Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

PHÂN TÍCH KHOẢNG, NHỔ RĂNG có HƯỚNG dẫn, mài RĂNG có HƯỚNG dẫn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.26 MB, 31 trang )

Trêng ®¹i häc y hµ néi
bé m«n r¨ng hµm mÆt

CHUYÊN ĐỀ

PHÂN TÍCH KHOẢNG, NHỔ RĂNG CÓ
HƯỚNG DẪN, MÀI RĂNG CÓ HƯỚNG DẪN

Học viên: Nguyễn Thị Diệp Ngọc
Lớp Cao học: Răng Hàm Mặt - Khóa 22

Hµ Néi - 2015


MỤC LỤC
1. Đặt vấn đề......................................................................................................1
2. Một số thay đổi khớp cắn từ hàm răng sữa đến hàm răng vĩnh viễn............2
2.1. Đặc điểm khớp cắn răng sữa..................................................................2
2.2. Thay đổi khớp cắn từ hàm răng sữa đến hàm răng vĩnh viễn................3
3. Phân tích khoảng.........................................................................................11
3.1. Cách đo khoảng hiện có.......................................................................11
3.2. Đo khoảng cần có.................................................................................14
3.2.1. Phương pháp dự đoán khoảng dựa vào kích thước các răng đã mọc....14
3.2.2. Phương pháp sử dụng phim X-quang để đo kích thước các răng
chưa mọc.................................................................................................17
3.2.3. Phương pháp kết hợp giữa phim X-quang và số đo của răng đã mọc....19
4. Nhổ răng có hướng dẫn...............................................................................20
5. Mài răng có hướng dẫn................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO



1

1. Đặt vấn đề
Phân tích khoảng hàm răng hỗn hợp hoặc răng vĩnh viễn để đưa ra nhận
xét về thừa khoảng hoặc thiếu khoảng dựa trên các số đo về khoảng cần và
khoảng hiện có trên cung hàm của bệnh nhân.
Cần phân tích khoảng trong các trường hợp bệnh nhân có vấn đề về
khoảng như thừa hoặc thiếu khoảng, có chen chúc răng, mất răng sữa sớm
hoặc sâu răng có tổn thương mặt bên, các trường hợp cần xác định khoảng
trống.
Phân tích khoảng để trả lời các câu hỏi: bệnh nhân có thật sự thiếu
khoảng không; nếu thiếu khoảng thì thiếu bao nhiêu, ở mức độ nào; nên điều
trị ngay hay trì hoãn; cách thức điều trị như thế nào.
Với một số trường hợp có thiếu khoảng nặng (trên 10mm) thì biện pháp
nhổ răng có hướng dẫn (hướng dẫn mọc răng) đã được lựa chon là một trong
những biện pháp để điều trị chỉnh nha phòng ngừa.
Có nhiều nghiên cứu trên thế giới về phân tích khoảng và điều trị nhổ
răng có hướng dẫn, mài răng có hướng dẫn. Tuy nhiên chưa có nhiều nghiên
cứu và tổng hợp vấn đề này ở Việt Nam nên em thực hiện chuyên đề này để
giải quyết một số câu hỏi như sau:
Kỹ thuật phân tích khoảng như thế nào?
Dự đoán hoặc tính được khoảng cần có bằng cách nào?
Ưu nhược điểm của nhổ răng có hướng dẫn?
Các kế hoạch nhổ răng có hướng dẫn?
Mài răng có hướng dẫn: chỉ định và kỹ thuật?


