Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Giương cao ngọn cờ tư tưởng hồ chí minh QĐND

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.25 KB, 19 trang )

GIƯƠNG CAO NGỌN CỜ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
/>QĐND - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng chỉ rõ: Cùng với Chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam. Đó là sự khẳng định một chân lý
lịch sử, một bước phát triển hết sức quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng ta, một
quyết định rất đúng đắn và hợp lòng người.
Những năm qua, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được triển khai ngày
càng sâu rộng, đạt những kết quả đáng khích lệ, thể hiện ở hàng nghìn bài viết, đầu
sách, trong đó có những công trình khá dày dặn và có chất lượng cao. Tuy nhiên, tư
tưởng Hồ Chí Minh vô cùng phong phú, sâu sắc, vì vậy, thành quả nghiên cứu mới chỉ
là bước đầu. Mong rằng, bài nghiên cứu này góp phần làm sâu thêm những nhận thức
của chúng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh - tài sản tinh thần vô giá của Đảng ta, nhân dân
ta và của dân tộc ta.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành từ những điều kiện lịch sử nhất định. Từ
cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển thành chủ nghĩa đế
quốc, thực hiện việc phân chia thế giới và hình thành hệ thống thuộc địa của chúng.
Bước sang thế kỷ 20, thế giới bị phân chia bởi một nhóm mấy cường quốc làm giàu
bằng cách cướp bóc đại quy mô và áp bức các thuộc địa. Mâu thuẫn giữa các dân tộc
bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực dân trở thành một trong những mâu thuẫn cơ bản
của thời đại đế quốc chủ nghĩa. Phong trào giải phóng dân tộc trở thành lực lượng cách
mạng quan trọng của thời đại, đồng minh tự nhiên của phong trào cách mạng vô sản.
Khẩu hiệu do C.Mác và Ph.Ăng-ghen nêu lên: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!”
được V.I.Lê-nin bổ sung và phát triển thành: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị
áp bức, đoàn kết lại!”.
Bị áp bức, bóc lột nặng nề, các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa không ngừng
vùng dậy đấu tranh chống đế quốc để giành độc lập, tự do. Song, cho đến Chiến tranh
thế giới thứ nhất, phong trào giải phóng dân tộc chưa đủ sức làm lung lay nền móng hệ

1



thống thuộc địa; một mặt, do chủ nghĩa đế quốc còn tương đối mạnh; mặt khác, do
phong trào giải phóng dân tộc chưa kết hợp được với phong trào cách mạng vô sản ở
các nước tư bản chủ nghĩa.
Chiến tranh đế quốc làm cho các thuộc địa lâm vào tình cảnh vô cùng điêu đứng.
Trong lúc các dân tộc bị áp bức đang sống cuộc đời tối tăm thì “tiếng sấm Cách mạng
Tháng Mười Nga đã vang dội làm chấn động toàn thể địa cầu"(1). Được Cách mạng
Tháng Mười nêu gương, cổ vũ, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ
khắp nơi, đặc biệt là ở châu Á.
Việt Nam là một dân tộc có mấy nghìn năm văn hiến. Nhân dân Việt Nam giàu
truyền thống yêu nước, bất khuất. Song, chế độ phong kiến suy tàn, khủng hoảng,
phản động đã làm suy kiệt tiềm lực quốc gia. Lợi dụng tình hình ấy, thực dân Pháp
xâm lược nước ta, biến nước ta từ một nước phong kiến thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Chúng thi hành các chính sách áp bức, bóc lột cực kỳ dã man, thâm độc.
Không cam chịu khuất phục, nhân dân ta liên tiếp nổi dậy chống ách thống trị của bọn
thực dân và bọn phong kiến tay sai. Nhưng mọi phong trào yêu nước, từ phong trào
Cần Vương đến các phong trào yêu nước có xu hướng tiểu tư sản, tư sản đều hoàn toàn
bế tắc, “tình hình đen tối như không có đường ra”(2). Lịch sử đòi hỏi bức thiết phải có
một hệ tư tưởng mới, một con đường mới cứu nước, đủ sức dẫn dắt cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc đi đến thắng lợi cuối cùng.
Bằng thiên tài trí tuệ, lòng yêu nước, thương dân mãnh liệt, ý chí gang thép, đạo
đức vô song, Hồ Chí Minh đã đáp ứng yêu cầu lịch sử. Sau 10 năm bôn ba tìm đường,
Hồ Chí Minh đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tìm thấy con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn. Cùng với Chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành ngọn đèn pha soi sáng con đường cách mạng
Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, của hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ đưa Việt Nam từ một dân tộc thuộc địa lên hàng các dân tộc cách
mạng tiên phong trên thế giới, đã chứng minh tính khoa học, tính sáng tạo vĩ đại của tư
tưởng Hồ Chí Minh.

