Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Thực tiễn xây dựng chính phủ liêm chính, kiến tạo, phục vụ nhân dân ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.36 KB, 52 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TÊ-LUẬT

CHUYÊN ĐỀ: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN

ĐỀ TÀI: “Thực tiễn xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo,

phục vụ Nhân dân ở Việt Nam”
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG: “ Vấn đề BOT dưới góc nhìn nhà

nước pháp quyền”

Giảng viên hương dẫn: Ths. Lưu Đức Quang


Mục lục
“Thực tiễn xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo, phục vụ Nhân dân ở Việt Nam”
Lời mở đầu ...................................................................................................................... 1
Chương 1 Lý luận về nhà nước pháp quyền Việt Nam ..................................................... 2
1.1 Sự vận hành của cơ quan Hành chính nhà nước Việt Nam ...................................... 2
1.1.1 Khái niệm ..................................................................................................... 2
1.1.2 Đặc điểm của quyền hành pháp ..................................................................... 3
1.1.3 Tính chất của quyền hành pháp ..................................................................... 3
1.1.4. Mô hình tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam ............................................ 4
1.2 Các yếu tố xây dựng nhà nước pháp quyền trong vấn đề hành pháp ........................ 6
1.2.1 Chính phủ kiến tạo ........................................................................................... 6
1.2.2 Chính phủ liêm chính ....................................................................................... 9
1.2.2.1 Kiểm soát liêm chính bên trong ................................................................ 10
1.2.2.2 Kiểm soát liêm chính bên ngoài ............................................................... 13
1.2.2.3 Kiểm soát liêm chính của quyền lực nhà nước Việt Nam ......................... 13


1.2.3

Chính phủ phục vụ nhân dân .......................................................................... 14

Chương 2 Thực tiễn xây dựng chính phủ liêm chính, kiến tạo, phục vụ Nhân dân ở Việt
Nam ...............................................................................................................................

18

2.1 Những thành tựu đạt được .................................................................................... 18
2.2 Những khó khăn và thách thức ............................................................................. 25
2.3 Điểm nóng Thủ Thiêm – khẩu hiệu “liêm chính” có làm nguội ............................ 29
2.3.1 Tóm tắt sự việc ............................................................................................... 29
2.3.2 Những sai phạm ............................................................................................. 30


2.3.3 Hướng giải quyết của UBND TP.HCM............................................................ 32
2.3.4 Sai phạm của lãnh đạo thời kỳ trước, cụ thể là của ông Tất Thành Can:..........32
2.3.5 Bình luận.......................................................................................................... 33
Kết luận............................................................................................................................ 35
“ Vấn đề BOT dưới góc nhìn nhà nước pháp quyền"
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 38
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN VỀ BOT.................................................................................... 39
1.1 Khái niệm............................................................................................................... 39
1.1.1 Hợp đồng hành chính....................................................................................... 39
1.1.2 Bản chất............................................................................................................ 40
1.1.3 Hợp đồng BOT................................................................................................. 40
1.1.4 Bản chất hợp đồng BOT................................................................................... 41
CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN VỀ VỤ VIỆC ÁP DỤNG BOT............................................. 42
2.1 Vụ việc BOT Cai Lậy............................................................................................. 42

2.1.1 Tóm tắt vụ việc................................................................................................. 42
2.1.2 Quá trình xem xét kí duyệt dự án..................................................................... 44
2.1.3 Trong quá trình vận hành dự án và phản ứng của người dân, cơ quan truyền
thông......................................................................................................................... 45
2.1.4 Các chính sách của cơ quan nhà nước trước phản ứng của người dân..............46
Chương 3 Kết luận........................................................................................................... 48
Tài liệu tham khảo........................................................................................................... 49


Lời mở đầu
Đã gần 20 năm từ khi con người bước sang thế kỉ 21, 20 năm không là gì kể từ khi
con người xuất hiện trên Trái Đất này, nhưng có thể thấy rằng 20 năm nay đánh dấu rất
lớn cho sự phát triển của toàn nhân loại. Sự xuất hiện của Internet-cái nôi tri thức của
nhân loại cùng với cuộc cách mạnh công nghệ 4.0 đã tạo ra sự chuyển mình vượt bậc sau
nguyên thập kỉ dài với những cuộc chiến tranh và khủng hoảng kinh tế. Con người đã
xích lại gần nhau hơn, đã bắt tay nhau cùng xây dựng cuộc sống của chính bản thân
mình. Có thể nói rằng cuộc cách mạng công nghệ 4.0 là sự kết hợp vận dụng nguồn lực
tối đa từ Internet và các thiết bị thông minh của con người để phát triển kinh tế-xã hội của
con người. Với khoảng thời gian cũng đánh dấu mốc quan trọng cho nền kinh thế Việt
Nam với những chuyển mình sau chiến tranh và cấm vận từ nhiều Quốc gia. Ngày nay
các bạn bè năm châu đã nhìn Quốc gia hình chữ S này bằng một cảm quan khác, đó
không còn là Quốc gia của sự bom đạn, Quốc gia nghèo đói và mù chữ. Ngày nay Việt
Nam đã tiệm cận với các quốc gia đã và đang phát triển trong khu vực mà ở đó cuộc cách
mạng công nghệ 4.0 như ở trên tôi đề cập đã góp phần quan trọng trong sự phát triển đó.
Tuy với sự phát triển của đất nước, chúng ta không thể phủ nhận những cống hiến
và đóng góp từ bộ máy nhà nước mà điển hình nhóm chúng tôi đề cập đó chính là Chính
phủ - cơ quan hành pháp. Lập pháp – Hành pháp – Tư pháp tuy ba khái niệm có khác
nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau, mà ở đó các cơ quan Hành pháp được
xem như là xương sống của một Quốc gia. Chính vì lẽ đó, giá trị và những phẩm chất của
Chính phủ phải được thể hiện rõ qua từng thời kì phát triển. Nắm được giá trị cốt lõi của

bộ máy đứng đầu trong cơ chế Hành pháp, nhóm chúng tôi thực hiện đề tài : “Thực tiễn
xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo, phục vụ Nhân dân ở Việt Nam”
Hi vọng, qua bài phân tích này, có thể giúp đỡ và hỗ trợ cho mọi người có thể
nghiên cứu về cơ chế nhà nước pháp quyền nói chung và cơ quan Chính phủ nói riêng
một cách chi tiết và cụ thể nhất. Trân trọng!

