Sự lựa chọn tất yếu
(ĐCSVN) - Nhân dân cả nước ta đang vui mừng kỷ niệm 123 năm ngày sinh của Chủ tịch
Hồ Chí Minh kính yêu với nhiều việc làm thiết thực. Trong đó, kiên định, xây dựng và hiến định
một bản hiến pháp theo con đường cách mạng vô sản mà Người đã vạch ra cho toàn thể dân tộc
Việt Nam là sự lựa chọn tất yếu.
1. Con đường đến với cách mạng vô sản
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, dân ta bị hai tầng áp bức nặng nề bởi thực
dân và phong kiến, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã sớm bộc lộ tinh thần yêu nước,
thương dân, nuôi chí cứu giúp nhân dân thoát cảnh lầm than. Dẫu quý trọng khí tiết, khâm phục
và đánh giá cao về lòng yêu nước, sự cống hiến của các bậc tiền bối, nhưng với dự cảm chính trị
thiên tài, Nguyễn Tất Thành đã cảm nhận về những hạn chế, bế tắc về mục tiêu, phương pháp từ
những con đường cứu nước của các bậc tiền bối, mà quyết chí ra đi tìm con đường cứu nước
mới, phù hợp cho dân tộc Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, “Tự do”, “Bình đẳng”, “Bác ái”, những giá trị của nền
văn minh phương Tây mà thực dân Pháp đang rao giảng trên thuộc địa An Nam thực hư ra sao?
Đó là câu hỏi lớn và là những hướng đích đầu tiên mà Nguyễn Tất Thành muốn tìm hiểu thực
chất ngay trên xứ sở của họ, những mong đạt được những khám phá mới trong tư duy chính trị
của mình về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Tất
Thành bôn ba qua nhiều quốc gia, châu lục, vừa làm vừa học và tham gia hoạt động yêu nước ở
nước ngoài. Với những trải nghiệm, quan sát, so sánh, nhận xét, đi sâu tìm hiểu thực chất nền
văn minh phương Tây và cảnh nghèo túng của các dân tộc thuộc địa, lệ thuộc, để từ đó Người
rút ra kết luận: Ở đâu trên thế giới cũng có kẻ giàu, người nghèo, cũng có kẻ bóc lột và người bị
bóc lột. “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô
sản”[1] .
Năm 1918, Tổng thống nước Mỹ Uynxơn đưa ra “Chương trình 14 điểm” - chính sách
thiết lập sự thống trị của Mỹ trên thế giới, chống lại nước Nga Xô-viết, nhưng được che đậy
bằng những lời lẽ mỹ miều: “dân chủ”, “quyền tự quyết dân tộc”. Sau thắng trận trong thế chiến
thứ hai, các nước Đồng minh tổ chức Hội nghị Véc-xây (6-1919), Nguyễn Ái Quốc đã cùng
những người yêu nước viết và gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị, kêu gọi
các nước phương Tây giúp đỡ sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, nhưng chỉ
nhận được sự im lặng và một cảm giác thất vọng… Chính điều đó, sau này đã giúp Nguyễn Ái
Quốc sớm nhận rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm
lớn”[2]; để rồi đi đến kết luận: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân
tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách
mạng thế giới”[3].
Như một quá trình lịch sử tự nhiên, cái gì đến tất yếu sẽ phải đến. Một ngày tháng 7/1920,
đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.
Lênin đăng trên báo Nhân đạo (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã bị cuốn hút vì tính chất cách mạng
triệt để của nó, với những giải đáp thỏa đáng về con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa,
điều mà bấy lâu nay Nguyễn Ái Quốc đang ra sức tìm kiếm. Luận cương của V.I Lênin như
luồng ánh sáng khơi tỏ trí tuệ và tâm hồn người yêu nước và đem đến một nhãn quan, tư duy
chính trị mới cho Nguyễn Ái Quốc. Từ đây, Người quyết chí đi theo con đường cách mạng mà
V.I Lênin đã vạch ra; đánh một dấu mốc chuyển biến lập trường từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ
nghĩa cộng sản.