2

2. Một số thay đổi khớp cắn từ hàm răng sữa đến hàm răng vĩnh viễn.

2.1. Đặc điểm khớp cắn răng sữa.
Khớp cắn răng sữa lý tưởng là tiền đề cho một khớp cắn lý tưởng ở
hàm răng vĩnh viễn khi trưởng thành. Khoảng 3 tuổi khớp cắn của bộ răng sữa
sẽ được thiết lập hoàn chỉnh, giai đoạn từ 3 đến 5 tuổi là giai đoạn ổn định của
bộ răng sữa.
Khớp cắn của bộ răng sữa có đặc điểm rất đa dạng, có nhiều điểm khác
nhau giữa các cộng đồng của các chủng tộc khác nhau về khe hở, tương quan
giữa hai răng hàm sữa thứ hai, độ cắn chìa, cắn phủ… Trên thực tế rất hiếm
khi tìm được một bộ răng sữa có đầy đủ các tiêu chuẩn của khớp cắn lý tưởng.
Chapman (1935), Friel (1953), Grabel (1966), Walther (1982) đã mô tả 4 đặc
điểm của một khớp cắn răng sữa lý tưởng:
- Có khe hở giữa các răng cửa sữa.
- Có khe linh trưởng (ở phía gần răng nanh trên và phía xa răng nanh
dưới), răng nanh hàm dưới liên hệ với khe linh trưởng hàm trên.
- Các răng cửa sữa có trục gần thẳng đứng, răng cửa dưới chạm vào
Cingulum răng cửa trên, răng cửa trên phủ dọc và phủ ngang răng cửa dưới.
- Mặt xa của răng hàm sữa thứ hai ở hàm trên và hàm dưới nằm trên
cùng một mặt phẳng.
Nghiên cứu của Baume (1950) cho kết quả 76% trường hợp có tương
quan bình diện phía xa của răng hàm sữa thứ hai hàm trên và hàm dưới là
dạng mặt phẳng, 14% là bậc xuống gần, 10% là bậc xuống xa.
Khe hở giữa các răng sữa lần đầu tiên được Delabarre mô tả vào năm
1918. Baume (1950) tổng kết rằng không có khe hở sinh lý nào xuất hiện sau
khi răng sữa đã mọc và nhấn mạnh hai trường hợp hàm răng có khe hở và
hàm răng không có khe hở. Khe hở giữa các răng sữa gặp ở hàm trên khoảng
70% trường hợp và 63% ở hàm dưới. Khoảng cách liên răng nanh ở hàm răng
sữa có khe hở rộng hơn 1,7mm so với hàm răng sữa không có khe hở ở hàm
trên và 1,5 mm ở hàm dưới. Theo Baume, khoảng 40% các trường hợp không



3

có khe hở ở hàm răng sữa sẽ có chen chúc răng ở hàm răng vĩnh viễn. Tổng
kích thước các khe hở ở hàm trên từ 0 – 10mm trung bình là 5mm và ở hàm
dưới là 0 – 6mm, trung bình là 3mm
2.2. Thay đổi khớp cắn từ hàm răng sữa đến hàm răng vĩnh viễn
Một nghiên cứu của trường Đại học Toronto và nhóm nghiên cứu
Burlington thấy rằng có 34% trẻ 3 tuổi có khớp cắn bình thường, tỷ lệ này
giảm xuống đến 11% khi trẻ 12 tuổi. Khoảng 2/3 số trẻ 3 tuổi còn lại không
có khớp cắn bình thường thì tỷ lệ sai khớp cắn loại I là 41%, loại II là 23% và
chỉ có 2% có sai khớp cắn loại III. Điều đó cho thấy khoảng 2/3 số trường
hợp sai khớp cắn bắt nguồn tại thời điểm 3 tuổi.
* Liên quan giữa răng cửa và thay đổi kích thước cung răng
Về kích thước: theo Black (1902) tổng kích thước gần xa của bốn răng
cửa vĩnh viễn lớn hơn tổng kích thước gần xa của các răng sữa ở hàm trên là
7,6mm và ở hàm dưới là 6mm.

Hình 1 Chiều gần xa (chiều rộng) của các răng sữa và vĩnh viễn
theo Graber (1969).


4

Hậu quả của sự chênh lệch kích thước giữa răng cửa vĩnh viễn và răng
cửa sữa là chen chúc răng cửa.

Hình 2 Các khuynh hướng mọc của răng cửa vĩnh viễn: A. Rất tốt; B. Điển
hình/ hay gặp; C. Có vấn đề chen chúc răng cửa; D. Rất không tốt.
Nghiêng ngoài trong của răng cửa vĩnh viễn: Các răng cửa vĩnh viễn
mọc nghiêng về phía môi nhiều hơn so với răng sữa. Theo Baume, ở hàm trên

các răng cửa ra trước khoảng 2,2mm và 1,3mm ở hàm dưới. Điều này sẽ làm
giảm hệ quả của sự bất cân xứng kích thước của các răng cửa. Việc nghiêng
các răng cửa hàm trên khi mọc làm thay đổi độ cắn chìa. Khoảng 10% trường
hợp độ cắn chìa giảm khi chuyển từ bộ răng sữa sang bộ răng vĩnh viễn; 43%
trường hợp giữ nguyên và 47% có tăng độ cắn chìa.


