổi và thời gian: xuất tinh máu do nguyên nhân nhiễm khuẩn đường
sinh dục tiết niệu hoặc rối loại tình dục thường gặp ở người bệnh dưới 40 tuổi.
Trong trường hợp xuất tinh máu do những nguyên nhân ác tính của hệ thống
sinh dục thường gặp ở tuổi lớn hơn 40 tuổi.
Triệu chứng liên quan:
-
Tiền sử có chấn thương vùng chậu, bàng quang, tinh hoàn.
-
Tiền sử bị các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
-
Đau khi xuất tinh: có thể do viêm niệu đạo, viêm tuyến tiền liệt, viêm
bàng quang, viêm túi tinh, tắc ống dẫn tinh…
Yếu tố nguy cơ: Bệnh nhân bị bệnh rối loạn đông máu, xơ gan, tăng
huyết áp không kiểm soát được. Tiền sử bị lao, schistosomiasis, sử dụng thuốc
chống đông, các bệnh khác…
1.5.
Các nguyên nhân gây xuất tinh máu
Mặc dù phần lớn xuất tinh máu là vô căn, tuy nhiên một số yếu tố nguy
cơ có thể được phân loại dựa trên cơ chế bệnh sinh theo nghiên cứu của
Munkelwitz và cộng sự năm 1997 [14].
19
Bảng 1.1: Danh sách các nguyên nhân chính gây chảy máu túi tinh theo
Munkelwitz [14]
Tắc ống dẫn tinh: thường
do nang hoặc sỏi gây tổn
thương mạch máu ở lớp
niêm mạc
Nang ống phóng tinh
Nang tuyến Cowper
Nang túi bầu dục, Nang ống Muller
Nang túi tinh
Nang tuyến tiền liệt
Chấn thương và do thủ Chấn thương khung chậu
thuật, phẫu thuật
Chấn thương vật hang
Sau sinh thiết tuyến tiền liệt
Sau mổ tuyến tiền liệt
Viêm và nhiễm khuẩn
Viêm – vôi hóa tuyến tiền liệt
Áp xe tuyến tiền liệt
Viêm- sỏi bàng quang
Viêm- vôi hóa niệu đạo
Viêm- vôi hóa túi tinh
Do vi rút: Herper simplex, Cytomegalovirut, HPV
(human papillary virus)
Do vi khuẩn: tuberculosis, chlamydia trachomatis,
gonorrhoea
Do ký sinh trùng:
Nguyên nhân do u
Phì đại tuyến tiền liệt: benign prostatic
hypertrophy
Polyp niệu đạo
U cơ túi tinh
Ung thư tuyến tiền liệt: prostate carcinoma
Ung thư bàng quang
Ung thư niệu đạo
Ung thư dương vật
Ung thư tinh hoàn
Nguyên nhân mạch máu Thông động tĩnh mạch
Rò tĩnh mạch tinh
Giãn tĩnh mạch túi tinh.
Giãn tĩnh mạch niệu đạo tuyến tiền liệt
U máu niệu đạo (Hemangioma)
Bệnh toàn thân
Tăng huyết áp
Xơ gan
Rối loạn đông máu
Bệnh lý khác như: hemophilia, lymphoma
20
Theo Zinal và cộng sự năm 1997, nghiên cứu trên 107 bệnh nhân nam xuất
tinh máu tuổi từ 16-73 thấy có 79% không thấy nguyên nhân ở những người <40
tuổi, số còn lại 26% bệnh lý liên quan đến tuyến tiền liệt không ác tính, 5% do
tăng huyết áp, 1% do lao sinh dục, 1% do ung thư tuyến tiền liệt [2].
Năm 2001, Kochakarn và cộng sự nghiên cứu trên 68 trường hợp xuất tinh
máu thấy 27,9% do viêm tuyến tiền liệt, 4,4% do lao, 7,3% do tăng huyết áp [18]
Năm 1991, CF Close và cộng sự đã làm nghiên cứu và đưa ra kết luận xuất
tinh máu có mối liên quan chặt chẽ với bệnh tăng huyết áp không kiểm soát
được [15].
