BÀI THẢO LUẬN
Đề tài thảo luận-Đề tài 8: Quy luật phủ định của phủ định của PBCDV. Vận
dụng quy luật này trong quá trình xây dựng văn hóa Việt Nam hiện nay.
Phần mở đầu
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, quy luật phủ định là một trong
ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật phủ định của phủ định là
quy luật về khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động phát triển diễn ra
trong mọi lĩnh vực.
Trong thực tế, mọi sự vật hiện tượng luôn luôn biến đổi, sinh ra, tồn tại rồi mất đi.
Sự vật, hiện tượng cũ mất đi được thay thế bằng sự vật hiện tượng mới, sự thay thế
đó được gọi là sự phủ định. Phủ định biện chứng là quá trình vô tận, tạo nên
khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng.
Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn
về xu hướng vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
Ở Việt Nam, việc áp dụng quy luật phủ định của phủ định vào phát triển văn hóa
đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đảng và Nhà nước chú trọng xây dựng nền
văn hóa hiện đại mà vẫn quan tâm vào các yếu tố truyền thống, xây dựng một nền
văn hóa phát triển toàn diện, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa của cả một dân
tộc không chỉ xây dựng từ một hai người mà từ tất cả những người dân Việt Nam.
Vì vậy nhóm 6 chọn đề tài “Quy luật phủ định của phủ định của PBCDV. Vận
dụng quy luật này trong quá trình xây dựng văn hóa Việt Nam hiện nay” để tìm
hiểu và xây dựng những phương hướng hữu ích và hiệu quả.
Phần Nội Dung: Quy luật phủ định của phủ định của PBCDV. Vận dụng quy
luật này trong quá trình xây dựng văn hóa Việt Nam hiện nay.
Chương I: Nội dung quy luật phủ định của phủ định của PDVBC.
I. Khái niệm:
Trong thế giới vận động và phát triển không ngừng vô cùng và vô tận, sự vật
hiện tượng sinh ra tồn tại, phát triển rồi mất đi. Giai đoạn vận động, phát triển này
được thay thế bằng giai đoạn vận động phát triển khác. Sự thay thế đó gọi là sự
phủ định. Nó có thể diễn ra theo 2 khuynh hướng khác nhau. Trước hết là phủ định
siêu hình - phủ định sạch trơn là sự phủ định diễn ra do sự tác động, can thiệp từ
bên ngoài sự vật làm cho sự vật ấy không còn khả năng phát triển tiếp. Ví dụ như
cái cây sau khi bị chặt sẽ không còn khả năng sinh trưởng và chấm dứt hoàn toàn
sự sống của cái cây đó. Bên cạnh đó, sự phủ định còn theo khuynh hướng khác là
phủ định biện chứng. Đây là sự phủ định diễn ra bên trong sự vật, tạo ra điều kiện,
tiền đề cần thiết cho sự phát triển tiếp theo của sự vật, cho cái mới thay thế cái cũ.
Nó là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển. Một ví dụ về phủ định biện
chứng ta có thể thấy rõ đó là quá trình nhận thức của con người: Từ Trung học phổ
thông lên Đại học. Mọi kiến thức, kĩ năng được tích lũy trong thời gian học cấp ba
là tiền đề giúp chúng ta lên Đại học. Phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản
là tính khách quan và tính kế thừa. Nó mang tính khách quan bởi vì sự phủ định
nằm bên trong chính sự vật hiện tượng, tạo khả năng ra đời của cái mới thay thế cái
cũ. Nhờ vậy tạo nên xu hướng phát triển của chính bản thân nó: phủ định biện
chứng cũng chính là sự tự thân phủ định. Không những thế nó còn mang tính kế
thừa vì nó không phải phủ định sạch trơn cái cũ mà dựa trên đó hình thành nên cái
mới thông qua quá trình chọn lọc, loại bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại
những nội dung tích cực, tạo nên tính liên tục của sự phát triển. Như vậy có thể
thấy phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên trong giữa
cái cũ và cái mới đồng thời là sự tự khẳng định của quá trình vận động, phát triển
của sự vật hiện tượng.
II. NỘI DUNG PHƯƠNG QUY LUẬT
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là
một quá trình vô tận, tạo nên khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng từ
trình độ thấp đến trình độ cao hơn, diễn ra có tính chất chu kỳ theo hình thức “xoáy
ốc”
1. Quy luật có tính chu kì của phát triển
Từ một điểm xuất phát (A) qua một số lần phủ định biện chứng (B(n)) sự vật
dường như lặp lại điểm xuất phát (A’) nhưng trên cơ sở cao hơn: A→ B(n) →A’
Sự phủ định biện chứng lần thứ nhất (B) là bước trung gian trong sự phát triển.
Trình độ mới của (A) phải qua (B) mà được thực hiện chứ không phải (B) là giai
đoạn cao hơn (A). Sự phủ định biện chứng lần thứ hai (A’) là phủ định của phủ
định. (A’) là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển đồng thời lại là điểm xuất
phát của một chu kỳ phát triển mới.
Để hoàn thành một chu kỳ phát triển, sự vật hiện tượng phải trải qua ít nhất hai lần
phủ định biện chứng.
Ví dụ: A (Cây) → B (Hoa → Quả) → A’(Cây)
Cây phát triển đủ sẽ có hoa, sự xuất hiện của hoa phủ định cho cây con chưa có
hoa lúc trước, sự xuất hiện của quả sẽ phủ định của hoa, từ quả có hạt để gieo trồng
lên cây để phủ định cho quả. Cây thế hệ sau sẽ có những điểm tương đồng nhưng
tốt hơn cây thế hệ trước đó do có tính kế thừa và phát triển tiến lên. Khoảng thời
gian từ lúc sự vật xuất hiện đến khi mất đi đồng thời thế hệ mới ra đời gọi là một
chu kì của phát triển. Các sự vật hiện tượng khác nhau sẽ có chu kì phát triển khác
nhau, mỗi chu kì ấy gồm nhiều lần phủ định và số lần phủ định ấy là không giống
nhau. Nhưng tất cả sự vật, hiện tượng ấy đều có hai điểm giống nhau đó là điểm
đầu tiên khởi đầu cho sự xuất hiện của sự vật, hiện tượng và điểm kết thúc phủ
định chuyển sang chu kì mới và chu kì mới sẽ có một chất lượng cao hơn do có
tính kế thừa và tiến lên của sự phát triển.
2. Phát triển tuân theo hình xoáy ốc
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính tất yếu tiến lên của sự vận
động của sự vật và hiện tượng. Sự phát triển đi lên đó không diễn ra theo con
đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”.