2



Giá trị lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh không giới hạn trong đấu tranh giải phóng
dân tộc mà còn soi sáng con đường phát triển đất nước ta, trong hiện tại và cả tương
lai. Những năm qua, trước bao diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và nhiều khó
khăn trong nước, nhờ kiên định và vận dụng đúng đắn Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, vượt
qua khủng hoảng, tiếp tục vững bước tiến lên theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn.
2. Nhiều nhà khoa học đã phân tích kỹ, đưa ra những luận giải xác đáng để
chứng minh ba nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh:
Một là, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; hai là, tinh hoa văn hóa phương Đông và
phương Tây; ba là, Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, và đây là nhân tố quyết định nhất.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 2-1951) của Đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý
báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi,
nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(3).
Các dân tộc đều có lòng yêu nước. Song, truyền thống yêu nước Việt Nam có
những nét đặc sắc: Một là, tinh thần độc lập tự chủ, anh dũng bất khuất trong đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Hiếm thấy một dân tộc nào trên thế giới ở vào hoàn cảnh lịch
sử phải đấu tranh trường kỳ như thế, gay go, quyết liệt như thế để chống ngoại xâm, để
bảo vệ độc lập, tự do, bản sắc và phẩm giá dân tộc như dân tộc Việt Nam.
Hai là, giàu tính cộng đồng, tính nhân dân, tính nhân bản. Trong tư tưởng, tình
cảm yêu nước Việt Nam ngay thời phong kiến, nước chủ yếu không phải là vua mà
trước hết là dân, là đồng bào, là phẩm giá dân tộc và phẩm giá con người.
Ba là, do hai đặc tính trên, tư tưởng yêu nước truyền thống Việt Nam có xu
hướng gắn với tiến bộ xã hội. Tư tưởng yêu nước Việt Nam chứa đựng khát vọng về tự
do, công bằng, bình đẳng xã hội của nhân dân. Các vị anh hùng dân tộc đều có đường
lối ít nhiều đáp ứng khát vọng ấy. Nhân dân Việt Nam yêu đất nước mình nhưng


3


không ích kỷ, hẹp hòi dân tộc mà tôn trọng các dân tộc khác, khoan dung và quý trọng
tình hòa hiếu.
Từ tuổi thanh niên, Hồ Chí Minh đã là một trong những người con yêu nước ưu
tú nhất, tiêu biểu nhất của dân tộc. Tất cả ý nghĩa cuộc sống đối với Người lúc đó là
cứu nước, giải phóng dân tộc, cứu đồng bào bị đọa đày, đau khổ. Người coi đấy là lẽ
sống thiêng liêng nhất. Đối với Người, tất cả mọi kế sách đều vô nghĩa nếu không
nhằm tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc. Cả cuộc đời, Người “chỉ có một sự
ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(4). Hồ Chí
Minh lúc thiếu thời rất khâm phục tinh thần yêu nước, xả thân vì nước của các sĩ phu
văn thân, các chí sĩ như: Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh. Nhưng tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh thời trẻ, ngay khi chưa gặp
CNXH, đã thể hiện có tầm vượt trước những quan niệm cứu nước đương thời. Bởi đó
là một tư tưởng yêu nước sáng suốt, có tính phê phán, không bảo thủ. Nó hướng tới
việc tìm con đường thật sự cách mạng và khoa học, dẫn tới mục tiêu triệt để giải phóng
dân tộc. Đó là tư tưởng yêu nước mang đậm tính nhân dân, tính nhân bản. Cứu nước
trước hết là cứu hàng triệu “đồng bào bị đọa đày”, những “người cùng khổ”. Trong
quan niệm về mục tiêu cứu nước của Hồ Chí Minh (khi chưa là người mác-xít), nước
độc lập phải đi đôi với dân được hưởng quyền tự do, ấm no, hạnh phúc. Rõ ràng, mục
tiêu ấy không thể tìm thấy ở con đường cứu nước trên lập trường phong kiến và cả trên
lập trường tư sản hay tiểu tư sản. Ở tuổi 13, cũng như một số nhà yêu nước đương
thời, Hồ Chí Minh đã sớm bị hấp dẫn bởi khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Song,
khác các vị ấy, Hồ Chí Minh muốn tìm hiểu đến tận nơi “cái gì ẩn đằng sau” những từ
đẹp đẽ ấy, không chỉ trên lý thuyết mà ngay trên thực tế. Với một hoài bão và lòng yêu
nước như thế làm hành trang, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước. Như vậy là, chủ
nghĩa yêu nước truyền thống đang đòi hỏi được đổi mới là tiền đề tư tưởng đưa Hồ Chí
Minh đến một cách tự nhiên với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đáp ứng yêu cầu bức xúc

của lịch sử lúc đó là phải xác định một đường lối cứu nước mới đúng đắn. Tư tưởng
yêu nước Hồ Chí Minh phản ánh yêu cầu giải phóng bức xúc của dân tộc Việt Nam và
các dân tộc thuộc địa nói chung.