Năm 2000, Lu và cộng sự nghiên cứu qua siêu âm đường trực tràng thấy:
các bất thường về hình thái túi tinh, tuyến tiền liệt,ống phóng tinh, ống
Mullerian, vôi hóa chiếm tỷ lệ 83% [16].
Năm 2007, Kuri Suziki và cộng sự đã báo cáo một trường hợp xuất tinh
máu do dị dạng thông động tĩnh mạch chậu (AVM), phát hiện được trên siêu
âm và CLVT [17].
Năm 2012 Hongwei Zhao và cộng sự nghiên cứu giá trị của TRUS trên
270 trường hợp xuất tinh máu thấy kết quả như sau: [6]
Bảng 1.2. Tỷ lệ các nguyên nhân xuất tinh máu theo nghiên cứu
Hongwei Zhao
Bất thường túi tinh chiếm tỷ Giãn túi tinh: 91BN (33.7%): một bên: 71
lệ:125/270 (46,3%) bao BN (26.3%), hai bên túi tinh: 20BN (7.4%)
gồm:
Vôi hóa túi tinh: 19BN (7.0%): một bên:
12BN (4.4%), hai bên: 7BN (2.6%)
Nang túi tinh:15BN (5.6%)
U túi tinh: 2BN (0.7%)
Bất thường ống phóng tinh
chiếm tỷ lệ: 80/270 (29.6%)
Giãn ống phóng tinh: 62BN (23.0%).
Vôi hóa ống phóng tinh: 34BN (12.6%)
21
bao gồm:
Bất thường tuyến tiền liệt
Vôi hóa tuyến tiền liệt:106BN (39.3%)
chiếm tỷ lệ:149/270 (55.2%) Phì đại lành tính: 71BN (26.3%)
Nang tuyến tiền liệt: 59BN (21.9%) bao
gồm:
Nang ống phóng tinh: 38BN (14.1%)
Nang đường giữa:16BN (5.9%)
Nang trong nhu mô tuyến: 5BN
(1.9%)
Viêm tuyến tiền liệt: 25BN (9.3%)
Ung thư tuyến tiền liệt: 5BN (1.9%)
Ung thư bàng quang: 1/270
(0,4%)
1.5.1. Các loại vi khuẩn gây viêm đường tiết niệu sinh dục.
Nguyên nhân do vi khuẩn: chủ yếu là vi khuẩn Gram (-), chiếm 90%
bao gồm: E.Coli (60-70%), Klebsiella (15-20%), Proteus mirabilis (10-15%),
Enterobacter (5-10%). Vi khuẩn Gram (+) chiếm khoảng 10% bao gồm:
Enterococcus (2%), Staphylococcus (1%), vi khuẩn khác (4%).
Enterococcus là một loại vị khuẩn thuộc nhóm Gram (+) cư trú trong hệ
tiêu hóa của người và động vật có vú, dễ dàng lan sang đường tiết niệu gây
viêm đường tiết niệu trong điều kiện vệ sinh kém, người có hệ miễn dịch yếu
hoặc ở môi trường bệnh viện nơi kháng kháng sinh cao.
1.5.2. Các bất thường trên siêu âm TRUS thường gặp nhất bao gồm:
Nang ống phóng tinh: bệnh hiếm gặp có thể do bẩm sinh hoặc mắc phải
gây tắc đầu xa ống phóng tinh, nguyên nhân bẩm sinh thường do hẹp ống
phóng tinh, nguyên nhân mắc phải thường do chấn thương hoặc nhiễm khuẩn.
Khi chọc hút nang thường chứa tinh trùng, mủ, máu, can xi…Trên siêu âm
nang thường có hình thoi nhọn hai đầu, nằm cạnh đường giữa, thành mỏng,
dịch đồng nhất hoặc không [13].
22
Hình 1.2: Nang ống phóng tinh bên trái trên siêu âm [6]
Nang tuyến Cowper: có thể do bẩm sinh hoặc mắc phải, bẩm sinh thường
gặp ở trẻ nhỏ, ít khi ở người lớn, mắc phải thường do nhiễm khuẩn hoặc chấn
thương thường gặp ở người lớn. Nang tuyến Cowper thường không có triệu
chứng lâm sàng, hoặc gây khó chịu, tiểu nhiều lần, tiểu khó, tiểu buốt, tiết
dịch niệu đạo hoặc xuất tinh máu [3].