Lênin viết: “Một sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua nhưng
dưới một hình thức khác ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định), một sự
phát triển có thể nói là theo đường xoáy ốc chứ không theo đường thẳng (Lênin
toàn tập, T.26, Nxb Tiến bộ, Maatsxcơva, 1981, tr.65).
“Đường xoáy ốc” biểu hiện các mặt của quá trình phát triển biện chứng: tính kế
thừa, tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận động. “Đường xoáy ốc” thể hiện tính
phức tạp trong quá trình biến đổi, phủ định của sự vật. Mỗi vòng mới của đường
xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.
Ví dụ: Điện thoại có dây → Điện thoại di động → Điện thoại thông minh
Ở thời sơ khai, để đáp ứng nhu cầu được nói chuyện với nhau mà không cần gặp
mặt trực tiếp hoặc gián tiếp như viết thư, điện thoại đã lần đầu xuất hiện với hình
thức là điện thoại có dây, sau đó điện thoại di động nhỏ gọn hơn được ra đời phủ
định đi điện thoại có dây và có tính linh hoạt hơn, chất lượng hơn nhưng vẫn có
tính kế thừa bởi điện thoại đời trước với tính năng nghe gọi của nó. Sau đó lấy nền
tảng từ điện thoại di động, điện thoại thông minh ra đời với rất nhiều chức năng
hiện đại phủ định cho điện thoại di động cơ bản. Từ đó ta thấy sự phủ định trên thể
hiện rõ tính chất “xoáy ốc”, có tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận
động, đó là sự phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
III. Ý nghĩa phương pháp luận
Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách
đúng đắn về xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó
không diễn ra theo đường thẳng mà là con đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều
giai đoạn, nhiều quá trình khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá
trình phát triển chỉ là sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến
lên theo quy luật. Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự
vật, hiện tượng để tác động tới sự phát triển, phù hợp với yêu cầu hoạt động, nhận
thức, biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong mọi
hoạt động của chúng ta và trong thực tiễn Khẳng định niềm tin vào xu hướng tất
yếu là phát triển tiến lên của cái tiến bộ. Đó là biểu hiện của thế giới quan khoa học
và nhân sinh quan cách mạng.
.
Theo quy luật phủ định của phủ định, trong thế giới khách quan, cái mới tất
yếu phải ra đời để thay thế cái cũ. Trong tự nhiên, cái mới ra đời và phát triển theo
quy luật khách quan. Trong đời sống xã hội, cái mới ra đời trên cơ sở hoạt động có
mục đích, có ý thức tự giác và sáng tạo của con người. Vì vậy, cân nâng cao tính
tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng
của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó, cần khắc
phục tư tưởng bảo thủ, trị trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới, làm
trái với quy luật phủ định của phủ định.
Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định cái
cũ phải theo quy tắc kế thừa có phê phán, kế thừa những nhân tố hợp quy luật và
lọc bỏ, vượt qua, cải tạo cái tiêu cực, trái quy luật nhằm thúc đẩy sự vật, hiện
tượng phát triển theo hướng tiến bộ.
Quy luật phủ định của phủ định đã vạch rõ: phát triển là khuynh hướng
chung, nhưng quá trình phát triển diễn ra rất phức tạp bao hàm cả những bước thụt
lùi, những sự lặp lại, phải trải qua nhiều lần phủ định, nhiều khâu trung gian. Trong
lĩnh vực đời sống xã hội, quá trình phát triển càng phức tạp hơn. Điều đó đòi hỏi
trong thực tiễn và trong nhận thức khoa học không được chủ quan, đơn giản khi
xem xét sự vật, mà phải có cái nhìn biện chứng, đúng với xu thế của thời đại ngày
nay. Chủ nghĩa xã hội hiện đang bị khủng hoảng, phong trào đấu tranh cách mạng
trên thế giới đang gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên tình hình này không ngăn cản
được xu hướng tiến tới chủ nghĩa cộng sản của xã hội loài người. Chủ nghĩa tư bản
không phải là xã hội không thể vượt qua.
Chương II: Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào xây dựng văn hóa
Việt Nam hiện nay.
I. Thực trạng văn hóa Việt Nam trước năm 1986
Bất chấp sự phủ nhận của Pháp về “hình ảnh An Nam” và những gì họ biện
minh cho cái gọi là công cuộc “khai hoá” thì cũng không phủ nhận được Việt Nam
là một nước có bề dày lịch sử lâu đời. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước, giữ
nước, Việt Nam đang dần hoàn thiện và cũng xây dựng riêng cho mình những nét
mang đậm bản chất văn hóa dân tộc. Có được tất cả như ngày hôm nay một phần là
do tinh thần đoàn kết, chủ nghĩa yêu nước của nhân dân và cùng với sự nỗ lực
không ngừng để phát triển kinh tế-xã hội.
Tuy nhiên, nền văn hoá có lịch sử lâu đời với bề dày truyền thống ấy, trên tổng thể
hệ thống giá trị lại phát triển tương đối chậm chạp. Biện chứng của sự phát triển
thường tái hiện lại các kiểu mẫu cũ trên cơ sở hạ tầng kinh tế nông nghiệp lúa nước
và hệ tư tưởng Nho giáo phong kiến ít biến đổi. Các quá trình biện chứng của
truyền thống văn hoá trước khi hệ tưởng tư sản, thương nghiệp và công nghiệp đến
Việt Nam, thường lấn át sự đổi mới. Kể cả sau này, các chương trình cách tân cũng
thường diễn ra trong khuôn khổ của các tập quán, nếp sống, phong tục, nghi lễ cũ
nên phần nào về tác dụng đổi mới văn hoá là có hạn. Đặc điểm trên đem lại hai hệ
quả trái chiều nhau:
Một mặt, nó tạo ra một hệ thống các giá trị truyền thống có tính chất bền vững, đặc
sắc thể hiện được “cốt cách” của dân tộc. Mặt khác, do duy trì quá lâu trong môi
trường, hoàn cảnh ít biến đổi (hoặc không có động lực biến đổi) mà một số giá trị
có phần trở nên lạc hậu, lỗi thời.
Tuy nhiên, thực trạng lạc hậu trên chưa gây ra một sự đổ vỡ tức thời. Đường
lối xây dựng và phát triển văn hóa trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa
được hình thành bắt đầu từ Đại hội III của Đảng (năm 1960) mà điểm cốt lõi là chủ
trương tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa đồng thời với cuộc cách
mạng về quan hệ sản xuất và cách mạng về khoa học, kỹ thuật, là chủ trương xây
dựng và phát triển nền văn hóa mới, con người mới. Mục tiêu là làm cho nhân dân
thoát nạn mù chữ và thói hư tật xấu do xã hội cũ để lại, có trình độ văn hóa ngày
càng cao, có hiểu biết cần thiết về khoa học, kỹ thuật tiên tiến để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa.