4


Tư tưởng càng vĩ đại khi nguồn gốc của nó càng sâu xa, cơ sở của nó càng rộng
lớn. Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ kết tinh những giá trị dân tộc mà còn bắt nguồn
từ tinh hoa văn hóa nhân loại, cả phương Đông và phương Tây mà Người đã thâu thái
được. Nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài xem Hồ Chí Minh là một điển hình của các
bậc hiền triết phương Đông. Cốt cách phương Đông của Người không chỉ ở văn hóa
ứng xử mà còn thể hiện ở phương pháp, phong cách tư duy và hành động, ở sự am
hiểu sâu sắc và tinh tế những vấn đề lịch sử cũng như những vấn đề nóng hổi đương
đại của các dân tộc phương Đông như: Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan, Lào,
Cam-pu-chia...
Nền học vấn đầu tiên mà Người tiếp nhận là Nho học. Đến tuổi thanh niên và cả
thời kỳ hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm nghiên cứu các giá trị
phương Đông. Trong các hệ tư tưởng cổ truyền, dễ nhận thấy Hồ Chí Minh nhắc nhiều
tới Nho giáo trong các bài viết, bài nói của mình. Theo thống kê của một số nhà
nghiên cứu, trong Toàn tập của Hồ Chí Minh, có tới khoảng 100 lần Người nhắc đến
các luận điểm, cách ngôn của Khổng Tử, Mạnh Tử. Lúc này, Hồ Chí Minh dẫn lời
Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Lúc khác, Người dẫn Mạnh
Tử: “Ai cũng tham thì nước sẽ nguy”. Chỉ riêng một luận điểm của Nho giáo là: “Tiên
thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc” (lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ), tính ra Hồ Chí Minh
đã nhắc tới 14 lần ở những thời điểm khác nhau và với những cách diễn đạt khác nhau.
Theo Người, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, đạo đức người cộng sản cũng phải như
thế.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra những hạn chế lớn của Nho giáo, như
phân chia đẳng cấp, coi thường phụ nữ, khinh lao động chân tay... Hồ Chí Minh căn

bản không dùng học thuyết Khổng Tử để cải tạo xã hội, song Người nói: “Tuy Khổng
Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng,
song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”(5). Người cho rằng, để kế thừa
những cái hay trong tư tưởng các bậc tiền bối cần theo phương pháp Lê-nin. Người
nói: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu
biết quý báu của các đời trước để lại. Lê-nin dạy chúng ta như vậy”(6).

5


Hồ Chí Minh sử dụng không ít mệnh đề và thuật ngữ Nho giáo, song chúng ta
không đồng tình với quan điểm cho rằng: “Hồ Chí Minh chở Chủ nghĩa Mác - Lê-nin
trên cỗ xe Nho giáo”, rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là sự hội tụ giữa học thuyết Khổng
Tử với học thuyết Mác. Hồ Chí Minh tiếp thụ Chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên cơ sở chủ
nghĩa yêu nước cách mạng, mà yếu tố này tuyệt nhiên không có trong học thuyết
Khổng Tử. Người không bài bác những yếu tố tiến bộ trong đạo Nho, nhưng sử dụng
chúng có phê phán và cải tạo lại nội dung trên cơ sở thế giới quan Mác - Lê-nin và
nhân sinh quan cách mạng.
Từ tuổi thiếu niên, Hồ Chí Minh đã tiếp cận những yếu tố văn hóa phương
Tây qua trường học Pháp - Việt. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Người đã
đến tất cả các nước lớn ở phương Tây như: Pháp, Anh, Mỹ, Đức, I-ta-li-a... Mang đậm
cốt cách nhà hiền triết phương Đông, nhưng Hồ Chí Minh cũng rất coi trọng văn minh
phương Tây. Trong giao tiếp, ứng xử hay biểu đạt tư duy, khi cần, Người cũng tỏ ra
đầy bản lĩnh, hiểu biết và phong cách phương Tây. Đúng hơn và phải nói rất tinh vi là
một nhận xét có giá trị phát hiện của nhà báo Ô-xíp Man-đen-xtam từ năm 1923 như
sau: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu mà
có lẽ là một nền văn hóa tương lai”(7).
Nguồn văn hóa phương Tây tác động tới Hồ Chí Minh trước hết phải kể đến tư
tưởng “Tự do, bình đẳng, bác ái” mà giai cấp tư sản thời đang lên đã nêu cao để tập
hợp lực lượng lật đổ chế độ phong kiến. Những tư tưởng đó cũng trở thành giá trị của