5

Hình 3 Thay đổi vị trí và kích thước của răng cửa vĩnh viễn so với răng cửa
sữa Graber (1969)
* Thay đổi khoảng liên răng nanh
Một số nghiên cứu thấy rằng khoảng liên răng nanh sữa tăng lên khi
mọc các răng cửa vĩnh viễn, tăng khi chuyển từ hàm răng sữa đến hàm răng
hỗn hợp. Cung răng hàm trên sẽ phát triển dạng cung ở cả nam và nữ làm tăng
chiều ngang cung răng tại răng nanh. Ở hàm dưới, do răng nanh vĩnh viễn
mọc sớm hơn nên tăng khoảng liên răng nanh sớm hơn. Moorrees và cộng sự
thấy rằng khoảng liên răng nanh ở hàm trên của nam tăng khoảng 6mm từ 2 –
18 tuổi. Ở nữ khoảng liên răng nanh tăng 4,5mm từ 2 – 12 tuổi.


6

Biểu đồ 1 Thay đổi khoảng liên răng nanh theo tuổi. Graber (1969)

Biểu đồ 2 Tuổi kết thúc thay đổi khoảng liên răng nanh theo Graber (1969)


7


A

B

Biểu đồ 3 Thay đổi chiều ngang cung răng theo Moorrees (1959) với đường
liền là nam, đường nét đứt là nữ. A. Hàm trên; B. Hàm dưới
* Thay đổi chiều dài cung răng (arch length)
Chiều dài cung răng là một đường cong liên tục đi từ mặt xa của răng
sau cùng qua các điểm tiếp xúc mặt bên đến bên đối diện. Có hai giá trị: chiều
dài cung răng sữa (chiều dài trước) và chiều dài cung răng vĩnh viễn (chiều
dài toàn bộ).


8

Hình 4 Chiều dài cung răng trước và chiều dài toàn bộ
Chiều dài cung răng luôn thay đổi khi chuyển từ bộ răng sữa sang bộ
răng vĩnh viễn. Sự thay đổi này do nhiều yếu tố: sự nghiêng về trước khi các
răng cửa vĩnh viễn mọc, sự di gần của các răng hàm sữa và răng hàm vĩnh
viễn, sự mở rộng về hai bên do mọc răng nanh và răng hàm nhỏ, thay đổi kích
thước răng sữa – răng vĩnh viễn thay thế. Trong đa số các trường hợp thì
chiều dài cung răng hàm dưới giảm.
- Thay đổi kích thước răng cửa: chênh lệch kích thước giữa các răng
cửa sữa và vĩnh viễn ở hàm trên là 7,6mm sẽ được giải quyết bởi các khe hở
giữa các răng 3,8mm, khoảng liên răng nanh tăng 3,0mm, vị trí răng cửa về
trước 2,2mm. Sự chênh lệch này ở hàm dưới là 6,0mm được giải quyết bằng
khe hở giữa các răng 2,7mm, khoảng liên răng nanh tăng 3,0mm và vị trí răng
cửa ra trước 1,3mm. Nếu cắn trùm tăng sẽ làm tăng chênh lệch kích thước
răng cửa hàm dưới.



9

Hình 5 Thay đổi kích thước răng cửa hàm dưới.
- Thay đổi kích thước răng nanh và răng hàm nhỏ (khoảng Leeway):
Nance đưa ra khái niệm khoảng leeway vào năm 1947. Khoảng leeway là
khoảng chênh lệch kích thước của các răng nanh và răng hàm nhỏ vĩnh viễn
với các răng nanh và răng hàm sữa. Khoảng leeway ở hàm dưới là 1,7mm mỗi
bên và 0,9mm mỗi bên ở hàm trên.


10

Hình 6 Khoảng leeway AC ở hàm dưới và A’C’ ở hàm trên.
- Sự di gần của các răng sau (răng hàm sữa, răng hàm lớn, răng hàm
nhỏ vĩnh viễn): Trong quá trình chuyển từ hàm răng sữa sang hàm răng vĩnh
viễn, các răng sau luôn có xu hướng di gần. Nếu một yếu tố làm xuất hiện
khoảng ở phía gần như khe linh trưởng ở hàm dưới, các tổn thương mặt bên
do sâu răng, mất răng sữa sớm thì các răng phía sau sẽ di chuyển về gần và
gây giảm chiều dài cung răng.