1


Chương 1 Lý luận về nhà nước pháp quyền Việt Nam
1.1 Sự vận hành của cơ quan Hành chính nhà nước Việt Nam
Quyền lực nhà nước được tạo thành từ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Việc phân tách quyền lực nhà nước thành ba quyền nói trên bắt nguồn từ học thuyết tam
quyền phân lập mà cha đẻ của nó là John Locke. Học thuyết của ông sau đó được phát
triển bởi nhà xã hội học và luật học người Pháp Montesquieu. Trong bài phân tích về thực
trạng Hiến pháp nước Anh đầu thế kỷ 18, Montesquieu kết luận rằng, ở Anh, sự tự do của
công dân chỉ được đảm bảo khi quyền lực và các chức năng của nhà nước được phân chia
cho ba cơ quan khác nhau là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lập pháp là quyền
ban hành pháp luật còn quyền hành pháp là quyền thực thi pháp luật và quyền tư pháp là
quyền bảo vệ pháp luật.
Một trong những bước tiến quan trọng trong nhận thức về tổ chức bộ máy nhà nước ở
nước ta thời kỳ đổi mới là thừa nhận những hạt nhân hợp lý của thuyết tam quyền phân lập,
theo đó mặc dù trong tổ chức bộ máy nhà nước không có sự phân chia và đối trọng giữa các
nhánh quyền lực nhưng thừa nhận sự phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền
ấy. Nguyên tắc này được thể hiện tại Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001), theo đó “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

1.1.1 Khái niệm
Đa số các nước xã hội chủ nghĩa quyền lực nhà nước không được phân chia theo

cơ chế phân quyền mà được tổ chức theo cơ chế tập quyền. Trong cơ cấu quyền lực nhà
nước quyền hành pháp là một khái niệm chung dùng để chỉ một bộ phận quyền lực quyền thi hành pháp luật, phản ánh mối quan hệ quyền lực giữa các bộ phận hợp thành
của quyền lực nhà nước. Chủ thể chủ yếu của quyền hành pháp là Chính phủ (cơ quan
hành pháp ở trung ương) với tính chất điển hình của cơ quan này là thực hiện hoạt động
chấp hành và điều hành các hoạt động của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, các chủ thể thực
hiện quyền hành pháp không chỉ có Chính phủ, các cơ quan hành pháp ở trung ương, mà
một số các cơ quan nhà nước ở địa phương cũng thực hiện quyền lực này.
2


1.1.2 Đặc điểm của quyền hành pháp
Là một trong ba bộ phận cơ bản cấu thành quyền lực nhà nước, quyền hành pháp
cũng có những đặc điểm cơ bản của quyền lực nhà nước. Ngoài ra, nó còn có những đặc
điểm đặc thù sau đây:
- Quyền hành pháp có tính quyền lực nhà nước và độc lập tương đối so với các nhánh
quyền lực khác. Ở Việt Nam các cơ quan hành pháp là do các cơ quan dân cử lập ra, thực
hiện các hoạt động chấp hành và điều hành. Mặc dù các cơ quan hành pháp là do cơ quan
quyền lực lập ra, nhưng không có nghĩa là quyền hành pháp chỉ là quyền phái sinh

từ cơ quan quyền lực.
- Quyền hành pháp có khả năng phản ánh một cách chính xác nhất những nhu cầu
của xã hội. Quyền hành pháp không chỉ dừng lại ở việc thi hành pháp luật mà nó còn bao
gồm cả việc quản lý, điều hành, lãnh đạo các hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Đây là một trong các nhánh quyền lực có sự đụng chạm mạnh nhất tới
quyền và lợi ích của công dân trong quá trình thực thi và quản lý…
1.1.3 Tính chất của quyền hành pháp
1.1.3.1 Tính chấp hành (tính chất thi hành pháp luật)
Tính chấp hành của hành pháp là khả năng làm cho pháp luật được thực hiện trên
thực tế bằng sức mạnh của nhà nước, hay nói một cách khác là khả năng đưa pháp luật vào
đời sống của các cơ quan nắm giữ quyền. Không có tính chất chấp hành của Chính phủ - chủ

thể nắm quyền hành pháp chủ yếu ở trung ương thì các văn bản pháp luật của nhà nước
không thể thực hiện được. Bên cạnh đó Uỷ ban nhân dân các cấp cũng là các cơ quan chấp
hành của Hội đồng nhân dân. Các chủ thể này thực hiện quyền hành pháp ở địa phương.

1.1.3.2 Tính hành chính Nhà nước
Ngoài tính chất chấp hành, quyền hành pháp ở Việt Nam còn hàm chứa tính chất hành
chính. Hành chính nói một cách ngắn gọn nhất đó là hoạt động quản lý, điều hành và phục vụ
trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội trong đó hành chính công (hành chính
nhà nước) giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Ngoài tính chất chấp hành, các cơ
3


quan hành pháp ở Việt Nam còn được xác định là các cơ quan hành chính Nhà nước, thực
hiện chức năng quản lý, điều hành. Tính hành chính làm cho quyền hành pháp có tính độc
lập tương đối, có khả năng phát huy được tính chủ động, sáng tạo của mình trong việc
quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.1.3.3 Chức năng của quyền hành pháp
Chức năng của quyền hành pháp là những phương diện hoạt động mà thông qua
đó quyền hành pháp được triển khai để thực thi pháp luật và tiến hành các hoạt động quản
lý, điều hành và phục vụ xã hội:
- Chức năng đảm bảo an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội
- Chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
- Chức năng thực thi pháp luật
- Chức năng tài phán
- Chức năng quản lý, điều hành
1.1.4. Mô hình tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam
1.1.4.1 Mô hình Chính phủ ở trung ương
Ở các nước theo chế độ Tổng thống thì Tổng thống là người đảm nhiệm các chức
năng hành pháp, trực tiếp lãnh đạo và điều hành Chính phủ. Ở mô hình này Hiến pháp không
quy định rõ Chính phủ bao gồm Thủ tướng và các Bộ trưởng, mà tất cả quyền hành pháp

được trao cho Tổng thống. Còn ở các nước có chính thể Cộng hoà lưỡng tính thì bộ máy
hành pháp được trao cho Nguyên thủ quốc gia - Tổng thống và Thủ tướng Chính phủ

- người đứng đầu Chính phủ, cùng các thành viên Chính phủ. Các chủ thể này đều có
thực quyền trong quá trình thực hiện quyền hành pháp.
Ở nước ta, mỗi thời kỳ khác nhau, cách tổ chức quyền lực nhà nước cũng như quyền
hành pháp có những nét khác nhau. Chính phủ là chủ thể cơ bản nhưng không phải là chủ thể
duy nhất thực hiện quyền hành pháp. Bên cạnh Chính phủ một số cơ quan nhà nước
4


khác cũng thực hiện quyền hành pháp, nhưng các cơ quan này không phải là chủ thể chủ
yếu thực hiện quyền hành pháp. Qua các thời kỳ khác nhau, chủ thể thực hiện quyền hành
pháp có sự khác nhau. Nhưng nhìn chung, mô hình tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam
tập trung chủ yếu vào Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp. Hiện nay Nguyên thủ quốc
gia không có nhiều thẩm quyền về lĩnh vực hành pháp giống như Nguyên thủ quốc gia ở
các nước Cộng hoà Tổng thống và Cộng hoà lưỡng tính, cũng như theo Hiến pháp năm
1946.
1.1.4.2 Mô hình Uỷ ban nhân dân ở địa phương
Uỷ ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, được lập
ra để thực hiện những chức năng quản lý nhà nước ở địa phương. Uỷ ban nhân dân được
tổ chức theo ba cấp: Tỉnh (Thành phố trực thuộc trung ương và tương đương), Huyện
(quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã), Xã (phường thị trấn). Mô hình tổ chức các đơn vị
hành chính theo cấp tạo thuận lợi cho việc chỉ đạo, triển khai mệnh lệnh quản lý từ trên
cũng như việc phân cấp quản lý cho cấp dưới. Trên thế giới đã có nhiều hình thức tổ chức
cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương. Mô hình bổ nhiệm từ trên là mô hình được áp
dụng từ rất xa xưa. Sau này hình thức này được bổ sung bởi một hội đồng địa phương,
hội đồng này do dân cư bầu ra và chỉ đóng vai trò tư vấn.
Có mô hình quản lý địa phương là việc quản lý được thực hiện bởi một uỷ ban do dân
cư trực tiếp bầu ra(ở Mỹ) hoặc do các hội đồng địa phương cấp dưới bầu ra (Uỷ ban hành

chính huyện của Việt Nam trước đây). Hiện nay mô hình quản lý địa phương ở một số nước
trên thế giới được thực hiện bởi một hội đồng (Hội đồng tự quản, Hội đồng nhân dân), Hội
đồng lập ra cơ quan chấp hành của mình như Uỷ ban chấp hành, Uỷ ban nhân dân (Ở Việt
Nam và các nước xã hội chủ nghĩa), Thị trưởng ở Pháp, quản trị trưởng ở Mỹ.