Đại hội IV và Đại hội V của Đảng tiếp tục đường lối phát triển văn hóa của Đại hội
III, xác định nền văn hóa mới là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính
chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân. Nhiệm vụ văn hóa quan trọng trong
giai đoạn này là tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước, phát triển mạnh khoa
học, văn hóa nghệ thuật, giáo dục tinh thần làm chủ tập thể, chống tư tưởng tư sản
và tàn dư tư tưởng phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, xóa bỏ ảnh hưởng
của tư tưởng, văn hóa thực dân mới ở miền Nam.
Tình cảnh trên làm cho văn hoá Việt Nam dưới thời Pháp thuộc không còn đơn
thuần là văn hoá phong kiến nông nghiệp tự cấp tự túc, mà là một nền văn hoá
thuộc địa nửa phong kiến. Mặt khác, nó khiến cho văn hoá Việt Nam có phần khập
khiễng, hỗn độn. Về mặt cấu trúc, cái cũ lỗi thời được cổ vũ kết hợp với cái mới
vốn nặng tính phản tiến bộ, ngoài ra việc kết hợp khoa học giữa truyền thống tốt
đẹp và cái hiện đại tiến bộ không được cổ xuý, đã làm văn hoá Việt Nam rơi vào
khủng hoảng về khuynh hướng, đường lối phát triển.
Dưới góc độ triết học, với những điều kiện xã hội như vừa phân tích, rõ nó đã tạo
ra những tình huống có vấn đề, xúc tác làm cơ sở nảy sinh các tư tưởng giải quyết
thực trạng đó. Vì vậy, thời kì này manh nha nhiều tư tưởng đòi giải phóng, đòi
canh tân nhằm vực dậy sức sống mới dân tộc, đưa ra con đường phát triển cho văn
hoá dân tộc. Đây là một hệ quả tất yếu.
THỰC TRẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1986
1. GIAI ĐOẠN 1943-1954
Thực trạng văn hóa Việt Nam giai đoạn trước năm 1986 căn bản được chia
làm 2 giai đoạn: 1943-1954 và 1955-1986, mỗi giai đoạn có những giá trị văn hóa,
đạo đức, lối sống, đặc điểm phong phú, riêng biệt .
Năm 1943, bản đề cương văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh, Tổng bí
thư Đảng soạn thảo mang đến nhiều nội dung, cải cách quan trọng, thể hiện quy
luật sự phủ định đối với tình hình văn hóa Việt Nam thời kì này. Bản đề cương
được đánh giá là văn kiện có giá trị vô cùng to lớn và ý nghĩa lịch sử sâu sắc, được
coi là tuyên ngôn của Đảng về một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng mà
chúng ta xây dựng .
Trong bối cảnh lịch sử thời kì đó, tình hình xã hội nước ta xét trong giai đoạn
1943-1854 rối loạn trên mọi lĩnh vực cả về văn hóa, kinh tế, giáo dục, chính trị,
quân sự. Thời kì Quang Trung trở về trước, văn hóa Việt Nam có tính chất nửa
phong kiến, nửa nô lệ, phụ thuộc vào văn hóa Trung Quốc. Sau đó, thời kì từ
Quang Trung cho đến khi đế quốc Pháp xâm chiếm: văn hóa phong kiến có xu
hướng tiểu tư sản. Và thời kì từ Pháp sang xâm chiếm đến 1954: nền văn hóa mang
tính nửa phong kiến, nửa tư bản và hoàn toàn có tính cách thuộc địa.
Bọn phát xít, thực dân xâm lăng luôn đề ra những thủ đoạn trói buộc và giết chết
văn hóa Việt Nam: Chúng đàn áp các nhà văn hóa cách mạng dân chủ chống phát
xít, ra tài liệu tổ chức các cơ quan và các đoàn thể văn hóa để bôi nhọ, mua chuộc
và hăm dọa các nhà văn hóa, tuyên truyền chủ nghĩa đầu hàng và chủ nghĩa ái quốc
mù quáng và hẹp hòi… Không chỉ vậy, về kinh tế chúng còn đề ra những tô cao
thuế nặng đối với nhân dân ta, bắt dân ta phải nhổ lúa để trồng đay và bóc lột sức
lao động của người dân một cách dã man, tàn bạo….
Trước tình hình đó, đề cương Văn hóa Việt Nam 1943 là ngọn đuốc soi đường và
định hướng tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt động văn hóa cho toàn Ðảng,
toàn dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do cho Tổ quốc, tiến lên xây dựng
chế độ mới, nền văn hóa mới. Ðề cương đã cổ vũ, lôi cuốn đông đảo những người
yêu nước, những người hoạt động văn hóa yêu nước vào Hội Văn hóa cứu quốc,
thành viên của Mặt trận Việt Minh. Ðảng ta khẳng định: "Những phương pháp cải
cách văn hóa đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau",
tức là chuẩn bị cho "cách mạng chính trị thành công". Ðề cương khẳng định: "cách
mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Ðảng Cộng sản Ðông Dương lãnh đạo".
Ba nguyên tắc, ba tính chất cơ bản của nền văn hóa Việt Nam lúc đó và các giai
đoạn tiếp theo là: "Dân tộc hóa", chống mọi ảnh hưởng của nô dịch và thuộc địa,
làm cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập, tự do và nhân văn. "Ðại chúng hóa"
là chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa phản lại lợi ích của đông đảo
quần chúng hoặc xa rời đông đảo quần chúng. Văn hóa là của quần chúng, quần
chúng nhân dân là người sáng tạo văn hóa. "Khoa học hóa" là chống lại tất cả
những cái lạc hậu, phản khoa học, phản tiến bộ, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, tiến về phía trước.
Trong cuộc sống luôn tồn tại phủ định, cái cũ mất đi và cái mới được sinh ra, cái
mới tiến bộ hơn và thay thế cho cái cũ. Theo quy luật phủ định đó, đầu năm 1946,
cuộc vận động thực hiện đời sống mới được diễn ra. Tiếp đó, tháng 3-1947, Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết tài liệu đời sống mới gồm 19 câu hỏi và trả lời, giải thích rất
dễ hiểu những vấn đề thiết thực trong chủ trương văn hóa quan trọng này. Bên
cạnh đó, đường lối văn hóa kháng chiến do Đảng và Nhà nước ta xây dựng được
thể hiện qua 3 tác phẩm: “Kháng chiến kiến quốc “,” nhiệm vụ văn hóa Việt Nam
trong công cuộc cứu nước và xây dựng hiện nay”. Đường lối này đã xác định mối
quan hệ giữa văn hóa và cách mạng giải phóng dân tộc, cổ động văn hóa cứu quốc,
xây dựng nền văn hóa dân chủ mới có tính dân tộc, khoa học đại chúng, tích cực
bài trừ nạn mù chữ, mở trường đại học và trung học, bài trừ, xóa bỏ những hủ tục
lạc hậu.