Biểu đồ 4 Thay đổi chiều dài cung răng do sự di gần của các răng sau
Moorrees (1965)


11

Hình 7 Sự di gần sớm vào khe kinh trưởng ở hàm dưới khi răng hàm lớn thứ
nhất mọc theo Baume (1950)
3. Phân tích khoảng

Để phân tích khoảng cần có giá trị của khoảng cần có và khoảng hiện có:
- Khoảng hiện có là chu vi cung hàm tính từ mặt gần răng hàm lớn thứ nhất.
- Khoảng cần có: đo chiều gần xa của các răng cửa, răng nanh và răng
hàm nhỏ vĩnh viễn.
Giá trị chênh lệch: X= khoảng cần có - khoảng hiện có
Nếu X < 0: thiếu khoảng
X=0: đủ khoảng
X>0: thừa khoảng.
3.1. Cách đo khoảng hiện có
Đo trên mẫu hàm thạch cao hoặc đo trên ảnh 3D kỹ thuật số sau khi
quét mẫu hàm với tỷ lệ 1:1.
* Đo trên mẫu hàm:
- Dùng thước Boley hoặc compa đo các khoảng cách: khoảng răng hàm
nhỏ, khoảng răng cửa ở hai bên.


12

Hình 8 Đo khoảng hiện có bằng compa và thước Boley
- Dùng thanh đồng uốn theo hình dạng cung răng và đo chiều dài thanh
đồng đã uốn. Khi uốn thanh đồng cần dùng lực nhẹ, tránh xoắn vặn làm thay
đổi chiều dài dây.

Hình 9 Đo khoảng hiện có bằng thanh đồng đã được uốn
Đo trên ảnh quét mẫu hàm: sử dụng phần mềm chuyên dụng để đo trên
ảnh 3D quét mẫu hàm (OrthoCAD, OrthoAnalyzer, CB Works…)


13


Hình 10 Đo khoảng hiện có trên ảnh 3D - phần mềm OrthoCAD
Gần đây cùng với sự phát triển của Cone beam CT (CBCT), năm 2009
nghiên cứu của S Baumgaertel và cộng sự đã sử dụng phim CBCT để đo
khoảng hiện có và các kích thước răng, cung hàm. Nghiên cứu cho thấy với
những kích thước đơn thì không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với kết
quả đo bằng ảnh 3D còn các kích thước tổng hợp như khoảng hiện có và
khoảng cần có thì có sự khác biệt do sai số hệ thống.

Hình 11 Đo trên ảnh dựng 3D của phim CBCT


14

3.2. Đo khoảng cần có
Khoảng cần có là tổng của chiều dài gần xa thân răng của các răng hàm
nhỏ, răng nanh và răng cửa vĩnh viễn.
Với hàm răng vĩnh viễn, khi các răng vĩnh viễn đã mọc lên cung hàm
thì có thể sử dụng các biện pháp đo trên mẫu hàm, trên ảnh 3D, trên CBCT.
Với hàm răng hỗn hợp có thể tính khoảng cần có bằng cách:
- Sử dụng các số đo của các răng đã mọc và dự đoán khoảng/kích thước
của các răng chưa mọc.
- Sử dụng phim X-quang để đo kích thước của các răng chưa mọc.
- Kết hợp phim X-quang và các số đo của các răng đã mọc.
3.2.1. Phương pháp dự đoán khoảng dựa vào kích thước các răng đã mọc
Một số phương pháp dự đoán khoảng được sử dụng rộng rãi hiện nay:
- Sử dụng bảng xác suất kích thước của Moyer’s.
- Dùng công thức Tanaka-Johnson
* Phương pháp sử dụng bảng xác suất của Moyer’s
Năm 1967 Moyer’s đưa ra bảng xác suất kích thước răng nanh và răng
hàm nhỏ vĩnh viễn dựa trên tổng kích thước gần xa của các răng cửa giữa và

cửa bên hàm dưới. Phương pháp này hiện nay được sử dụng rộng rãi trên thế
giới do có nhiều ưu điểm:
- Rất ít sai số hệ thống.
- Dễ thực hiện
- Có thể đo trên mẫu hoặc đo trực tiếp.
- Không tốn nhiều thời gian.
- Thiết bị đơn giản.
- Tính được kích thước cho cả hàm trên và hàm dưới.
Tuy nhiên phương pháp này còn một số hạn chế:
- Phân tích của Moyer’s là phân tích xác suất.