Ở Việt Nam Mô hình tổ chức cơ quan chính quyền địa phương theo kiểu Hội đồng nhân
dân và cơ quan chấp hành của nó được thành lập ở tất cả các đơn vị hành chính.

5


1.2 Các yếu tố xây dựng nhà nước pháp quyền trong vấn đề hành pháp
1.2.1 Chính phủ kiến tạo
Chính phủ kiến tạo là một thuật ngữ mới ở Việt Nam nhưng không xa lạ với thế
giới. Khái niệm đó là về một chính phủ được tổ chức và hoạt động trên tinh thần xây
dựng tạo ra một môi trường cho mọi chủ thể có cơ hội tìm kiếm và thực hiện mưu cầu
hạnh phúc của mình, mà không trực tiếp làm tất cả mọi việc cho người dân. Một chính
phủ/ cả nhà nước không phải như thời trước đây - tất cả đều trông chờ vào nhà nước.
Chúng ta thường thấy trong các bản báo cáo hàng năm của nhà nước Mỹ, thường có con
số mỗi năm Chính phủ tạo ra được bao nhiêu việc làm. Đấy là minh chứng rõ nét nhất
cho việc Chính phủ của họ kiến tạo sự phát triển. Chính phủ không tự làm mọi thứ cho
người dân, mà chỉ tạo ra môi trường chủ yếu là môi trường pháp lý để mọi người dân chủ
động sáng tạo, để làm cho mình hạnh phúc hơn. Cách đây gần 200 năm, trong tác phẩm
Bàn về tự do J. S Mill đã chỉ ra rằng, cho dù có kết quả như nhau, một thứ do người khác
làm cho, và một thứ do con người tự mình làm ra thì với tư cách là con người, người ta
vẫn thích và tự hào với cái của mình làm ra hơn1
“Chính phủ kiến tạo” ở đây theo quan điểm của tôi là dùng ở nghĩa rộng cho cả bộ
máy nhà nước, nhưng trong đó chính phủ ở nghĩa hẹp nhất bao gồm Thủ tướng và các Bộ
trưởng thành viên chính phủ là trung tâm. Để đạt được một chính phủ kiến tạo và liêm chính
thì trước tiên phải bắt đầu bằng việc: Chính phủ và các cơ cấu tổ chức của chính phủ cùng

các cơ cấu khác của bộ máy nhà nước phải làm những phần việc đúng chức năng vốn có của
mình, tức là những nhiệm vụ, quyền hạn đã được Hiến pháp và Luật quy định. Chính phủ
phải biết phân tích và hoạch định chính sách quốc gia. Đưa các chính sách đó vào trong pháp
luật chứa đựng những khuôn khổ thể chế cần thiết để cho công việc làm ăn của người dân
ngày một dễ dàng hơn. Quan trọng nhất ở đây là quyền tự do kinh doanh, quyền tự do tài sản
phải được bảo đảm; sự minh bạch phải được tăng cường; các cam kết hợp đồng phải

1

J. T. Mill, Bàn về tự do, Nxb Tri thức 2005.
6


được tôn trọng; các tranh chấp phải được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả; cơ chế cạnh
tranh lành mạnh trong hoạt động kinh tế, cũng như mọi hoạt độngkhác phải được bảo đảm.

Từ những năm 80 thế kỷ XX, khi nghiên cứu về sự phát triển thần kỳ của Nhật
Bản, Chalmers Johnson đã đưa ra thuật ngữ chính phủ kiến tạo phát triển (developmental
government), nhà nước kiến tạo phát triển (developmental state). Chalmers Johnson đã
nhận ra có ba mô hình chính phủ: chính phủ điều chỉnh (chính phủ của các nước theo mô
hình thị trường tự do); chính phủ kế hoạch hóa tập trung quan liêu (chính phủ của các
nước phủ nhận vai trò của thị trường) và chính phủ kiến tạo phát triển (chính phủ của các
nước coi trọng vai trò của thị trường, nhưng không tuyệt đối hóa vai trò này, mà tích cực
can thiệp để định hướng thị trường). Như vậy, theo nhận thức của Chalmers Johnson,
chính phủ kiến tạo phát triển nằm ở giữa hai mô hình chính phủ điều chỉnh và chính phủ
kế hoạch hóa tập trung, quan liêu. Bàn đến Chính phủ kiến tạo thì có nhiều, tuy nhiên
theo chúng tôi cần chú ý đến một số điểm sau:
- Thứ nhất, nói đến chính phủ kiến tạo phải xem xét hoạt động của chính phủ đó có

hiệu quả hay không, thể hiện ở bộ máy công vụ được xây dựng và hoạt động theo thiết

chế nào?. Có lẽ việc đầu tiên là chính phủ kiến tạo phải được hình thành và tạo dựng trên
nền tảng của một thiết chế chính trị dân chủ và tự do, ở đó con người được tự do sáng tạo,
tự do kinh doanh, tự do sở hữu tài sản và tự do hoạt động vì lợi ích cá nhân và quốc gia,
dân tộc. Đến lượt nó, chính phủ kiến tạo sẽ tạo dựng môi trường sống và hoạt động tốt
nhất cho con người, ở đó con người được phục vụ tốt nhất về tinh thần và vật chất, hạnh
phúc của người dân được coi trọng và được coi là mục tiêu hàng đầu.
- Thứ hai, một chính phủ kiến tạo phải là chính phủ mạnh, tức là chính phủ phải
gồm những người có trí tuệ, có kiến thức, có tư duy tốt, chuyên nghiệp, có khả năng nhìn
xa trông rộng, có tầm nhìn chiến lược, có khả năng đề ra định hướng phát triển đất nước
một cách tốt nhất và có kỹ năng hành động tầm chiến thuật, kỹ năng thiết kế, đề ra được
cơ chế, chính sách tốt, cũng như vận hành bộ máy hành chính, thực thi công vụ một cách
hiệu lực và hiệu quả nhất.