nhân loại, mặc dầu trong nguồn gốc ra đời nó thể hiện lợi ích của giai cấp tư sản. Hồ
Chí Minh kể lại: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do,
bình đẳng, bác ái... Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với
nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy” (8).
Khi Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chưa thâm nhập Việt Nam, những người yêu nước
Việt Nam hết sức ngưỡng mộ Đại cách mạng Pháp 1789. Anh thanh niên Nguyễn Tất
Thành cũng rất muốn tìm hiểu để xem nó có thể giúp ích gì cho công cuộc giải phóng
đồng bào. Có thể nói, sức hấp dẫn đối với Nguyễn Tất Thành không phải đường lối,
cách làm của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu; cũng không phải
lá cờ cải lương tư sản của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu (Trung Quốc) mà chính là

6


những tư tưởng tiến bộ của Đại cách mạng Pháp 1789, mặc dầu ngay từ đầu, Người đã
cho rằng phải tìm hiểu đến cả mặt hạn chế của nó. Đây là một trong những nguyên
nhân thúc đẩy Hồ Chí Minh đi Pháp vào năm 1911. Người kể với nhà báo Ô-xíp Manđen-xtam: Bọn Pháp “giấu không cho người nước tôi xem sách, báo. Không phải chỉ
sách của các nhà văn mới, mà cả Rút-xô và Mông-te-xki-ơ cũng bị cấm. Vậy thì phải
làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài”(9).
GS NGUYỄN ĐỨC BÌNH, Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung
ương Đảng, nguyên Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
(còn nữa)
(1). Hồ Chí Minh toàn tập, t.9, tr.314. (2). Hồ Chí Minh toàn tập, t.10, tr.3.
(3). Hồ Chí Minh toàn tập, t.6, tr.171. (4). Hồ Chí Minh toàn tập, t.4, tr.161.
(5). Hồ Chí Minh toàn tập, t.6, tr.46. (6). Hồ Chí Minh toàn tập, t.6, tr.46.
(7). Hồ Chí Minh toàn tập, t.1, tr.477, 478. (8). Hồ Chí Minh toàn tập, t.1, tr.477.
(9). Hồ Chí Minh toàn tập, t.1, tr.476 - 479.
GIƯƠNG CAO NGỌN CỜ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH (TIẾP THEO VÀ
HẾT).
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, đi khắp các châu lục, nhất là đến

những trung tâm văn minh đương thời, từ các thư viện ở Pa-ri, Luân Đôn; từ những
cuộc sinh hoạt luận bàn trong các hội thảo, các câu lạc bộ chính trị, văn hóa; từ sách
báo; từ những quan hệ tiếp xúc với nhiều nhà trí thức, các chính khách có tiếng ở Pháp
và thế giới..., Hồ Chí Minh đã thâu thái được những tinh hoa văn hóa của phương Tây
cần thiết cho hoạt động cách mạng của Người
Hồ Chí Minh tiếp thụ những giá trị tư tưởng văn hóa phương Tây cũng như đối
với những giá trị phương Đông, với tinh thần phê phán. Người đã trực tiếp thấy rõ ách
thống trị cực kỳ tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương, những thống khổ không
sao kể xiết của đồng bào mình, đã tận mắt trông thấy tội ác dã man của bọn thực dân ở
tất cả các nước thuộc địa mà Người đi qua, trực tiếp chứng kiến những bất công phổ