15

- Có khó khăn khi các răng cửa dưới xoay hoặc lệch ngoài cung.
- Dự đoán các kích thước răng hàm trên dựa vào kích thước răng cửa dưới.
- Moyer khuyến cáo rằng nên cẩn thận trong việc sử dụng các phân tích
vì không bù lại được các biến đổi sinh học cá nhân khi chuyển từ bộ răng hỗn
hợp sang răng vĩnh viễn.
- Phương trình của Moyer không đề cập đến nhóm đối tượng nghiên
cứu của họ.
- Cần cân nhắc khi sử dụng phương pháp của Moyer cho những cộng
đồng đặc biệt.
Bảng 1 Bảng xác suất kích thước của Moyer


16

* Phương pháp dự đoán khoảng bằng công thức của Tanaka – Johnson
Tanaka và Johnson nghiên cứu trên 506 bệnh nhân chỉnh nha ở

Cleveland và đề xuất công thức dự đoán kích thước khoảng cần có cho răng
nanh và răng hàm nhỏ chưa mọc dựa trên tổng kích thước gần xa của các răng
cửa giữa và cửa bên hàm dưới.
Tanaka – Johnson đơn giản hóa kết quả của Moyer bằng công thức:
Y = A + B (X)
Trong đó:
Y: Khoảng cần thiết của răng nanh và răng hàm nhỏ chưa mọc.
X: Tổng kích thước gần xa của các răng cửa hàm dưới.
B = 0,5
A: hàm trên A = 11; hàm dưới A = 10,5.


17

Công thức của Tanaka – Johnson có ưu điểm là kỹ thuật đơn giản, dễ
làm và không cần thiết phải có bảng Moyer. Tuy nhiên hệ số A, B của công
thức này chỉ áp dụng cho người Tây bắc Âu.
Nhiều nghiên cứu gần đây đã xây dựng công thức Tanaka – Johnson
cho các cộng đồng khác như:
- Nghiên cứu của Jintana Jaroomtham và Keith Godfey (2000) đưa ra
công thức Tanaka – Johnson cho cộng đồng người Thái: với cả hai giới hàm
trên Y=11,87+0,47X, hàm dưới Y=10,3+0,5X; với nam hàm trên Y=
13,36+0,41X, hàm dưới Y=11,92+0,43X; với nữ hàm trên Y= 11,16+0,49X,
hàm dưới Y=9,49+0,53X.
- Nghiên cứu của John YK Ling và Ricky WK Wong (2006) đưa ra
công thức Tanaka – Johnson cho cộng đồng người Trung Quốc: với nam hàm
trên A=11,5, hàm dưới A=10,5; với nữ hàm trên A=11,0, hàm dưới A=10,0.
3.2.2. Phương pháp sử dụng phim X-quang để đo kích thước các răng chưa mọc
* Phương pháp của Nance (1947)
Phương pháp phân tích khoảng của Nance cho hàm răng hỗn hợp dựa

vào các kích thước đo trên mẫu của các răng cửa vĩnh viễn đã mọc và kích
thước các răng nanh và răng hàm nhỏ chưa mọc trên phim cận chóp.
Trong phương pháp này, khoảng cần có được tính bằng kích thước các răng
cửa đã mọc đo trên mẫu (bằng thước Boley hoặc thanh đồng) và kích thước gần
xa của các răng nanh và răng hàm nhỏ chưa mọc đo trên phim cận chóp.
Phương pháp này có ưu điểm:
- Sai số nhỏ
- Độ tin cậy cao
- Thực hiện được trên cả hai hàm
Hạn chế:
- Tốn nhiều thời gian để đo trên mẫu và trên phim.