7


- Thứ ba, chính phủ kiến tạo là một chính phủ lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm
phương châm hành động với một phương thức hoạt động minh bạch, công khai và có đủ
khả năng giải trình, lấy phục vụ nhân dân làm mục tiêu đầu tiên và lấy kết quả thực tiễn
đem lại làm thước đo mức độ thực thi công vụ.
- Thứ tư, một chính phủ kiến tạo là chính phủ thân thiện với xã hội, với người dân,
thị trường và doanh nghiệp, lấy sự ấm no của người dân, sự thành công của các doanh
nghiệp và hạnh phúc của nhân dân làm phương châm hành động của mình. Chính phủ
hoạt động với tinh thần tạo môi trường thuận lợi nhất cho doanh nghiệp và người dân làm
ăn thuận lợi.
- Thứ năm, chính phủ kiến tạo là chính phủ có tư duy luôn luôn đổi mới, nhạy bén
và linh hoạt, biết tạo ra sự phát triển và chia sẻ sự phát triển mọi mặt của xã hội.
- Thứ sáu, để có chính phủ kiến tạo thì phải thiết kế và có một bộ máy hành chính
gọn nhẹ, hiệu quả, trong sạch và hoạt động trên nền tảng công nghệ cao theo hướng chính
phủ điện tử, chính phủ số, chính phủ của cách mạng công nghiệp 4.0.

=> Như vậy, nếu một chính phủ đạt được 6 điểm nêu ở trên và đáp ứng mô hình chính
phủ kiến tạo phát triển theo cách phân chia của Chalmers Johnson thì đó là chính phủ kiến
tạo đầy đủ. Nội hàm của chính phủ kiến tạo cũng được hình thành từ 6 điểm được nêu ra đó.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, khái niệm về chính phủ kiến tạo cũng được hoàn thiện
từng bước. Đầu tiên đó là chính phủ định hướng kiến tạo, đó là chính phủ luôn hoàn thiện
mình tiến đến hiện đại, phục vụ, xây dựng hành lang pháp lý và môi trường cho cho người
dân và doanh nghiệp phát triển ngày một tốt hơn.Thực tế hiện nay, thông điệp chính phủ kiến
tạo có thể được hiểu hướng tới có chính phủ như vậy và có các hành động cụ thể để đạt
được, đó là: tập trung hoàn thiện thể chế; rà soát toàn bộ cơ chế chính sách, hành lang pháp
lý theo hướng xóa bỏ rào cản, tháo gỡ khó khăn cho người dân, cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh; phải chuyển mạnh hơn từ quản lý sang phục vụ người dân,

8


doanh nghiệp và cán bộ phải gương mẫu trong lời nói và hành động, nói đi đôi với làm
dù trong bất cứ trường hợp nào2.
1.2.2 Chính phủ liêm chính
Trước khi muốn trở thành chính phủ kiến tạo thì Chính phủ phải là Chính phủ liêm
chính. Trong khi kiến tạo và sau khi kiến tạo, Chính phủ cũng phải là Chính phủ liêm chính.
Từ những điều phân tích trên Chính phủ liêm chính là cần hơn Chính phủ kiến tạo. Nếu như
thuật ngữ Chính phủ kiến tạo mới được xuất hiện những năm cuối cùng của thế kỷ 20 thì,
chính phủ liêm chính phải có thời rất xa xưa, ngay từ khi có nhà nước, khi con người mong
muốn có một tổ chức xã hội tách khỏi đại đa số người dân để điều hành xã hội, mong muốn
có một xã hội tốt đẹp hơn. Khái niệm liêm chính được định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt là
sự sống trong sạch và ngay thẳng trong lí trí, trong suy nghĩ, trong cách làm, và cả cách nói
những điều đúng với chuẩn mực xã hội, về các vấn đề, công việc liên quan 3. Nhà nước thời
nào cũng cần, nhưng quyền lực của nhà nước phải bị kiểm soát. Nhà nước vừa có nhiệm vụ
phải bảo vệ quyền con người, đồng thời cũng là chủ thể có tiềm năng nhất cho sự vi phạm
quyền con người. Nhà nước - một tổ chức của các cá nhân không phải của các thiên thần.

Nhà nước của các con người, nên trong mình nhà nước lẽ đương nhiên phải có bản tính con
người. Bản tính của con người là đam mê quyền lực và có tính tư lợi.Vì vậy, nhà nước phải
được tổ chức hoạt động trong môi trường liêm chính. Kết quả của nhà nước bao gồm kết quả
các hành vi của con người, phải bao gồm những hành vi liêm chính của con người đảm trách
các công việc của Nhà nước. Nhà nước liêm chính là nhà nước có các quan chức, nhân viên,
cả những người được nhà nước ủy quyền ngay thẳng và trong sạch. Con người về cơ bản
không sẵn có lòng ngay thẳng và trong sạch, mà có sẵn lòng tư lợi. Nhà nước liêm chính là
nhà nước hoạt động trong môi trường trong sạch và liêm chính. Nhà nước liêm chính là nhà
nước đức hạnh. Nội dung của nhà nước liêm chính chính là nhà nước phải kiểm soát hoạt
động bất liêm chính. Kiểm soát sự liêm chính là bộ phận các

2

Bộ trưởng Mai Tiến Dũng: Chính phủ kiến tạo chuyển mạnh từ quản lý sang phục vụ. Vnexpress.net,
1/1/2017.
3
Bộ trưởng Mai Tiến Dũng: Chính phủ kiến tạo chuyển mạnh từ quản lý sang phục vụ. Vnexpress.net, 1/1/2017 .
9


loại hình kiểm soát quyền lực nhà nước. Đó là sự giới hạn của quyền lực nhà nước trọng
tâm của lý thuyết Chủ nghĩa Hiến pháp/ Chủ nghĩa Hợp hiến hay pháp quyền.
- Chủ nghĩa Hiến pháp (Constitutionalism) là nhà nước pháp quyền (The Rule of
Law) 4. Chủ nghĩa Hiến pháp có nghĩa là quyền lực của lãnh đạo và cơ quan chính phủ bị
giới hạn và những giới hạn đó có thể được thực hiện thông qua những quy định trong
Hiến pháp. Là một bộ phận của học thuyết nhà nước pháp quyền, mà trọng tâm của học
thuyết là sự giới hạn quyền lực nhà nước - Chủ nghĩa Hiến pháp. Hình thức của sự kiểm
soát liêm chính nhà nước gồm: Kiểm soát liêm chính bên trong: Tự kiểm soát, kiểm soát
trước tạo nên mô hình chính thể nhà nước; Kiểm soát liêm chính bên ngoài: xã hội dân
sự, dự luận xã hội, báo chí, tự do thông tin. Như một quy luật muốn kiểm soát quyền lực

nhà nước, thì quyền lực phải được phân ra, mà chúng ta gọi là phân công, phân nhiệm.
Phân quyền hay phân công, phân nhiệm điều kiện nền tảng của kiểm soát sự liêm chính
của quyền lực nhà nước.
1.2.2.1 Kiểm soát liêm chính bên trong
Tự kiểm soát, kiểm soát trước tạo nên mô hình chính thể nhà nước Chính thể Đại
nghị; Chính thể Tổng thống; Chính thể Lưỡng tính.Nhưng chính thể không có khả
năng/không mặn mà với kiểm soát liêm chính quyền lực nhà nước: Quân chủ, độc tàì,chuyên
chế, toàn trị, nhân trị, đảng trị. Những chính thể có mục tiêu kiểm soát sự liêm chính quyền
lực nhà nước phải là nhà nước pháp quyền, phải là nhà nước có chủ nghĩa hiến pháp. Mô
hình kiểm soát liêm chính thứ nhất làkiểm soát sự liêm chính của chế độ đại nghị, mô hình
này được hình thành dần dần trong thực tiễn của nhà nước Anh quốc. Chính nơi đây
Montesquieu đã quan sát mà hình thành nên học thuyết phân quyền của ông. Quốc hội - lập
pháp do dân bầu. Trong chế độ dân chủ bầu cử là kiểm soát mạnh nhất và khả dĩ của người
dân. Về nguyên tắc người dân sẽ loại trừ những ứng cử viên không có tinh thần liêm chính
vào cơ quan lập pháp của quốc gia. Dựa trên thành phần của Quốc hội - lập pháp, hành pháp
với chức năng thi hành pháp luật được thành lập và phải chịu trách nhiệm

4

Greg Russell, Chủ nghĩa Hợp hiến, trong cuốn Về pháp quyền và Chủ nghĩa Hợp hiến Khoa luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2012 tr. 56.