2. GIAI ĐOẠN 1955-1986
Việt Nam là một nước có bề dày lịch sử lâu đời. Trải qua hàng nghìn năm
dựng nước, giữ nước, Việt Nam đang dần hoàn thiện và cũng xây dựng riêng cho
mình những nét mang đậm bản chất văn hóa dân tộc. Có được tất cả như ngày hôm
nay một phần là do tinh thần đoàn kết, chủ nghĩa yêu nước của nhân dân và cùng
với sự nỗ lực không ngừng để phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nền văn hoá có
lịch sử lâu đời với bề dày truyền thống ấy lại bị thực dân Pháp phá vỡ. Do đó, vận
dụng quy luật phủ định của phủ định, ta không thể bảo vệ thụ động bản sắc mà chỉ
hoà nhập cọ sát và biến đổi bản sắc mới xuất hiện và chói chang. Quy luật phủ
định của phủ định giúp ta hiểu biết một cách đúng đắn về xu hướng của sự phát
triển. Quá trình phát triển của các sự vật và hiện tượng không diễn ra một cách
thẳng tắp. Ngược lại, quá trình đó diễn ra quanh co phức tạp đặc biệt là trong lĩnh
vực đời sống xã hội. Song sự phát triển là khuynh hướng chung, tất yếu của sự vận
động của sự vật. Cơ sở lý luận trên đây giúp ta có cái nhìn biện chứng về xu thế
thời đại.
Trong quá trình phát triển, có những sự hòa nhập mà không thể tránh khỏi sự hòa
tan, làm mất đi bản chất văn hóa dân tộc Việt Nam đậm đà. Một số tôn giáo lợi
dụng sự mê tín và lòng yêu nước vô điều kiện của người dân để truyền bá những tư
tưởng, đạo lý trái với phong tục tập quán lâu đời của người dân.
VD:
+ 1955 - 1964:
Nền văn học sáng tác nhiều xoay quanh hình ảnh người lao động, những đổi thay
của con người trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội với cảm hứng lãng mạn,
lạc quan.
Văn xuôi được mở rộng đề tài, bao quát nhiều vấn đề, nhiều phạm vi của hiện
thực đời sống. Đề tài kháng chiến chống Pháp (Sống mãi với thủ đô, Cao điểm
cuối cùng, Trước giờ nổ súng…). Đề tài hiện thực đời sống trước cách mạng tháng
Tám (Vợ nhặt, Mười năm, Vỡ bờ…). Đề tài công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
gắn với sự đổi đời của con người như Sông Đà, Mùa lạc, Cái sân gạch…
+ 1965 - 1975:
Đây là thời kì cao trào sáng tác viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ trong cả nước.
Chủ đề bao trùm chủ yếu tinh thần yêu nước, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách
mạng.
Những tác phẩm truyện, kí ra đời ngay trên tiền tuyến đầy máu lửa đã phản ánh
nhanh nhạy và kịp thời cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam anh dũng (Người
mẹ cầm súng, Rừng xà nu, Hòn đất…). Ở miền Bắc truyện, kí cũng phát triển (kí
chống Mĩ của Nguyễn Tuân, Dấu chân người lính, Bão biển…). Thơ trong thời kì
này cũng đạt nhiều thành tựu xuất sắc. Mở rộng và đào sâu chất liệu hiện thực,
tăng cường sức khái quát, chất suy tưởng, chính luận. Nổi lên trong thời kì này một
thế hệ nhà thơ trẻ chống Mĩ tài năng như Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Bằng
Việt,...) và hàng loạt các tác phẩm gây tiếng vang như tập thơ Ra trận, Máu và hoa,
Hoa ngày thường_Chim báo bão, Mặt đường khát vọng,...
Hoàn cảnh chiến tranh tuy có khốc liệt, gian khổ nhưng không thể nào dập tắt đi
được ý chí, khát vọng, hoài bão của những người thi, chiến sĩ. Tất cả Việt Nam đã
được viết lại thật chân thực và sâu sắc dưới góc nhìn, ngòi bút của họ. Qua đó có
thể thấy được rõ hơn khó khăn, gian khổ mà những người anh hùng ấy phải vượt
qua để có một Việt Nam “độc lập-tự do-hạnh phúc” như bây giờ.
II. Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào xây dựng văn hóa ở Việt
Nam trong thời kì đổi mới.
Sau khoảng thời gian khủng hoảng về đường lối phát triển văn hóa cũng như chính
trị, xã hội. Năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới lại
toàn bộ đất nước trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có văn hóa. Ở thời điểm đó,
chúng ta đã vận dụng tốt quy luật phủ định của phủ định vào xây dựng và phát
triển văn hóa đất nước. Đồng thời cũng vận dụng văn hóa vào xây dựng nền chính
trị cũng như phát triển kinh tế xã hội. Đó là thành công của ta mà không phải quốc
gia nào cũng có thể làm được lúc bấy giờ.
Năm 1986, kế thừa văn hóa giai đoạn trước, Đảng ta tiếp tục phát triển, mở rộng
văn hóa lên một tầm cao mới với quan điểm giản dị mà sâu sắc: văn hóa là nhu cầu
thiết yếu của đời sống con người, thể hiện trình độ phát triển chung của đất nước,
là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm làm giàu cho cuộc sống.
Từ thực tiễn, chúng ta nhận thức được nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đậm
đà bản sắc dân tộc. Có thể nói, không một quốc gia nào trên thế giới có một nền
văn hóa đặc sắc, đa dạng như Việt Nam. Với 54 dân tộc anh em cùng chung sống
trên một lãnh thổ với những nét bản sắc phong tục riêng nhưng nhìn chung vẫn có
sự hòa hợp, mang đậm nét truyền thống của dân tộc Việt Nam. Do đó, muốn văn
hóa Việt Nam mang đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta đã không ngừng kế thừa, bảo
vệ và giữ gìn những giá trị tốt đẹp thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt, đó là sự kế
thừa vận dụng tốt các quy luật của Đảng và Nhà nước
Không chỉ vậy, trong quá trình đỏiowis chúng ta luôn nhận thức văn hóa là mục
tiêu của phát triển: mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh,
dân chủ, công bằng văn minh chính là mục tiêu của văn hóa.Phải cho văn hóa đi
vào đời sống, vào nếp cảm, nếp nghĩ của mỗi người dân Việt Nam, luôn coi văn
hóa là một phần tất yếu, không thể tách rời cuộc sống. Như vậy, mới xây dựng
được một xã hội tiến bộ văn minh.