18

- Cần chụp nhiều phim cận chóp.
- Có thể có sai số do sự chênh lệch kích thước trên phim và thực tế.
* Phương pháp của Huckaba (1964)
Phương pháp của Huckaba dựa trên tỷ số giữa kích thước thật được đo
trên mẫu và kích thước đo trên phim X-quang của răng sữa để tính kích thước
của các răng hàm nhỏ và răng nanh thay thế chưa mọc.
Phương pháp này có thể sử dụng nhiều loại phim X-quang như phim
cận chóp, phim Panorama, phim cắn…
Công thức để tính kích thước của răng nanh hoặc răng hàm nhỏ vĩnh
viễn chưa mọc là:
Y1=X1*Y2/X2
Trong đó:
Y1: Kích thước gần xa của răng vĩnh viễn chưa mọc.
X1: Kích thước gần xa của răng vĩnh viễn chưa mọc trên phim.
Y2: Kích thước gần xa của răng sữa sẽ được thay thế trên mẫu.

X2: Kích thước gần xa của răng sữa sẽ được thay thế trên phim.

Hình 12 Đo kích thước gần xa răng sữa trên phim và trên mẫu
Phương pháp này có thể được sử dụng ở cả hai hàm với tất cả các
trường hợp. Tuy nhiên để có thể tính được chính xác kích thước răng vĩnh
viễn thay thế cần có sự hiện diện của răng sữa tại chỗ trên cung hàm và kết


19

quả đo chính xác hay có sai số phụ thuộc vào việc có thể nhìn rõ chiều gần xa
và vị trí của răng chưa mọc trên phim.
3.2.3. Phương pháp kết hợp giữa phim X-quang và số đo của răng đã mọc
Phương pháp của Hixon và Oldfather (1956) để phân tích khoảng cho
hàm dưới dựa vào tổng kích thước gần xa của răng cửa giữa và cửa bên hàm
dưới trên mẫu và răng hàm nhỏ trên phim cận chóp từ đó dựa vào bảng để
tính được khoảng cần có cho một bên cung hàm.
Stanley và Kerber (1980) tiếp tục phát triển phương pháp với các
bước :
- Bước 1 : Đo kích thước gần xa của răng cửa giữa và cửa bên hàm
dưới trên mẫu thạch cao.
- Bước 2 : Đo kích thước gần xa của răng hàm nhỏ vĩnh viễn chưa mọc
trên phim cận chóp.
- Bước 3 : Tính tổng kích thước của 4 răng đã đo được và dùng bảng
kích thước của Hixon và Oldfather để có được khoảng cần có cho nửa cung
hàm đang đo.
Lặp lại bước 1 – 3 với nửa cung hàm còn lại.
Tổng hợp kết quả của hai bên cung hàm cho ra khoảng cần có của hàm dưới.
Bảng 2 Bảng kích thước của Hixon và Oldfather


Đây là phương pháp tương đối chính xác tuy nhiên chỉ có thể áp dụng
với hàm dưới.


20

Có thể tổng hợp ra công thức tính tổng khoảng cần có cho răng nanh và
răng hàm nhỏ :
Y=X*0,7158+2,1267
Trong đó :
Y: Khoảng cần có cho răng nanh và răng hàm nhỏ vĩnh viễn.
X: Tổng kích thước gần xa của răng cửa trên mẫu và răng hàm nhỏ trên
phim.

Biểu đồ 5 Biểu đồ biểu thị tương quan của khoảng cần có của răng nanh và
răng hàm nhỏ vĩnh viễn (trục Y) với tổng kích thước gần xa của răng cửa và
răng hàm nhỏ (trục X)
4. Nhổ răng có hướng dẫn
Nhổ răng có hướng dẫn, nhổ răng hàng loạt, hướng dẫn mọc răng là
những thuật ngữ để chỉ phương pháp nhổ lần lượt răng sữa và răng hàm nhỏ thứ
nhất vĩnh viễn để điều trị chen chúc răng cửa với mức độ thiếu khoảng nặng.
Kỹ thuật ‘nhổ răng hiện đại’ (Progressive extraction) lần đầu tiên được
Nance đưa ra từ năm 1940 và ông được coi là cha đẻ của phương pháp nhổ
răng có hướng dẫn. Sau đó một số tác giả khác cũng đề cập đến phương pháp
này như Kjellgren, Hozt, Mooress, Dewel.