10


trước lập pháp. Các quan chức và đội ngũ công chức cấp dưới khác được hình thành nên
bằng các được các quan chức hành pháp nói trên bổ nhiệm hoặc tuyển dụng theo quy
định của pháp luật. Và lẽ đương nhiên về nguyên tắc những người có biểu hiện của sự bất
liêm sẽ bị loại ra khỏi danh sách đề cử. Với tinh thần như vậy, tính liêm chính của bộ máy
nhà nước được duy trì. Chế định chịu trách nhiệm của Chính phủ - hành pháp trước Quốc

hội là trung tâm của sự kiểm soát liêm chính của bộ máy thực hiện quyền lực nhà nước.
Trong trường hợp đặc biệt sự bất liêm của công chức có thể dẫn đến sự bất tín nhiệm của
các bộ trưởng cấp trên, mà cán bộ đó trực thuộc.
- Nếu bất liêm chính quá nặng nề, thì Chính phủ có thể bị bãi chức - lật đổ, Quốc hội
phải tìm ra một Chính phủ với thành phần mới thay thế. Nhưng với nguyên tắc sinh hoạt
đảng một cách chặt chẽ, người của đảng nào chỉ bỏ phiếu cho người đảng đó, nên mỗi một
Quốc hội với những thành phần đảng phái nhất định chỉ xác định cho một Chính phủ,
nên thay Chính phủ cũng là thay Quốc hội, nên Quốc hội phải bị giải tán. Sự mâu thuẫn giữa
lập pháp và hành pháp được giải quyết bằng lá phiếu của người dân. Người dân sẽ bỏ phiếu
bầu ra một Quốc hội khác và với thành phần Quốc hội khác sẽ có một Chính phủ khác.
Quyền lực nhà nước một lần nữa lại thuộc về tay nhân dân. Xét cho cùng sự phân quyền, nền
tảng của trách nhiệm liêm chính được chuyển thành sự phân biệt giữa đảng cầm quyền và
đảng đối lập. Sự hiện diện thường xuyên, thậm chí còn được thành lập một Chính phủ mờ
(Shadow Cabinet) được người đối diện với Chính phủ đang cầm quyền trong các phiên họp
của Nghị viện, sự bất lương khó có thể trốn thoát. Mô hình kiểm soát liêm chính thứ hai của
chế độ Cộng hòa Tổng thống. Chính thể Tổng thống cộng hòa được hình thành trên cơ sở rút
kinh nghiệm của hầu hết các mô hình tổ chức quyền lực nhà nước của các nước trên thế giới,
nhất là của nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại, cùng với các lý thuyết của các triết gia
thời bấy giờ của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ với Hiến pháp thành văn đầu tiên của thế giới vẫn
còn có hiệu lực cho đến tận ngày nay.

- Kiểm soát liêm chính chế độ tổng thống (bỏ được) dựa trên nền tảng của sự phân
quyền cứng rắn: Quốc hội - lập pháp do dân bầu ra; Chính phủ - hành pháp do Tổng thống
nắm giữ cũng do nhân dân bầu ra thông qua đại cử tri. Bầu cử là biện pháp kiểm soát liêm
11


chính của người dân đối với ứng cử viên sẽ được bầu vào các chức danh nghị sĩ thực hiện
quyền lập pháp, và tổng thống của nhà nước. Người dân sáng suốt sẽ không bỏ phiếu cho
người có hành vi bất liêm. Mô hình kiểm soát liêm chính thứ ba của chế độ lưỡng tính

cộng hòa, mà đại diện là Cộng hòa Pháp quốc của Hiến pháp năm 1958. Sự kiểm soát
liêm chính của tổ chức quyền nhà nước của chế độ mang cả dấu ấn của chính thể đại nghị
và của cả chính thể tổng thống cộng hòa. Dấu ấn của chính thể đại nghị thể hiện ở chỗ,
Quốc hội - lập pháp do dân bầu ra; Chính phủ - hành pháp do Quốc hội thành lập và
Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Dấu ấn của chính thể tổng thống cộng
hòa thể hiện ở chỗ Nguyên thủ quốc gia - Tổng thống không những do dân bầu ra một
cách trực tiếp, mà còn là người trực tiếp lãnh đạo hành pháp - Chính phủ. Vì vậy, Chính
phủ - hành pháp là trọng tâm của kiểm soát liêm chính không những phải chịu trách
nhiệm trước Quốc hội - lập pháp, mà còn phải chịu trách nhiệm trước Tổng thống nguyên thủ quốc gia. Nếu như ở chế độ đại nghị sự chịu trách nhiệm này chỉ mang tính
hình thức, thì ở chế độ lưỡng tính hiệu lực trên thực tế. Sự ảnh hưởng của các đảng phái
chính trị cũng gần tương tự nhưng của chế độ đại nghị và chế độ tổng thống, như chỉ
khác ở chỗ: Nếu như Tổng thống – nguyên thủ quốc gia và Thủ tướng - người đứng đầu
hành pháp cùng một đảng, thì chính thể này nghiêng hẳn về chế độ Tổng thống. Nếu như
không cùng một đảng, thì ngược lại nghiêng về chế độ đại nghị; Tổng thống - nghiêng về
hành pháp tượng trưng chủ yếu ở lĩnh vực đối ngoại, còn lại đối nội hầu như rơi vào tay
Thủ tướng. Với ba hình thức kiểm soát sự liêm chính tương đương với 3 mô hình nói trên
chủ yếu thể hiện mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp.
- Kiểm soát liêm chính của quyền lực nhà nước - một dạng của mâu thuẫn giữa lập
pháp và hành pháp. Kiểm soát liêm chính của quyền lực nhà nước giữa lập pháp và hành
pháp, mà chủ yếu là kiểm soát hành pháp. Sở dĩ như vậy, vì chính hành pháp mới là trung
tâm của nhà nước, nơi nắm giữ mọi nguồn lực của nhà nước và trực tiếp điều hành quốc
gia và cũng là nơi phát động mọi chủ trương chính chính sách Đảng cầm quyền. Trong
trường hợp phạm phải sự bất liêm, các quan chức phải từ chức, đặc biệt phải áp dụng thủ

12


tục tư pháp/xét xử. Kiểm soát liêm chính bằng tư pháp của nhà nước- cửa ải cuối cùng
của kiểm soát sự liêm chính của quyền lực nhà nước.
1.2.2.2 Kiểm soát liêm chính bên ngoài