7


biến ngay ở những nước “văn minh”. Qua thực tế, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra
mặt trái của nền văn minh phương Tây. Song, điều đó không ngăn cản Người tiếp thụ,
kế thừa những giá trị tốt đẹp của văn minh phương Tây.
Trên cơ sở những nhân tố tư tưởng nói trên, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước thấm
sâu trong dòng máu của Người, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và chủ
nghĩa Mác - Lê-nin. Việc Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tìm thấy ở
chủ nghĩa Mác - Lê-nin “cái cần thiết” và “con đường” giải phóng dân tộc Việt Nam,
“ngọn hải đăng soi đường cho toàn thể nhân loại bị áp bức đi tới giải phóng” là bước
quyết định trong quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Bắt gặp chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng yêu nước ở Nguyễn Ái Quốc có bước nhảy vọt về chất-tư tưởng của
Nguyễn Ái Quốc trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn
mạnh rằng: Yêu nước, anh dũng chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc không phải
phẩm chất riêng ở những người cộng sản, mà là vốn có ở hàng triệu người trong Đảng
cũng như ngoài Đảng. Song, chỉ có Đảng của giai cấp công nhân, được vũ trang bằng
chủ nghĩa Mác - Lê-nin mới có đường lối đúng đắn để giải phóng dân tộc, biến chủ
nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại trên cơ sở

kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế vô sản. Được tư tưởng khoa học của giai cấp công nhân quốc tế soi
sáng, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đã tìm ra đường lối cứu nước đúng đắn.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chính lý luận Mác - Lê-nin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan và phương
pháp luận duy vật biện chứng để tổng kết kiến thức, tổng kết lịch sử và kinh nghiệm
thực tiễn, tìm ra con đường cứu nước mới, đưa Người vượt hẳn lên phía trước so với
những người yêu nước đương thời, khắc phục căn bản cuộc khủng hoảng về đường lối
giải phóng dân tộc. Theo V.I.Lê-nin, một người “chỉ xứng đáng với danh hiệu nhà tư
tưởng khi nào họ đi trước phong trào tự phát, chỉ đường cho nó, khi nào họ biết giải
quyết, trước những người khác, tất cả các vấn đề lý luận, chính trị, sách lược và các
vấn đề về tổ chức mà “những yếu tố vật chất” của phong trào húc phải một cách tự
phát”(10). Hồ Chí Minh là một nhân vật kiệt xuất trong những con người như thế.

8


Chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu và động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh đến với
chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Còn chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã nâng chủ nghĩa yêu nước
truyền thống ở Hồ Chí Minh lên bước phát triển mới về chất phù hợp với thời đại mới.
Người nói: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản
đã đưa tôi tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu
tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu
được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(11).
Ngay từ tác phẩm "Đường Cách mệnh" (1927), Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”(12). Sau bao năm hoạt động ở nước
ngoài, năm 1941, Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người đặt tên cho ngọn
núi có hang Cốc Bó là “núi Các Mác” và dòng suối đầu nguồn là “suối Lê-nin”. Cho

đến khi sắp từ giã thế giới này, Bác còn “để sẵn mấy lời... phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ
Các Mác, cụ Lê-nin”. Đủ thấy Hồ Chí Minh thủy chung là nhà mác-xít - lê-nin-nít, nhà
mác-xít - lê-nin-nít vĩ đại, vĩ đại ở sự trung thành rất mực với chủ nghĩa, trung thành
theo nghĩa đầy đủ và cao nhất của từ đó, nghĩa là bao hàm phát triển sáng tạo; trung
thành không phải trên từng câu, chữ mà trung thành với thực chất cách mạng và khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trung thành trên tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Thật không đúng nếu chú tâm đi tìm sự khác biệt, sự đối lập nào đó giữa tư tưởng Hồ
Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Bản chất và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
3. Đại hội Đảng lần thứ VII nói về tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin
trong điều kiện cụ thể của nước ta... Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của
nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp
đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”(13).

9


Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18-2-1995 của Bộ Chính trị (khóa VII) về những
định hướng lớn trong công tác tư tưởng có đoạn: Trong khi giải quyết những vấn đề
của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa
Mác - Lê-nin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng
dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Vậy, có thể hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt
Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin để giải
quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam. Đó là hệ thống quan điểm, lý luận về
cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ

thuộc; là tư tưởng về sự kết hợp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người, mà hạt nhân trung tâm là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Nếu cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lê-nin để giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam thì căn bản đúng, nhưng
chưa thật đầy đủ, vì chưa làm nổi bật được những cống hiến mới, sáng tạo, những phát
triển mới đặc biệt quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác Lê-nin; chưa làm rõ được những giá trị và ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh (và của
kinh nghiệm cách mạng Việt Nam) góp phần giải quyết những vấn đề của thời đại, đặc
biệt là vấn đề con đường giải phóng dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên toàn thế giới;
vấn đề kết hợp giai cấp và dân tộc, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Khẳng định những cống hiến mới ấy, những luận điểm mới ấy trong tư tưởng Hồ Chí
Minh chẳng những không mâu thuẫn, trái lại còn góp phần làm thêm ngời sáng những
chân lý phổ biến và sức mạnh sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Kết hợp nhuần nhuyễn giai cấp và dân tộc, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội-đó là hạt nhân cốt lõi trong nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đối với Hồ Chí Minh, từ lúc ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi Người viết
những lời căn dặn cuối cùng cho toàn Đảng và toàn dân, độc lập, tự do cho dân tộc bao
giờ cũng chiếm vị trí hàng đầu. Năm 1920, trả lời câu hỏi tại sao bỏ phiếu cho Quốc tế
III, Người đã trả lời: Đệ tam quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa. Năm