Trên cơ sở xây dựng nền văn hóa Việt Nam mang đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc,
Đảng và Nhà nước cũng đã khẳng định văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống
nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Có lẽ, chúng ta đều biết
Việt Nam là một nước có 54 dân tộc anh em cùng chung sống hòa thuận trên một
lãnh thổ. Mông dân tộc có một bản sắc riêng nhưng họ luôn tôn trọng nét văn hóa
của cộng đồng các dân tộc khác nhau. Không chỉ vậy, Đảng luôn khuyến khích tôn
trọng bảo vệ bản sắc, nét đẹp văn hóa của mỗi dân tộc. Chúng ta biết ứng xử hài
hòa, biết tôn trọng bản sắc văn hóa dân tộc mình cũng như dân tộc bạn, lấy nét đẹp
truyền thống văn hóa làm niềm tự hào dân tộc. Đó là sự thành công trong công
cuộc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Trong những năm đổi mới, chúng ta đã làm rõ văn hóa là sức mạnh nội sinh quan
trọng của sự phát triển, không chỉ là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội mà
phải là phát triển bền vững của đất nước, của dân tộc. Một quốc gia được gọi là
phát triển khi nó có sự kết hợp hài hòa trên 4 lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội và
văn hóa. Cần coi trọng ngang nhau trên ca 4 lĩnh vực, không nên xem nhẹ bất cứ
một lĩnh vực nào cả. Như lời căn dặn char Bác Hồ: “những nhận thức đi vào chiều
sâu văn hóa”. Để tạo nên sự phát triển bền vững đó trước hết phải xây dựng sự gắn
kết giữa văn hóa và con người. Đảng ta luôn khẳng định: “phát triển văn hóa vì sự
hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng con người là nhiệm vụ cốt lõi trọng tâm,
xuyên suốt mọi hoạt động văn hóa”.
Sự vận dụng tốt quy luật phủ định của phủ định trong xây dựng nền văn hóa Việt
Nam thời kỳ đổi mới của Đảng và Nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu đáng
khích lệ. Văn hóa phát triển đa dạng phong phú, xuất hiện nhiều loại hình loại thể
hoạt động văn hóa mới, có khả năng chiếm lĩnh các mặt khác nhau của đời sống xã
hội. Chúng ta đã xây dựng được môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh phong phú
gắn với đời sống văn hóa cơ sở, tại các sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật đỉnh
cao của dân tộc thời kỳ đổi mới; những công trình văn hóa lớn, tiêu biểu đánh dấu
bước phát triển của đất nước và quy tụ tất cả các hoạt động văn hóa vào nhiệm vụ
cốt lõi là nuôi dưỡng xây đắp con người Việt Nam, kế tục xứng đáng truyền thống
và những giá trị tốt đẹp của dân tộc.
Như vậy, với lối ứng xử thông minh, khéo léo, mềm dẻo qua mỗi chặng đường
thử thách, văn hóa dân tộc lại trưởng thành và có bước phát triển mới trên cơ sở kế
thừa, bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Sự vận dụng đúng
phương pháp, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước đã làm cho văn hóa
Việt Nam thời kỳ đổi mới bước lên một tầm cao mới ngày càng đa dạng, nhiều
màu sắc theo kịp sự phát triển của nhân loại đồng thời vẫn giữ được những giá trị
tốt đẹp mang đậm đà bản sắc dân tộc.
III. Những thành tựu và hạn chế của quá trình vận dụng quy luật phủ định
của phủ định trong xây dựng văn hóa ở Việt Nam trong thời kì hội nhập
1. Thành tựu
Đối với nước ta những năm vừa qua, trong quá trình mở cửa giao lưu với thế
giới, chúng ta không chỉ tiếp thu những giá trị hiện đại, tiên tiến mà còn bổ sung,
điều chỉnh một số nét của các giá trị truyền thống cho phù hợp với thời đại, thẩm
thấu và làm đa dạng thêm bản sắc của dân tộc. Chúng ta ngày càng ý thức rõ hơn
về quá trình hội nhập. Trong quá trình thực tiễn phát triển đất nước, chúng đã được
những thành quả trong việc xây dựng và phát huy bản sắc văn hóa đó là:
Quá trình hội nhập văn hóa đã làm cho các quốc gia đang ngày càng xích lại gần
nhau hơn bởi những giá trị truyền thống chung, đồng thời tạo điều kiện cho mỗi
dân tộc phát huy nét độc đáo, đặc trưng của mình. Quá trình này cũng sẽ tạo điều
kiện cho thế giới luôn tồn tại trong sự thống nhất chung của tất cả những cái riêng,
cái đặc thù; cái chung không bài trừ cái riêng mà cùng với cái riêng làm tiền đề cho
nhau để cùng thúc đẩy nhau phát triển và tiến bộ. Vận dụng quy luật phủ định của
phủ định, ta không thể bảo vệ thụ động bản sắc mà chỉ hòa nhập cọ sát và biến đổi
bản sắc mới xuất hiện và chói sáng. Từ Truyện Kiều, thơ Nôm hay tranh khắc gỗ
dân gian, tuồng chèo, nhã nhạc Cung Đình Huế, Quan Họ hay Ca trù... chứa đựng
bản sắc dân tộc vì từng là sự giao thoa, cọ sát, khai thác lẫn nhau của các dòng văn
nghệ, văn hóa khác nhau. Nếu có những nghiên cứu nhận dạng được những nét
chung nào đó của các tác phẩm, tác giả đó thì ta có thể gọi tên "bản sắc dân tộc" ta.
Ngoài ra, công cuộc bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá của dân tộc đã đạt
được nhiều tiến bộ. Nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể được bảo vệ và phát
huy giá trị, các nghệ nhân được tôn vinh, công tác xã hội hoá được tăng cường và
thu hút được đông đảo các tổ chức và cá nhân tham gia bảo vệ và phát huy giá trị
di sản văn hoá. Cả nước hiện có 127 bảo tàng; có hơn 4 vạn di tích đã được kiểm
kê; 11 di sản được UNESCO vinh danh là di sản thế giới (trong đó có 6 di sản văn
hoá vật thể và 5 di sản văn hoá phi vật thể).
Giữ gìn bản sắc không co vào cố thủ trong tính riêng biệt, khước từ giao lưu văn
hoá. Trên thế giới này không có một nền văn hoá nào có tính thuần nhất bản địa.