Kiểm soát liêm chính trong hoạt động của nhà nước không những chỉ được tiến
hành ở bên trong như trên đã phân tích, mà còn được diễn ra ở bên ngoài bằng hoạt động
của báo chí, của sự công khai, của dư luận xã hội và xã hội dân sự. Trong cuộc đời của
người viết bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 Th. Jefferson đã từng cho rằng: Trong 2
thứ: i. Chính phủ không cần báo chí, ii. báo chí không cần Chính phủ, Ông sẵn sàng chọn
cái thứ hai. Kiểm soát nói chung cũng như kiểm soát sự bất liêm phải gắn liền với công
khai. Bentham, tác giả nổi tiếng bằng Học thuyết Công lợi đã cho rằng: “Không có công
khai thì mọi sự kiểm soát đều vô ích: So với công khai, tất cả mọi sự kiểm soát chỉ còn lại
không đáng kể” 5. Các hình thức kiểm soát này đều gắn liền với quyền tiếp cận thông tin
của người dân. Quyền này của người dân như là quyền tự do báo chí của người dân.
Không có quyền tiếp cận thông tin thì người dân.
1.2.2.3 Kiểm soát liêm chính của quyền lực nhà nước Việt Nam
Ngay từ Hiến pháp năm 1946 và Chính quyền mới của VNDCCH đã có chủ
trương xây dựng một chính quyền liêm chính. Chữ “Liêm” tức là: “luôn luôn tôn trọng
giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước và
của nhân dân; Phải trong sạch, không tham lam. Không tham địa vị. Không tham tiền tài.
Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính
đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ” 6
Ngay trong thời gian đầu tiên cầm quyền và cùng lúc phải tập trung mọi nguồn lực
cho trận chiến Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minhvới cương là người đứng đầu Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bác đơn xin ân xá của tử tù Trần Dụ Châu với hành vi tham ô
tài sản của nhân dân hòng phục vụ cho cuộc sống xa đọa của mình cũng đồng bọn.

5
6

Bentham 1838- 1843, tập 4.
Hồ Chí Minh, Toàn tập tập 10, tr. 636.

13



Đến trước khi sửa đổi Hiến pháp năm 1992, việc kiểm soát quyền lực nhà nước
không được đặt ra một cách đậm đặc. Mặc dù với sự hiện diện của các Hiến pháp thành
văn của một nhà nước của giai cấp vô sản, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, sự
kiểm soát quyền lực nhà nước về nguyên tắc không được đặt ra một cách quá nặng nề
như của các nhà nước dân chủ khác. Kiểm soát sự liêm chính của nhà nước cũng được
đặt trong một tình trạng như vậy.
Chỉ mãi cho đến khi thay đổi tư duy, đổi mới, thay đổi nhận thức, từ một nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường, vấn đề kiểm soát quyền lực
nhà nước, trong đó có kiểm soát sự liêm chính của quyền lực nhà nước mới bắt đầu được
đặt ra. Năm 2001 bằng sửa đổi một số điều của Hiến pháp 1992 mới có quy định:
- “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”
- Hiến pháp năm 2013 không những tái khẳng định nguyên tắc trên, mà còn khẳng
định thêm nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước. Đó là cơ sở khẳng định sự kiểm
soát giữa các quyền. Hơn thế nữa, Hiến pháp năm 2013 còn cho phép xác định rõ thể chế
nào đảm nhiệm các quyền: Quốc hội thực hiện quyền lập pháp; Chính phủ - quyền hành
pháp và Tòa án - quyền tư pháp. Đây chính là cơ sở của việc thực hiện quyền kiểm soát
quyền lực nhà nước. Trong đó kiểm soát liêm chính của quyền lực nhà nước như là một
phần của sự biểu hiện của kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung.
1.2.3 Chính phủ phục vụ nhân dân
Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, bao nhiêu lợi
ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hành đều của dân. Quan điểm ấy có tính bản chất của Nhà
nước ta đã được khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp. Đặc biệt Hiến pháp 1992 đã
khẳng định: "Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
14



nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai của
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức"7 . Đối với nhà nước ta, tính giai cấp
gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc và tính nhân dân. Tư tưởng xây dựng một Nhà nước của
dân, do dân, vì dân là do Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương bắt nguồn từ truyền thống đại
đoàn kết dân tộc của các thế hệ người Việt Nam trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ
nước; "khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc” (Trần Hưng Đạo), "Chở thuyền, lật
thuyền đều là dân” Nguyễn Trãi) và “gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền
nhân dân (Hồ Chí Minh). Bài học lấy dân làm gốc với tư tưởng bao nhiêu lợi ích đều vì dân,
bao nhiêu quyền hành đều của dân luôn nhất quán trong lịch sử xây dựng và phát triển của
Nhà nước ta, ngày nay càng trở nên hết sức quan trọng. Nhà nước ta do dân lập nên, do dân
bầu ra, dân kiểm tra, giám sát. Đó phải là nhà nước hoạt động vì dân, lấy việc phục vụ nhân
dân làm mục tiêu cao nhất của mình. Sức mạnh của Nhà nước ta bắt nguồn từ sức mạnh của
nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân; phải xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh,
gần dân, sát dân, thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của dân; đảm bảo trên thực tế quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "chúng ta phải hiểu rằng các cơ
quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác
8

việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân..." . Vấn đề cấp bách đang được đặt ra là
cần phải xây dựng một cơ chế pháp luật có hiệu quả, đảm bảo cho nhân dân luôn là chủ thể
duy nhất và tối cao của quyền lực nhà nước trên thực tế sao cho dân trao quyền cho các thiết
chế nhà nước mà không bị mất quyền và toàn bộ hoạt động của Nhà nước luôn nằm trong
vòng kiểm tra, giám sát của chính nhân dân.
Với bốn bản Hiến pháp được thông qua, hệ thống pháp luật Việt Nam trên thực tế đã
trải qua bốn giai đoạn phát triển và cải cách. Ở mỗi một giai đoạn lịch sử cụ thể, vai trò của
pháp luật được thể hiện ở những mức độ khác nhau, lúc mạnh, lúc yếu nhưng ở mọi thời kỳ
pháp luật luôn là một trong nhưng công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý xã hội, củng cố
kỷ cương và tăng cường dân chủ. Ngày nay, khi đất nước bước vào một thời kỳ


7
8

Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Nxb Pháp lý - Nxb Sự thật, H.1992, tr.13
Hồ Chí Minh: Toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia, H.1995. Tập 4, tr.45.