Nhận thức được mối quan hệ giữa sự nghiệp đấu tranh của các dân tộc thuộc địa với cách
mạng vô sản, phát biểu tại Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản (7/1924) tổ chức tại Liên bang
Xô-viết, Nguyễn Ái Quốc đã luận giải: “Cách mạng ở phương Tây muốn thắng lợi thì nó phải
liên hệ chặt chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và các
nước bị nô dịch và vấn đề dân tộc, như Lênin đã dạy chúng ta, chỉ là một bộ phận chung về cách
mạng vô sản”[4] . Sau này, trong Bản án chế độ thực dân Pháp, khi nói về Quốc tế cộng sản và
tinh thần đoàn kết cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa hướng theo cách mạng vô sản,
Người đã viết: “Đó là lần đầu tiên trong lịch sử, giai cấp vô sản ở các nước xâm lược và giai cấp
vô sản ở các nước bị xâm lược đã nắm tay nhau trong tình anh em và cùng nhau tìm cách đấu
tranh cho có hiệu quả chống chủ nghĩa tư bản là kẻ thù chung của họ”[5].
Nhận định ý nghĩa và vai trò của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 đối với thế giới,
Người khẳng định: Chính Cách mạng Tháng Mười Nga đã “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ
trước đến nay vẫn tách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên
minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng
vô sản”[6]…
Suốt một chặng đường dài tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, trải qua
những tìm tòi, thử nghiệm trên xứ sở của những nền văn minh phương Tây; đắm mình trong các
hoạt động của phong trào yêu nước, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đến với quê
hương của Cách mạng tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra, cách mạng vô sản là con
đường đúng đắn nhất để giải phóng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.
2. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”[7]
Đây là một luận điểm lớn, nổi bật trong hệ thống luận điểm cách mạng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Từ những trải nghiệm đời sống chính trị, xã hội và quá trình nghiên cứu lịch sử các
cuộc cách mạng điển hình của phương Tây và phương Đông, để rồi cho đến năm 1927, khi viết
cuốn" Đường cách mệnh", Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra những giá trị tích cực của cách mạng Mỹ
và cách mạng Pháp, nhưng cũng rút ra những nhận xét hết sức xác đáng rằng: Tư bản nó dùng
chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh đổ phong kiến. Khi dân đánh đổ
phong kiến rồi, thì nó lại thay phong kiến mà áp bức dân.
Bằng sự phân tích trên cơ sở cứ liệu lịch sử chính xác, Nguyễn Ái Quốc đã cho nhân dân
Việt Nam cũng như nhân dân nhiều nước thuộc địa thấy rằng, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
không thể đi theo con đường cách mạng tư sản, bởi vì: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh
Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ
thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà
nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi áp bức. Cách
mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”[8] …
Nghiên cứu những giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga đối với cách mạng của nhân
dân An Nam, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là thành
công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng
thật, không có tự do, bình đẳng giả dối như đế quốc Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách
mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp
bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”[9]
. Cũng từ bài học của Cách mạng Tháng Mười Nga và phân tích một cách khách quan, khoa học
những thất bại và thành công của Quốc tế I, II và Quốc tế III, mà Nguyễn Ái Quốc đã đi đến kết
luận: “Xem những việc ấy thì đủ biết rằng, An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải
nhờ Đệ tam quốc tế”[10] …
Sau khi xác định chính xác con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trở về nước lãnh đạo
toàn thể dân tộc ta tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện đúng ước nguyện khi ra đi
tìm đường cứu nước. Để định hướng sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta đi
đúng quỹ đạo của cách mạng vô sản, Người đã luôn thực hiện đúng những gì mà mình tích lũy
được trên hành trình tìm đường cứu nước. Đó là: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta ta rằng,
muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền,
phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và
Lênin”[11] . Cách mệnh, “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn
vững phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng theo chủ nghĩa ấy”.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam, từ năm 1930 đến những năm 60
thế kỷ XX, khi trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh luôn giữ vững tiến trình cách mạng theo hướng: “làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Người ra sức tuyên
truyền, giáo dục và thành lập các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội trên nền tảng tư tưởng và
học thuyết vô sản; lãnh đạo, vận động và tổ chức đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân
sự, nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, trong đó, sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại
và quyết định nhất là thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với Đảng, Người lãnh đạo
toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; dẫn dắt toàn thể dân tộc vượt qua hai cuộc trường chinh kháng
chiến chống thực dân và đế quốc xâm lược, hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chủ tịch luôn xác định, cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đặt cách mạng Việt Nam trong dòng chảy thời đại