Sự thay đổi giữa các nền văn hoá là do trao đổi. Khi trao đổi ngừng thì cả hai địa
bàn đều chững lại trong phát triển. Đây là phép biện chứng của nhân tố ngoại sinh
trong sự phát triển nội sinh. Tuy nhiên sự hội nhập các giá trị văn hóa khác với sự
tha hóa về văn hóa cũng như sự lai giống tốt khác với lai ghép vào cơ thể những
gen lạ, gây nên sự biến dị, thậm chí những quái thai.
Ta chối bỏ những cái gì đó, ta tiếp thu và sản sinh ra những cái gì đó mới hơn, phù
hợp hơn, có sức nâng cao ta lên. Cuộc hội nhập thời nay mạnh mẽ hơn, toàn diện
và toàn cục, sức chi phối, sức tác động của nó không thể so sánh với trước được.
Song ta sở hữu cả một vốn liếng gen, vốn liếng bản sắc của ta vô cùng sâu lắng, vô
cùng dai bền. Ví dụ, mình bắt chước ăn cá sống với mù tạt theo kiểu Nhật, nhưng
thêm vào đấy là rau diếp cá, lá cải xanh, củ cải sống. Mình hát nhạc pop, nhạc
rock, song giai điệu và cách thể hiện thì chẳng giống ai. Một thành quả vững chắc
nữa trong giữ gìn bản sắc là chúng ta không sợ toàn cầu hóa tấn công mà còn tấn
công ngược lại nó. Xin nêu ví dụ về thức ăn. Thức ăn là yếu tố mạnh nhất trong
bản sắc, cho nên nó phát triển với toàn cầu hóa. Su-si của Nhật ngày nay toàn cầu
hóa thực đơn khắp năm châu bốn biển. Mà đơn giản quá: chỉ chút cơm bọc rau câu.
Thế giới nhà giàu càng chán mỡ càng chuộng su-si. Nắm yếu điểm đó, su-si tiến
công trên thị trường chuộng thức ăn nhẹ và trở thành một món ăn vô cùng yêu
thích.
Lĩnh vực văn hoá các dân tộc thiểu số, văn học nghệ thuật, giao lưu và hợp tác văn
hóa quốc tế, xây dựng thể chế văn hóa, các lĩnh vực gắn bó mật thiết với văn hóa
như giáo dục, khoa học, công nghệ, thông tin đại chúng... đều đạt được những
thành tựu đáng kể, góp phần tích cực gìn giữ bản sắc văn hóa, phát huy những giá
trị tốt đẹp trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc, dần loại bỏ những sự lỗi thời, lạc
hậu.
2. Những vấn đề đặt ra (hạn chế) trong quá trình xây dựng văn hóa Việt Nam
trong thời kì hội nhập.
Sự chuyển biến cơ bản và bước phát triển mạnh mẽ trong xây dựng, nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc còn chưa đồng bộ với sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Sự phát triển lộn xộn, không định hướng của văn hóa sẽ trở thành yếu tố đảo ngược
sự phát triển của xã hội, làm cho đạo đức, lối sống ngày càng suy thoái, biến chất,
con người ngày càng mất đi nhân tính. Sự du nhập ồ ạt, thiếu chọn lọc văn hóa
ngoại lai, sẽ là cơ hội tốt cho nhiều loại văn hóa đồi trụy, phản động, phi nhân tính
tràn vào. Dần dần, ý thức về chủ quyền dân tộc bị xói mòn, lu mờ. Thay vào đó là
lối sống hướng ngoại, xem nhẹ các giá trị truyền thống, xem nhẹ văn hóa dân tộc.
Đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn
hại không nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân.
Nhiệm vụ, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa chưa tạo được chuyển biến rõ rệt. Môi trường văn hóa còn bị ô nhiễm bởi các
tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các sản phẩm và dịch vụ văn hóa mê tín dị đoan, độc
hại, thấp kém, lai căng…
Những giá trị đặc trưng của nền văn hóa cũ gần như bao giờ cũng có những biến
thể có thể có của chúng, dưới tác động của sự hội nhập đã có những mâu thuẫn hết
sức đáng kể. Ví dụ, trong lĩnh vực tín ngưỡng, khi chuyển từ những hình thức tín
ngưỡng dân gian sang những hình thức tín ngưỡng tôn giáo, đã có những “đụng
đầu”, những xung đột gay gắt: Kitô giáo, khi du nhập vào Việt Nam đã không chấp
nhận việc có bàn thờ tổ tiên trong các gia đình tín đồ, mà việc thờ cúng tổ tiên là đi
ngược lại giáo lý Kitô giáo.
Ngôn ngữ hiện đang bị xâm hại bởi lối du nhập vô nguyên tắc tiếng nước ngoài, sẽ
tiếp tục bị tha hóa, trở nên lai căng, kệch cỡm. Tính giáo dục của văn hóa bị coi
nhẹ, coi trọng quá mức tính giải trí, dần dần, văn hóa không còn đóng vai trò quan
trọng trong việc giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, ngược lại cổ súy cho
lối sống thác loạn, vô đạo đức, thiếu nhân tính. Văn hóa dân tộc bị lu mờ, pha tạp.
Các giá trị truyền thống dần dần bị lãng quên. Hoạt động văn hóa sẽ sôi nổi hơn,
phong phú hơn nhưng đó là sự phát triển xô bồ, không định hướng, khó tạo ra
những giá trị văn hóa đích thực.
Cùng với đó, những lĩnh vực văn hóa thông tin cũng có khả năng phát triển mạnh.
Nhiều tờ báo mạng giả danh trang thông tin xuất hiện. Nói cách khác, đó là các
trang mạng được cấp giấy phép là trang thông tin những hoạt động như báo chí
chính thống. Các lễ hội quy mô lớn: trong đó những lễ hội có tính quốc gia do Nhà
nước tổ chức sẽ ổn định và có bước phát triển, nhưng các lễ hội do các tổ chức xã
hội thực hiện nhằm mục đích thu lợi nhuận hoặc giải trí cùng phát triển mạnh,
trong đó có những lễ hội du nhập từ nước ngoài. Các di tích, danh lam thắng cảnh
được khai thác tối đa nhằm phục vụ du lịch và các hoạt động mê tín vụ lợi. Chính
vì vậy, di tích tiếp tục bị xâm hại, làm biến dạng và bị lợi dụng trở thành công cụ
phục vụ những lợi ích cục bộ, lợi ích cá nhân.