15


phát triển mới: vấn đề cải cách pháp luật lại đang được đặt ra một cách cấp thiết. Hiến
pháp 1992 đã xác định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế...”. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật là nguyên tắc
có tính hiến định xác lập các cơ sở chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cơ bản trong xã hội
giữa công dân với công dân, giữa công dân với Nhà nước, giữa Nhà nước với các tổ chức
xã hội. Sự đổi mới pháp luật tăng cường pháp chế đang được tiến hành trên cả ba lĩnh
vực cơ bản: Xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật, bảo vệ pháp luật.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi pháp luật phải được thực hiện nghiêm chỉnh và thống
nhất. Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật phải trở thành đạo đức hàng đầu, thành
nếp sống tốt đẹp của mọi người. Pháp luật vừa là hình thức pháp lý của tự do và dân chủ, vừa
là công cụ cơ bản để đảm bảo tự do và dân chủ. Do vậy chỉ có trong khuôn khổ của Hiến
pháp và pháp luật, tự do dân chủ mới có ý nghĩa và giá trị thực tế. Điều này có nghĩa là tự do
dân chủ gắn liền mật thiết với kỷ cương và trật tự. Tuân thủ nghiêm chỉnh triệt để pháp luật,
thực hiện tích cực các quy định của pháp luật sống làm việc có kỷ cương, kỷ luật là đòi hỏi
của nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Củng cố kỷ luật nhà nước, kỷ cương trật tự xã
hội không chỉ là nghĩa vụ trách nhiệm pháp lý mà còn là nghĩa vụ đạo đức của mọi cán bộ,
công dân. Nhà nước ta quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao
đạo đức, kết hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao dân trí kết hợp sức
mạnh của pháp luật với sức mạnh của quần chúng. Đây chính là một nét đặc sắc trong tư
tưởng văn hoá pháp lý truyền thống của các thế hệ người Việt Nam được kết tinh trong tư

tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Nhà nước pháp quyền hay một chế độ pháp trị trong thế giới ngày nay đang là một
trong những vấn đề tiếp tục được các dân tộc quan tâm. Những giá trị của tư tưởng nhà nước
pháp quyền được đúc kết trong suốt tiến trình phát triển của tư tưởng pháp lý nhân loại đang
tiếp tục được phát triển và làm phong phú thêm các xu hướng giao thoa giữa các nền văn hoá
Đông - Tây và do vậy ngày càng trở nên có giá trị, có tính phổ quát. Tuy nhiên sự phổ quát
đó không loại bỏ tính đặc thù của nền văn hoá của các dân tộc và vì thế không thể nói đến
những chuẩn mực pháp lý thống nhất hay mô hình nhà nước pháp quyền thống
16


nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Việt Nam xuất phát từ truyền thống văn hoá pháp lý của
mình, với các đặc điểm của sự phát triển kinh tế xã hội, kết hợp với việc tiếp thu các giá trị
có tính phổ biến ấy đang nỗ lực xây dựng không chỉ các quan điểm có tính lý luận mà còn
phải xây dựng một nhà nước pháp quyền thực tế - nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

17


Chương 2 Thực tiễn xây dựng chính phủ liêm chính, kiến tạo,
phục vụ Nhân dân ở Việt Nam
2.1 Những thành tựu đạt được
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, việc xây dựng một Chính phủ hành
động, kiến tạo, liêm chính, phục vụ phát triển, phục vụ Nhân dân là yêu cầu khách quan.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sau khi nhậm chức (4-2016) đã truyền đi thông điệp mạnh
mẽ về xây dựng một Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động và phục vụ.
Đã gần hai năm kể từ khi Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ quyết tâm
nỗ lực xây dựng một Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ
nhân dân. Thời gian chưa dài nhưng đã chứng tỏ rằng đây là một thông điệp có sức lay động
lớn và dưới sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm, nỗ lực của Chính phủ, của Thủ tướng đang đi

vào những việc cụ thể nhất và hình ảnh về một Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động,
9

phục vụ ngày càng đậm nét. Bước đầu đã đạt được những thành tựu :
-

Đổi mới tư duy về phương thức chỉ đạo, điều hành của Chính phủ10
Thay đổi tư duy về phương thức chỉ đạo, điều hành của Chính phủ được thể hiện

rõ qua thông điệp của Thủ tướng Chính phủ trong rất nhiều phiên làm việc: chuyển từ
phương thức mệnh lệnh hành chính sang Nhà nước kiến tạo, phục vụ; chính quyền không
được trở thành gánh nặng của người dân, doanh nghiệp; đồng thời, cần phân định rõ chức
năng quản lý nhà nước và chức năng thị trường, hạn chế, tiến tới xóa bỏ cơ chế xin - cho,
cái gì thị trường làm được thì để cho thị trường làm, Chính phủ tập trung vào công tác
xây dựng thể chế, chính sách, tạo môi trường cho đầu tư kinh doanh phát triển.
Tư duy về xây dựng Nhà nước kiến tạo đã được chuyển thành những thay đổi trong
phương thức điều hành kinh tế vĩ mô của Thủ tướng. Trước hết, Chính phủ nhấn mạnh đến

9

/>10
Bộ trưởng Mai Tiến Dũng: Chính phủ kiến tạo chuyển mạnh từ quản lý sang phục vụ, Vnexpress.net,
ngày 1-1-2017.

18


tăng trưởng thực chất, bền vững, không đánh đổi bằng những thành tích ngắn hạn. Chẳng
hạn, Thủ tướng đã quyết định không điều chỉnh hạ thấp chỉ tiêu tăng trưởng của năm
2016 để làm mục tiêu phấn đấu. Kết quả năm 2016 cho thấy, tăng trưởng GDP đạt 6,21%,

thấp hơn so với 6,7% theo kế hoạch. Tuy nhiên, trong bối cảnh năm 2016 gặp rất nhiều
khó khăn thì kết quả đạt được đã thể hiện sự nỗ lực rất đáng ghi nhận trong điều hành
kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
Năm 2017, tăng trưởng GDP là 6,81%, cao hơn nhiều so với mức tăng của các năm từ
2011-2016. Đáng chú ý, mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2017 được Quốc hội thông qua là
6,7%, đã từng được đặt vấn đề có nên điều chỉnh khi đầu năm, có nhiều dự báo khó đạt bởi
GDP hai quý đầu năm đều thấp. Tuy nhiên, Chính phủ đã chỉ đạo triển khai quyết liệt các
giải pháp nhằm bảo đảm mục tiêu tăng trưởng và đạt kết quả vượt kế hoạch đề ra.

Bên cạnh đó, Chính phủ đã chú trọng nhiều hơn đến các mục tiêu, chỉ tiêu liên
quan đến cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đã
có những điều chỉnh phù hợp hơn với các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra.
Phong cách điều hành hoạt động của Thủ tướng và các thành viên Chính phủ đã có
sự thay đổi mạnh mẽ. Trong hai năm đầu tiên của nhiệm kỳ, Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc được đánh giá là có mật độ đến các tỉnh làm việc dày đặc nhất. Thủ tướng cũng là
lãnh đạo có nhiều chỉ đạo cụ thể nhất, cùng với Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ
làm việc với các Bộ, ngành về thực thi nhiệm vụ được giao, nhằm rút ngắn khoảng cách
từ lời nói đến việc làm. Theo phong cách đó, nhiều nơi đã ký cam kết về tạo môi trường
và thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, nhiều văn bản chính sách, pháp luật cũng đã được
ban hành nhanh chóng, tình trạng nợ đọng nhiệm vụ cũng có chuyển biến rõ nét.
- Xây dựng, hoàn thiện thể chế11:

11

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển trong thực tiễn Việt
Nam, Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội, 2017