10


1966, lúc Mỹ ném bom Hà Nội, với tư cách Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Bằng
kinh nghiệm máu thịt của mình, bằng trực giác và trái tim, bằng tri thức uyên bác,
bằng phương pháp khoa học biện chứng mác-xít, Hồ Chí Minh hiểu hơn ai hết rằng,
không có độc lập dân tộc thì sẽ không có gì hết, không thể giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, giải phóng con người, không thể có chủ nghĩa xã hội, không thể có quan
hệ bình đẳng, hợp tác, hữu nghị thật sự giữa các dân tộc. Độc lập dân tộc phải là tiền
đề và điều kiện tiên quyết để tiến lên một xã hội công bằng, văn minh do nhân dân làm
chủ.

Năm 1941, trong tình hình nước sôi lửa bỏng sau khi Nhật vào Đông Dương và
khi thời cơ giành độc lập dân tộc đang đến gần, Hồ Chí Minh nói: “Trong lúc này
quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”(14), “nếu không giải quyết được vấn
đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng
những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ
phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(15). Đó quyết không phải tư
tưởng “dân tộc chủ nghĩa” mà chính là lập trường giai cấp cao nhất, sâu sắc nhất, là
quan điểm mác-xít - lê-nin-nít sáng tạo nhất trong điều kiện lịch sử cụ thể Việt Nam
lúc bấy giờ.
Độc lập dân tộc là ngọn cờ của một phong trào lịch sử vĩ đại, phong trào giải
phóng dân tộc, phong trào này đã đánh sập một trong những nền móng của chủ nghĩa
đế quốc. Hồ Chí Minh là một trong số ít người đầu tiên thấu hiểu những tư tưởng của
V.I.Lê-nin - những tư tưởng đánh dấu bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác. Hồ Chí
Minh nói: “Lê-nin là người đầu tiên đã đặt cơ sở cho một thời đại mới, thật sự cách
mạng trong các nước thuộc địa... Lê-nin là người đầu tiên đã nhận thức và đánh giá hết
tầm quan trọng lớn lao của việc lôi cuốn nhân dân các nước thuộc địa vào phong trào
cách mạng. Lê-nin là người đầu tiên đã nhận thức rằng nếu không có sự tham gia của
họ thì không thể có cách mạng xã hội”(16).
Hồ Chí Minh là một trong số ít lãnh tụ cộng sản đầu tiên đưa cách mạng giải
phóng dân tộc đi vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, biến khẩu hiệu của Lê-nin “Vô
sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!” thành hiện thực sinh động.

11


Người nói rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”(17), rằng: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ”(18). Hồ Chí Minh đã đưa cách mạng Việt Nam đi vào giữa dòng thời đại
với tầm cao của sự sáng tạo.

Cách mạng của thời đại phải là sự kết hợp chặt chẽ cách mạng giải phóng dân tộc
và cách mạng vô sản ở các nước tư bản. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa đế quốc là
“con đỉa hai vòi”, một vòi hút máu vô sản chính quốc, một vòi hút máu dân tộc thuộc
địa, muốn tiêu diệt nó phải chặt đứt cả hai vòi, rằng do đó, cách mạng vô sản ở các
nước tư bản và cách mạng giải phóng dân tộc đều là những động lực cơ bản của cách
mạng thế giới giống như “hai cánh của một con chim”, một cánh không thể bay được.
Hồ Chí Minh là người đầu tiên chỉ ra rằng, trong thời đại ngày nay, cách mạng vô sản
ở các nước tư bản không phụ thuộc một chiều vào cách mạng chính quốc, còn cách
mạng thuộc địa không phải là “sản phẩm phụ” của cách mạng vô sản chính quốc như
nhiều người vẫn nghĩ. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng thuộc địa không bị động chờ
cách mạng “chính quốc”; trái lại, một khi có thời cơ, nó có thể vùng lên, chủ động
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, và “trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện sống còn của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc”, cách mạng thuộc
địa “có thể giúp đỡ người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn
toàn”. Nhận định thiên tài này-và phải nói đây là một sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh
góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chứng tỏ Hồ Chí Minh có tầm nhìn chiến
lược bao quát toàn thế giới, không những hiểu sâu sắc tiềm năng cách mạng giải phóng
dân tộc mà còn hiểu sâu sắc tình hình cách mạng vô sản ở phương Tây.
Tư bản là một lực lượng quốc tế. Giữa thế kỷ XIX, C.Mác đã nói như vậy. Ngày
nay lại càng đúng như vậy. Để chống lại nó, vô sản tất cả các nước phải đoàn kết lại để
cứu mình và cứu loài người. Vậy, nhấn mạnh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” có
giảm nhẹ cuộc đấu tranh giải phóng lao động và tinh thần quốc tế vô sản hay không?
Tuyệt nhiên không. Độc lập dân tộc là một giá trị lớn, phổ biến của loài người, không
chỉ ở thế kỷ vừa qua mà ngay cả hiện nay, khi những vết tích cuối cùng của hệ thống
thuộc địa đã bị xóa bỏ. Bước sang thế kỷ XXI, xu thế toàn cầu hóa tăng nhanh cùng