Bên cạnh đó, những lĩnh vực văn hóa thông tin có khả năng bị hạn chế phát triển
là: Xuất bản, in, phát hành, thư viện, báo in - nói chung là các loại hình phục vụ
việc đọc trên giấy thông thường - ngày càng gặp khó khăn, sẽ phải giảm về số
lượng. Các loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống, dân tộc khó có được chỗ
đứng xứng đáng trong cuộc sống- từ cuộc sống thường ngày tới việc xuất hiện trên
các chương trình truyền hình, các chương trình biểu diễn. Nhiều loại hình văn hóa
truyền thống sẽ bị thui chột hoặc biến dạng.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 12 cũng cũng nêu rõ các thành tựu đạt được trong
những năm vừa qua:
“Văn hóa đã được Đảng, Nhà nước quan tâm đúng mức trong các chính sách kinh
tế - xã hội; quan hệ biện chứng giữa văn hóa với con người và những đặc trưng của
văn hóa, đặc tính của con người Việt Nam được xác định đầy đủ hơn; vai trò lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của các đoàn thể chính trị - xã
hội, của nhân dân, đặc biệt của đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp xây dựng, phát
triển văn hóa được đề cao. Hệ thống thể chế, thiết chế văn hóa từng bước được
tăng cường. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, từng vùng, miền được
kế thừa và có bước khởi sắc, nhất là trong điều kiện hội nhập, giao lưu văn hóa với
thế giới. Nhiều di sản văn hóa được bảo tồn, tôn tạo; xã hội hóa hoạt động văn hóa
ngày càng mở rộng. Văn học, nghệ thuật có bước phát triển mới; nhiều bộ môn
nghệ thuật truyền thống được quan tâm đầu tư gìn giữ; nhiều tác phẩm về đề tài
cách mạng và kháng chiến, về công cuộc đổi mới có chất lượng tốt. Truyền thông
đại chúng phát triển nhanh cả về loại hình, quy mô, lực lượng, phương tiện và có
tầm ảnh hưởng sâu rộng đối với đời sống xã hội. Phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” đã khơi dậy được nhiều giá trị nhân văn trong cộng
đồng; giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều sắc thái mới, v.v. Bởi vậy,
những năm qua, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân từng bước được cải
thiện, “bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với các phẩm chất về
trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn
lên”
Tuy nhiên, so với các lĩnh vực khác, việc đầu tư phát triển và thành quả trong lĩnh
vực văn hóa chưa tương xứng, còn dàn trải. Điều đó đã làm cho “đời sống văn hóa,
tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa
giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm
được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh,
ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có
chiều hướng gia tăng. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa đạt hiệu quả
chưa cao. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây
lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền
thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích”. Đáng chú ý là, “hệ
thống thiết chế văn hóa, cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu
và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Tình trạng nhập
khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác
động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ”.
IV. Phương hướng và Giải pháp
1. Phương hướng
Để tiếp tục phát triển văn hóa cần kiên trì và kiên quyết hiện thực hóa quan
điểm được Đảng ta khẳng định: văn hóa là một nhân tố, một trụ cột tạo nên sự phát
triển bền vững của dân tộc, của đất nước, vì vậy phải coi trọng văn hóa ngang với
kinh tế, chính trị và xã hội. Cần xác định vai trò của văn hóa trong triển khai chiến
lược, kế hoạch, quy hoạch phát triển bền vững của từng địa phương, từng vùng
miền và cả nước. Cần một tầm nhìn mới, một bản lĩnh cao, coi văn hóa là một đột
phá chiến lược cùng ba đột phá trên lĩnh vực kinh tế, nhân lực, cơ sở hạ tầng, tạo ra
sức mạnh tổng hợp để phát triển. Cần đưa văn hóa vào kinh tế, tạo ra trong các sản
phẩm kinh tế, kinh doanh, dịch vụ có tỷ trọng ngày càng cao hàm lượng chất xám,
hàm lượng trí tuệ - văn hóa. Nói cách khác, đột phá về kinh tế, xét đến cùng là bắt
đầu từ văn hóa với ý nghĩa sâu sắc, rộng lớn (bao gồm giáo dục, đào tạo, khoa học,
công nghệ, công nghiệp văn hóa, sáng tạo trí tuệ của con người,…).
Thực tiễn xây dựng văn hóa 30 năm qua cho thấy việc xác định bốn lĩnh vực quan
trọng sẽ tạo ra diện mạo và chất lượng mới của văn hóa đất nước là: xây dựng môi
trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú gắn với đời sống văn hóa cơ sở; tạo
các sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật đỉnh cao của dân tộc ở thời kỳ hiện đại;
những công trình văn hóa lớn, tiêu biểu đánh dấu bước phát triển của đất nước, và
quy tụ tất cả các hoạt động văn hóa vào nhiệm vụ cốt tử là nuôi dưỡng, xây đắp
con người Việt Nam, kế tục xứng đáng truyền thống và những giá trị tốt đẹp của
dân tộc.
(Nguồn:
/>xay_dung_c111n_nguoi_Viet_Nam.htm)
2. Giải pháp
Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và
đòi hỏi sinh tồn – Hồ Chí Minh. Trước những yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp đổi
mới, đòi hỏi phải quan tâm sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hoá nhằm xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là
yêu cầu khách quan. Để làm tốt những vấn đề đó đòi hỏi chúng ta cần triển khai
thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của văn hoá đối với sự phát triển
những giá trị xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh ngày nay, cần có sự thống nhất cao về nhận thức trong toàn
bộ hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội về tầm quan trọng của văn hoá cả về lĩnh
vực lý luận, thực tiễn và công tác chỉ đạo xây dựng phát triển văn hoá. Định hướng
xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực văn hoá trở thành một nhu cầu vô cùng bức xúc,
nhằm phòng ngừa nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Xét trên cả khía cạnh
nội dung và hình thức, phát triển văn hoá chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong
quá trình đổi mới đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mà mỗi tổ chức Đảng,
toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội cần nhận thức rõ và thực hiện nghiêm túc.
Do vậy, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền trước tiên là trong các cấp
uỷ Đảng và toàn bộ xã hội nhận thức đúng đắn, đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hoá. Đặc biệt chú trọng tuyên truyền, giáo dục tới nhân dân vùng sâu, vùng xa
sao cho người đi tuyên truyền phải thuyết phục, phù hợp với đối tượng được tuyên
truyền. Phải gắn liền với bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, rèn luyện đạo đức và lối
sống cho mọi đối tượng trong cá nhân và tập thể. Cần đảm bảo tính khách quan,
chân thực, tính kịp thời và thiết thực trong nội dung tuyên truyền, vận động. Đẩy
mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học để tìm ra những giải pháp gắn lý luận với
thực tiễn, làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của xây dựng đời sống văn hoá. Từ đó
có thể tạo ra những bước phát triển có tính đột phá trong lĩnh vực tuyên truyền, vận
động xây dựng phát triển văn hoá.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò quản lý của Nhà
nước, đoàn thể nhân dân đồng thời đẩy mạnh công tác xã hội hoá trong xây dựng
và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề bảo đảm về chính trị, tư tưởng để xây dựng
nền văn hoá trên nền tảng của hệ tư tưởng giai cấp công nhân, đi đúng quỹ đạo và
mục tiêu xác định. Có phát huy vai trò của Nhà nước mới tập trung được nguồn
đầu tư đúng hướng đi liền với tăng cường quản lý, bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân, thực hiện tốt xã hội
hoá công tác xã hội, nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của các đoàn thể, cá nhân
và của toàn xã hội vào việc đầu tư, lưu giữ và củng cố các giá trị văn hoá vào việc
giải quyết các vấn đề xã hội.