19



Trong hai năm 2016-2017, Chính phủ tập trung vào việc xây dựng bộ máy chính
quyền liêm chính, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 123/2016/NĐ-CP, đưa ra những quy định mang tính nguyên tắc cho việc kiện
toàn bộ máy và đổi mới hoạt động của các Bộ, ngành Trung ương. Theo đó, nhiều nơi đã
triển khai việc kiện toàn bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là việc
sáp nhập, cắt giảm các đầu mối và biên chế trực thuộc. Chẳng hạn, trong năm 2016, Bộ
Công Thương đã cắt giảm 7 đầu mối đơn vị trực thuộc (từ 35 xuống còn 28 đầu mối); Hà
Nội đã cắt giảm 55 phòng ban, giảm 130 đơn vị sự nghiệp và giảm 171 trưởng phòng
ban. Bộ Nội vụ tiến hành rà soát các địa phương có tình trạng bổ nhiệm người thân giữ
các vị trí lãnh đạo, quản lý.
Ngày 24-11-2017, để đẩy mạnh hơn nữa việc kiện toàn bộ máy, Quốc hội ban
hành Nghị quyết số 56/2017/QH14 về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Nghị quyết đã đề ra những giải pháp
để tiếp tục cải cách bộ máy hành chính nhà nước theo hướng tinh gọn với các tiêu chí cụ
thể; tập trung vào việc kiện toàn cơ cấu tổ chức của Chính phủ; xác định rõ tiêu chí thành
lập phòng, vụ, cục, tổng cục và tương đương thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ; sắp xếp, tổ
chức bộ máy ở địa phương... Nghị quyết xác định việc tinh giản biên chế gắn với cơ cấu
lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, bảo đảm đến năm 2021 giảm
được 10% biên chế so với biên chế được giao năm 2015.
Ngày 5-9-2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 26/CT-TTg về tăng cường
kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Chính phủ cũng đã có các
biện pháp xử lý kịp thời, nghiêm minh và hợp lòng dân các vụ việc có dấu hiệu vi phạm của
công chức ở tất cả các cấp chính quyền, từ những vụ việc nhỏ, như trong vụ Cafe Xin chào
tại huyện Bình Chánh cho đến vụ ô nhiễm môi trường tại Formosa Hà Tĩnh năm 2016.
Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng trong các cơ quan nhà nước, doanh
nghiệp nhà nước cũng được đẩy mạnh. Năm 2016, Chính phủ đã yêu cầu khẩn trương điều
tra, truy tố, xét xử một số vụ án tham nhũng xảy ra tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại
Dương, Ngân hàng thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam... Năm 2017, Thanh tra
20



Chính phủ đã triển khai gần 200.000 cuộc thanh tra, phát hiện vi phạm 34.222 tỷ đồng,
5.803 ha đất; kiến nghị thu hồi 19.521 tỷ đồng và trên 5.000 ha đất; xuất toán, loại khỏi
giá trị quyết toán do chưa thực hiện đúng quy định và đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét
xử lý 14.701 tỷ đồng, 729 ha đất. Cơ quan thanh tra đã kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính
1.581 tập thể và nhiều cá nhân; ban hành trên 118.000 quyết định xử phạt vi phạm hành
chính tổ chức, cá nhân với số tiền 3.180 tỷ đồng; chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự
83 vụ, 176 đối tượng. Qua việc chủ động thanh tra, kiểm tra, Chính phủ và chính quyền
các cấp đã kịp thời phát hiện và chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền nhiều vụ án tham
nhũng lớn, qua đó giúp củng cố niềm tin của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp và xây
dựng Chính phủ kiến tạo phát triển.
- Cải cách hành chính với trọng tâm là đơn giản hóa và công khai thủ tục hành chính

trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, địa phương đã được đặc biệt
quan tâm. Thủ tướng và các Phó Thủ tướng đã có nhiều chỉ đạo, quán triệt nhằm đẩy
mạnh cải cách hành chính, kiên quyết tháo gỡ những điểm nghẽn cản trở hoạt động sản
xuất, kinh doanh, nâng cao sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ
quan nhà nước. Kết quả rà soát thủ tục hành chính năm 2016 của cơ quan hành chính nhà
nước các cấp đã đề nghị bỏ 252 thủ tục không cần thiết, sửa đổi 901 thủ tục không hợp
lý, tổng số thủ tục hành chính được đơn giản hóa lên tới 4527/4723 thủ tục (đạt tỷ lệ
95,85%); các Bộ, ngành đã chuẩn hóa 3589/4008 thủ tục (đạt 89,5%), số thủ tục được
công bố kịp thời sau khi chuẩn hóa là 3495/3589 (đạt 87,3%), số thủ tục được công khai
kịp thời trên Cơ sở dữ liệu quốc gia sau khi công bố là 3176/3589 (đạt 88,5%).
Trong năm 2017, báo cáo với Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết đến
nay đã cắt giảm, đơn giản hóa trên 5.000 thủ tục hành chính, đồng thời, công khai chỉ số cải
cách hành chính của các bộ ngành, địa phương. Để có kết quả đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
đề xuất, trình Chính phủ bỏ 1.930 yêu cầu, điều kiện về kinh doanh được cho là những giấy
phép con cản trở doanh nghiệp lâu nay; Bộ Công thương cũng tiến hành rà soát, đơn giản hóa
điều kiện kinh doanh, đề xuất kế hoạch, lộ trình cắt giảm các thủ tục, điều kiện kinh doanh

cũng như phương án giám sát cụ thể (dự kiến có khoảng 38-50% tổng số điều
21


kiện kinh doanh sẽ được cắt giảm); Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan
liên quan tổng hợp, đánh giá các rà soát, kiến nghị sửa đổi các quy định pháp luật liên
quan đến đất đai, xây dựng, nhà ở, đầu tư, kinh doanh đang gây vướng mắc, bất cập trong
thực tiễn...
- Về cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của
doanh nghiệp12:
Tháng 4-2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 09/2016/NQ-CP, đề ra những
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia trong 2 năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020. Chỉ một tháng sau,
Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16-5-2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh
nghiệp đến năm 2020 đã được Chính phủ thông qua. Đây là lần đầu tiên, Chính phủ có
riêng một nghị quyết về phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam, với mục tiêu đến năm 2020,
cả nước có trên 1 triệu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Đồng thời, đề ra 9 nguyên
tắc và 17 giải pháp hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp.
Trong năm 2016-2017, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều nghị định quy định về
điều kiện đầu tư kinh doanh với việc loại bỏ nhiều điều kiện kinh doanh được ban hành
chưa đúng thẩm quyền; trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục
4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư nhằm xây
dựng môi trường kinh doanh lành mạnh; Ban hành Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 61-2017 nhằm điều chỉnh việc thi hành Luật Đất đai theo hướng tháo gỡ những vướng mắc
trong thực hiện pháp luật về đất đai và tạo điều kiện để người dân, doanh nghiệp tiếp cận
đất đai phục vụ sản xuất kinh doanh.
Nhiều hành động quyết liệt nhằm cải thiện môi trường kinh doanh đã được xúc tiến
trong năm 2016 và 2017, như: tăng cường trực tiếp đối thoại, tiếp nhận kiến nghị, phản ánh
của doanh nghiệp; yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương thực hiện chủ trương “3 đồng hành,

12


Trịnh Quốc Toản, Vũ Công Giao (chủ biên): Nhà nước kiến tạo phát triển: Lý luận, thực tiễn trên thế giới
và ở
Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2017

22


×