12


với sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Song,

chừng nào xu thế toàn cầu hóa còn bị chi phối và dẫn đầu bởi quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, bởi chính trị bá quyền áp đặt của một số cường quốc và siêu cường thì điều
đó không thể xóa đi, trái lại càng kích thích mạnh ý thức về chủ quyền quốc gia của
các dân tộc, quyết không thể tước bỏ giá trị và ý nghĩa vĩ đại của chân lý “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do” mà Hồ Chí Minh giương cao, được các dân tộc bị áp bức toàn
thế giới thừa nhận. (còn nữa) GS NGUYỄN ĐỨC BÌNH, nguyên Ủy viên Bộ Chính
trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
>> Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh (Phần 2)
QĐND - Tư tưởng Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” bao hàm
ý nghĩa sâu sắc: Giải phóng dân tộc phải dẫn tới giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (19). Điều đó có nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Tiến hành sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, chúng ta tìm thấy trong di sản Hồ Chí Minh
những tư tưởng rất cơ bản về CNXH, mặc dù cho đến khi Người đi xa, sự nghiệp xây
dựng CNXH chỉ mới ở bước đầu trên miền Bắc trong điều kiện cả nước còn phải lo
đánh Mỹ.
Đối với Hồ Chí Minh, xây dựng CNXH phải xuất phát từ những điều kiện cụ thể
của đất nước, từ lịch sử dân tộc, từ con người Việt Nam. Khi miền Bắc bước vào giai
đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Chúng ta phải xây dựng
CNXH trên cơ sở một xã hội vừa mới thoát khỏi ách thực dân phong kiến, hết sức lạc
hậu và trong hoàn cảnh nước ta đang bị chia cắt làm hai miền, trong điều kiện mà “đặc
điểm to nhất” là đi từ sản xuất nhỏ đi lên. Người nói: “Trong những điều kiện như thế,
chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần
lên chủ nghĩa xã hội? Đó là những vấn đề đặt ra trước mắt Đảng ta hiện nay” (20).
Hồ Chí Minh chỉ ra đặc trưng bản chất nhất của chủ nghĩa xã hội - đó là một xã
hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải

13



lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít,
không làm không hưởng. Song, Người không dừng lại ở đặc trưng chung nhất ấy. Với
cách diễn đạt thật giản dị, mộc mạc, đông đảo quần chúng có thể hiểu được, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra những đặc điểm của việc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Theo Người,
xây dựng CNXH là dần dần từng bước thực hiện cho được những mục tiêu thật “bình
thường”, thật “đơn giản”, không cao xa, to tát, rất thiết thực, nhưng hết sức vĩ đại.
Người nói: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung
sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những
phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ (ví dụ: Lấy vợ, lấy chồng sớm quá,
cúng bái, liên hoan lu bù, lười biếng...). Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày
càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” (21). Theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân là tiêu chí cao nhất của chủ
nghĩa xã hội.
Những luận điểm về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí
Minh thật dễ hiểu mà rất sâu sắc, tiếp tục soi sáng sự nghiệp đổi mới của Đảng và
nhân dân ta. Chúng ta vẫn đang tranh luận một số vấn đề quan trọng, trong đó có vấn
đề các thành phần kinh tế và vấn đề tiêu chuẩn đảng viên. Trong 50 bài ngắn gọn và
hết sức súc tích về Thường thức chính trị, Bác (lấy bút danh Đ.X.) viết và cho đăng
nhiều kỳ trên Báo Cứu quốc năm 1953, đã đề cập hai vấn đề trên... Chúng ta cần
nghiên cứu kỹ toàn bộ các bài viết đó của Bác, tất nhiên phải chú ý đến thực tế hiện
nay, đặc biệt lưu ý hai vấn đề: Về thành phần kinh tế và về tiêu chuẩn đảng viên.
Chúng ta có thể tìm thấy trong đó những chỉ dẫn quan trọng và bổ ích. Ví dụ, về thành
phần kinh tế, sau khi phân làm năm loại: A- Kinh tế quốc doanh...; B - Các hợp tác
xã...; C - Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ...; D- Tư bản của tư nhân...;
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh)...,
Bác kết luận: “Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả.
Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội, chứ không theo hướng
chủ nghĩa tư bản” (22).