Xã hội hoá xây dựng, phát triển văn hoá trước hết ở việc huy động các
nguồn lực đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá. Cần có những
chính sách mang lại quyền lợi thiết thân cho chính người dân để đem tài dân, sức
dân làm lợi cho dân. Xã hội hoá còn thể hiện ở khía cạnh tổ chức thực thi các vấn
đề văn hoá với sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ, đoàn thể và mỗi một cá
nhân. Đó chính là xu hướng dân chủ hoá và xã hội hoá việc xây dựng và phát triển
văn hoá.
Ba là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với xây dựng
và phát triển văn hoá, xã hội.
Cần xác định mỗi chính sách kinh tế đều nhằm thực hiện mục tiêu văn hoá.
Đảng, Nhà nước phải lãnh đạo tìm giải pháp tạo động lực phát triển kinh tế từ
trong cội nguồn và sức mạnh văn hoá, không chạy theo mục tiêu kinh tế đơn thuần
với bất cứ giá nào. Mặt khác, mỗi chính sách phát triển văn hoá của Nhà nước đều
phải dựa trên cơ sở và khả năng kinh tế nhất định, phù hợp với thực lực kinh tế của
đất nước.
Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế,
nếu không có quan điểm phát triển văn hoá, xã hội đúng đắn, sẽ có nguy cơ đẩy xã
hội đến phân cực thái quá cùng nhiều tệ nạn xã hội sẽ xuất hiện, giá trị truyền
thống bị mai một, văn hoá nghệ thuật chạy theo thị hiếu thấp hèn. Do vậy, Nhà
nước cần quan tâm đề ra cách tổ chức, thực thi có hiệu quả đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật để giải quyết đúng đắn, hài hoà quan hệ giữa phát triển kinh
tế với xây dựng phát triển văn hoá.
Bốn là, xây dựng văn hoá phải bắt đầu với tư cách là chủ thể của văn hoá.
Con người chính là chủ thể chân chính sáng tạo ra những giá trị văn hoá, đồng thời
là sản phẩm của môi trường văn hoá. Trước những tác động đa chiều của nền kinh
tế hội nhập, văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách,
tham gia tích cực vào việc phát triển nguồn nhân lực. Vì vậy, phải ra sức đẩy mạnh
các phong trào “người tốt, việc tốt”, “xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn
hoá”,v.v.. làm cho văn hoá ngày càng thấm sâu vào đời sống nhân dân, tạo điều
kiện cho những sáng tạo văn hoá ngày càng phát triển, thúc đẩy đất nước ngày một
lớn mạnh.
Năm là, giữ vững và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình giao
lưu hội nhập quốc tế.
Trước xu thế toàn cầu hoá đang mở ra thời cơ lớn để chắt lọc những tinh hoa
văn hoá, văn minh nhân loại, làm phong phú cho văn hoá dân tộc, rút ngắn khoảng
cách giữa chúng ta với thế giới. Nhưng bên cạnh đó, nếu không có một bản lĩnh
vững vàng, một chiến lược phát triển văn hoá đúng đắn thì việc mở cửa giao lưu sẽ
dẫn đến nguy cơ sùng ngoại, đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc, văn hoá chỉ còn là
bản sao, mờ nhạt của thứ văn hoá đi vay mượn, ngoại lai.
Do vậy, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại phải là hai mặt của một quá trình. Bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc phải gắn liền
với lãnh đạo việc nâng cao nhận thức, tư tưởng, hiểu biết về văn hoá, khoa học
hiện đại. Tiếp thu văn hoá nhân loại một cách có chọn lọc sao cho phù hợp với văn
hoá, con người và điều kiện đất nước. Đặc biệt, cần có giải pháp ngăn chặn việc lợi
dụng văn hoá đại chúng, văn hoá nghe nhìn của phương Tây, hòng làm cho thế hệ
trẻ ngày càng xa rời cốt cách dân tộc, để tự diễn biến về văn hoá đi đến tự diễn
biến về chính trị. Giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống, tạo cơ sở vững
chắc để tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại đang là yêu cầu khách quan trong quá
trình xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam.
Phần Kết Luận
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu
hướng phát triển của sự vật. Quy luật này đã thực sự là một trong những quy luật
có tác dụng “khai mở” khuynh hướng phát triển mới cho văn hoá Việt Nam. Nó
góp phần chấm dứt tình trạng khủng hoảng đường lối phát triển văn hoá . quá trình
phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo đường thẳng mà diễn
ra quanh co, phức tạp trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao
giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước dân tộc Việt Nam, hay bất cứ một dân tộc nào
khác không thể nằm ngoài quỹ đạo đó. Hội nhập là con đường tất yếu, là lẽ sống
còn của cả dân tộc. Đồng thời trong quá trình hội nhập, chúng ta sẽ thấy được
những hạn chế của những truyền thống có khả năng cản trở sự tiến bộ để tìm cách
khắc phục
Ở một khía cạnh khác, với vai trò lãnh đạo văn hoá, Đảng ta cũng đã chứng tỏ
được khả năng tuyệt vời của mình nhờ biết vận dụng khoa học những nội dung của
học thuyết Mac lenin,, trong đó có nội dung quy luật phủ định biện chứng một cách
linh hoạt và biện chứng phù hợp với từng hoàn cảnh. Đến nay, dù văn hoá đã đạt
được những thành tựu to lớn, xứng đáng vai trò “soi đường cho quốc dân đi”,
nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn thách thức. Do đó, muốn tiếp tục con
đường đã chọn và hoàn tất mục tiêu xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, tạo tiền đề cho văn hoá phát triển lên tầm cao mới, cũng như muốn đỡ
bớt mò mẫm, sai lầm, thiết nghĩ Đảng phải thường xuyên tu dưỡng chủ nghĩa Mác
– Lênin, bám sát thực tiễn để quá trình vận dụng không bị rơi vào siêu hình và đem
lại những thành quả quan trọng.