cách mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội, giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp vô sản,
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại…; làm cho thế và lực của cách mạng Việt Nam ngày càng phát triển lớn mạnh
qua mỗi thời kỳ lịch sử. Người đã làm cho những mục tiêu, lý tưởng độc lập, tự do của nhân dân
được hiện thực hóa, những ước vọng về một nhà nước dân chủ, của dân, do dân và vì dân trở
thành hiện thực; những nguyên tắc về quyền con người, quyền tự quyết dân tộc, quyền bình
đẳng giữa các dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo được xác lập và bảo đảm. Người đã cùng toàn dân
hiến định và bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thiết kế, tổ chức
và vận hành bộ máy nhà nước nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân và hướng đến thực hiện
mục tiêu “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân
cử ra”, “quyền hành lực lượng đều ở nơi dân”…
Cũng trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi mỗi lần có dịp nhìn lại chặng đường cách
mạng của dân tộc Việt Nam, đặc biệt, năm 1959, trong bài viết "Con đường cứu nước và giải
phóng dân tộc trong thời đại ngày nay", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Dưới ngọn cờ vĩ đại
của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Lao động Việt Nam luôn luôn hết lòng trung thành phục vụ
nhân dân, phục vụ những người lao động…, kiên quyết lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn thành
nhiệm vụ cao cả - thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội”[12] . Ngay cả những ngày
tháng trước lúc ra đi (7/1969), khi trả lời phỏng vấn phóng viên Báo L’Humanité (Pháp), Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ: “Lúc đầu, chính là do chủ nghĩa yêu nước mà tôi đi theo Lênin.
Rồi, từng bước một, tôi đi đến kết luận là chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới”; “Nhân dân Việt
Nam, về phần mình, đang tiến lên chủ nghĩa xã hội, dưới ngọn cờ vinh quang của chủ nghĩa
Mác - Lênin”[13] .
3. Tiếp tục con đường cách mạng vô sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đi theo ngọn cờ cách mạng vô sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trải qua bao gian khổ, mất
mát hy sinh, bao thế hệ người Việt Nam đã “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “Xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước”, đem những giọt máu đào và cả cuộc đời của mình hiến dâng cho Tổ quốc,
ươm mầm cho mùa xuân đất nước - Mùa xuân đổi mới. Suốt chặng đường lịch sử vẻ vang đó,
nhân dân Việt Nam luôn khắc sâu lời Người căn dặn: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, và
bằng chính thực tiễn cách mạng của mình để đúc kết nên những chân lý của dân tộc và thời đại:
“Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
Hiện nay, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam đang bị chống phá
quyết liệt từ các thế lực phản động, thù địch và cơ hội về chính trị. Dưới nhiều hình thức, biện
pháp khác nhau, chúng ra sức xuyên tạc, phủ nhận con đường, hướng đích đi lên chủ nghĩa xã
hội của nhân dân ta. Chúng không chỉ phủ nhận học thuyết khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, mà còn phủ nhận cả tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng
ta và sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta.
Dẫu còn muôn vàn khó khăn, nhưng bằng những thành tựu của hơn 25 năm đổi mới, nhân
dân ta vẫn tin tưởng vững chắc rằng, nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhất định thành
công. Những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới dưới sự khởi xướng và lãnh đạo của Đảng
đã và đang làm cho Việt Nam phát triển lớn mạnh từng ngày, là những tiền đề vật chất và tinh
thần quan trọng nhất giúp nhân dân ta kiên trì con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Kỷ niệm 123 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, toàn thể dân tộc Việt
Nam, từ đồng bào miền xuôi đến miền ngược, cũng như mọi lớp người lao động, không phân
biệt trẻ, già, gái trai, tín ngưỡng tôn giáo, trong nước hay ngoài nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đang đoàn kết bên nhau, ra sức thực hiện những lời di huấn, cũng như
học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người bằng những việc làm thiết thực, góp phần
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhân dân ta cũng luôn nhận
thức rõ những lời Người dặn: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”[14] . Hiện nay, nhân dân
ta đang tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại; đồng thời, kiên quyết hiến định một bản hiến pháp xã hội chủ nghĩa, chính là
những việc làm thiết thực nhất, tiếp tục con đường cách mạng vô sản của Chủ tịch Hồ Chí
Minh./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.287.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.416.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.416.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.277.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.120.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.120.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.314.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.274.
[9] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr.280.[10] Hồ Chí
Minh toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr.287.
[11] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr.280.
[12] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr.316.
[13] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr.174-175.
[14] Tập 2, tr.267-268
Đại tá, TS Nguyễn Văn Quang*