21

Chỉ định của nhổ răng có hướng dẫn được đưa ra khi bệnh nhân có

thiếu khoảng ở mức độ trầm trọng (bằng hoặc trên 10mm), không có vấn đề
về xương, khớp cắn Angle I, mặt nghiêng tốt.
Một số dấu hiệu gợi ý đến chỉ định nhổ răng có hướng dẫn :
- Bệnh nhân có sự mất cân xứng giữa kích thước răng và cung hàm.
- Thiếu các khe tự nhiên và khe linh trưởng.
- Răng cửa bên mọc sai vị trí: mọc ngoài cung, lệch lưỡi hoặc vòm miệng.
- Mất sớm răng nanh sữa khi thay răng cửa bên.
- Tổn thương mô nha chu do sang chấn khớp cắn ở răng cửa dưới chen chúc.
- Răng mọc kẹt.
Chống chỉ định :
- Bệnh nhân có thiếu răng hoặc có khe hở trên cung hàm.
- Chen chúc nhẹ hoặc trung bình.
- Cắn sâu hoặc cắn hở.
- Khớp cắn loại II hoặc loại III nặng trên răng và/hoặc xương.
- Khe hở môi – vòm miệng.
- Tổn thương sâu răng rộng.
Ưu điểm:
- Tránh được các sang chấn tâm lý do thẩm mỹ (tự ti hoặc bị trêu chọc).
- Giảm thời gian chỉnh nha thực thụ sau này.
- Là phương pháp điều trị với các lực sinh lý.
- Duy trì được tình trạng vệ sinh răng miệng tốt.
- Giảm chi phí điều trị
- Kết quả điều trị ổn định, ít phải duy trì sau điều trị hơn so với chỉnh
hình thực thụ.
Nhược điểm:
- Cần theo dõi trên lâm sàng sát sao


22


- Thời gian điều trị dài (thường 2-3 năm)
- Bệnh nhân cần tuân thủ chính xác lịch hẹn.
- Có thể có sang chấn tâm lý do nhổ răng hàng loạt.
- Có thể xuất hiện tật đẩy lưỡi.
- Làm giảm chiều dài cung hàm.
- Có thể xuất hiện khe giữa răng nanh và răng hàm nhỏ thứ hai do hai
răng này nghiêng về phía mất răng.
- Có thể cần điều trị dựng lại trục các răng sau này.
Các phương pháp nhổ răng có hướng dẫn:
- Phương pháp của Dewel
- Phương pháp của Tweed
- Phương pháp của Nance
- Phương pháp của Moyer
- Phương pháp của Grewe
* Phương pháp của Dewel (1978)
Dewel đề xuất 3 bước của nhổ răng có hướng dẫn với thứ tự nhổ răng
là C – D – 4.
Bước 1: Nhổ răng nanh sữa tạo khoảng để dàn đều các răng cửa vào
khoảng 8 – 9 tuổi.
Bước 2: Nhổ răng hàm sữa thứ nhất sau 1 năm (khoảng 10 tuổi) để đẩy
nhanh tiến độ mọc răng hàm nhỏ thứ nhất.
Bước 3: Nhổ răng hàm nhỏ thứ nhất sau khi mọc để tạo chỗ cho răng
nanh vĩnh viễn mọc.
Phương pháp này phù hợp với hàm trên vì thứ tự mọc răng vĩnh viễn ở
hàm trên là 6 – 1 – 2 – 4 – 5 – 3 – 7. Tuy nhiên ở hàm dưới thứ tự mọc răng
vĩnh viễn là 6 – 1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 7, nên có một biến thể của phương pháp


23


Dewel là tiến hành lấy bỏ mầm răng hàm nhỏ thứ nhất ngay khi nhổ răng hàm
sữa thứ nhất.

Hình 12 Các bước nhổ răng có hướng dẫn theo Dewel
* Phương pháp của Tweed (1966)
Phương pháp nhổ răng có hướng dẫn của Tweed được đề xuất khi bệnh
nhân khoảng 7,5 - 8,5 tuổi có bất hài hòa kích thước răng – hàm.
Thứ tự nhổ răng được Tweed đưa ra là D – 4 – C.
Khi bệnh nhân khoảng 8 tuổi tiến hành nhổ răng hàm sữa thứ nhất.
Khoảng 4 – 10 tháng sau khi nhổ răng hàm sữa thứ nhất răng hàm nhỏ
thứ nhất sẽ mọc lên khỏi lợi, chỉ nhổ răng hàm nhỏ thứ nhất khi thân răng lâm
sàng đã mọc hoàn toàn trên bề mặt xương ổ răng.


×