Nang đường giữa bẩm sinh: gồm nang ống Muller và nang túi bầu dục,
là hai thực thể khác nhau nhưng khó phân biệt, tuổi thường gặp từ 20-40 tuổi:
nang thường có hình ảnh bầu dục (hình giọt nước) nằm ở đường giữa, đỉnh
hướng về ụ núi, thành nang dày nhìn thấy rõ, kích thước to nhỏ khác nhau,
thường không gây ra triệu chứng, trừ khi nang to đè đẩy gây tắc ống phóng
tinh, hoặc nang nhiễm trùng chảy máu gây đau, trong nang thường không có
tinh trùng. Nang túi bầu dục thường nằm trong tuyến không phát triển ra
ngoài tuyến và thường liên quan đến bất sản thận, nang ống Muller có thể
phát triển ra ngoài tuyến, nằm phía sau và trên so với tuyến tiền liệt, không
liên quan đến bất sản thận, quan sát dễ trên hướng sagittal [2],[18].
23
Hình 1.3: Hình ảnh siêu âm nang túi bầu dục trên lát cắt ngang và dọc [6]
Nang túi tinh: thường gặp tuổi từ 10-40 tuổi, có thể bẩm sinh hoặc mắc
phải. Bẩm sinh thường liên quan đến thiểu sản hoặc bất sản thận cùng bên
(hội chứng Zinner), hoặc liên quan đến niệu quản đổ lạc chổ. Mắc phải
thường liên quan đến bệnh lý nhiễm trùng, xuất tinh máu…. Nang túi tinh
thường đơn độc hoặc nhiều nang, thành mỏng, dịch trong nang đồng nhất
hoặc không, có thể có lắng cặn sỏi. Nang nằm phía sau tuyến tiền liệt và bàng
quang, có thể ấn lồi vào bàng quang giống hình ảnh sa lồi niệu quản
Hình 1.4: Hình ảnh siêu âm nang túi tinh cắt ngang và cắt dọc [6]
24
Lắng đọng can xi: có thể ở tuyến tiền liệt, túi tinh, ống dẫn tinh, ống
phóng tinh. Nguyên nhân của caxi chủ yếu do lắng đọng hoặc trào ngược các
thành phần của nước tiểu, hoặc do nhiễm khuẩn tái phát nhiều lần.
Hình 1.5: Hình ảnh siêu âm vôi hóa trong túi tinh [6]
Chấn thương: nguyên nhân thường gặp nhất là do sinh thiết tuyến tiền
liệt, một số nguyên nhân khác như sau mổ tuyến tiền liệt, chấn thương tinh
hoàn, dương vật, bệnh lý Peyronie.
Viêm nhiễm khuẩn: là nguyên nhân chính gây xuất tinh máu, bao gồm
viêm tuyến tiền liệt, viêm túi tinh là chủ yếu do virus Herpes simplex,
Cytomegalo virus, vi khuẩn Chlamydia, Enterococcus faecalis, Tuberculosis
sinh dục, sán máng (Schistosomiasis).
25
Hình 1.6: Viêm túi tinh trên siêu âm [6]
Phì đại tuyến tiền liệt: là bệnh thường gặp do quá sản vùng chuyển tiếp
gây chèn ép vùng trung tâm, vùng ngoại vi, cổ bàng quang, gây viêm đường
tiết niệu, viêm bàng quang, vôi hóa và thoái hóa dạng nang thường gặp ở
vùng chuyển tiếp, tuổi thường gặp >40 tuổi.
Hình 1.7-1.8: Hình siêu âm phì đại tuyến tiền liệt và vôi hóa tuyến tiền liệt [6]
Ung thư tuyến tiền liệt: là u ác tính thường gặp ở bệnh nhân >40 tuổi với
PSA tăng, gây xuất tinh máu do u phát triển xâm lần niệu đạo, túi tinh, bàng quang
[19].