14


Trong những di sản tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, những luận điểm
của Người về xây dựng Đảng là bộ phận cực kỳ quan trọng. Những tư tưởng về Đảng
của Hồ Chí Minh hết sức phong phú, toàn diện, sâu sắc, sáng tạo.
Năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người khẳng định: Cách mệnh
trước hết cần có Đảng. “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,
trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ
nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin” (23). Những luận điểm của Hồ Chí Minh về bản chất
và mục đích của Đảng, về nguyên tắc tập trung dân chủ, về quy luật phát triển Đảng,
về mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân, về công tác tư tưởng, chính trị và
tổ chức của Đảng, về tiêu chuẩn và tư cách đảng viên, về công tác cán bộ, về công tác
huấn luyện, về phương pháp lãnh đạo và về lề lối làm việc của Đảng…, là những chỉ
dẫn hết sức cơ bản, hết sức cụ thể, mãi mãi soi sáng đường cho công tác xây dựng
Đảng của Đảng ta. Hồ Chí Minh đã thâu tóm thành 12 điều về Tư cách của Đảng chân
chính cách mạng như sau:
“1. Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.
2. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng, và lý luận cùng thực hành
phải luôn luôn đi đôi với nhau.
3. Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và
kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương.
4. Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó
có đúng hay không.
5. Phải luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng

luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm,
liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân.

15


6. Mỗi công việc của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân
chúng. Nếu không vậy, thì chẳng những không lãnh đạo được dân chúng mà cũng
không học được dân chúng.
Chẳng những không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý kiến của
dân chúng.
7. Mỗi công việc của Đảng phải giữ vững tính cách mạng của nó, lại phải khéo
dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát.
Nếu không vậy thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và các cách
thức tổ chức, không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi ích lâu dài của dân chúng.
8. Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng
phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ, và để dạy bảo cán bộ và
đảng viên.
9. Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ
thành nhóm trung kiên lãnh đạo.
10. Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài.
11. Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới. Kỷ luật này là tư tưởng
phải nhất trí, hành động phải nhất trí. Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về
nhiệm vụ của họ đối với Đảng.
12. Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã
thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói
suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng.
Muốn cho Đảng được vững bền
Mười hai điều đó chớ quên điều nào” (24)
Bàn về Đảng và công tác xây dựng Đảng, ngày nay chúng ta có thể nói và viết rất

nhiều, bao nhiêu cũng không đủ, song chung quy lại không vượt quá ngoài 12 điều răn
của Bác viết năm 1947, những vấn đề vẫn nóng hổi tính thời sự.

16


Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến cuối đời, Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến vấn đề đảng cầm quyền. Suốt 24 năm trên cương vị đứng đầu Nhà nước,
đứng đầu một đảng cầm quyền, Người cùng tập thể lãnh đạo giải quyết không biết bao
nhiêu vấn đề lớn của quốc gia trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa, quân sự, ngoại giao, những vấn đề của kháng chiến, kiến quốc, của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc và sự nghiệp
giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Trong đó, vấn đề đảng cầm quyền bao giờ
cũng là vấn đề trung tâm then chốt nhất, được Người đặc biệt chú ý. Những tư tưởng,
luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền, và không chỉ thế, cả những
việc làm thực tế và tấm gương đạo đức hằng ngày của Người trên cương vị lãnh tụ một
đảng cầm quyền đã đóng góp quan trọng vào việc phát triển học thuyết Mác - Lê-nin
về Đảng nói chung và đặc biệt trong điều kiện đảng cầm quyền.
Điểm mấu chốt nhất, cũng là phức tạp và khó khăn nhất trong vấn đề đảng cầm
quyền đã được Hồ Chí Minh giải quyết một cách cực kỳ sâu sắc, nhưng thật dễ hiểu.
Cái khó đối với chúng ta là thực hành sao cho đúng tư tưởng của Bác, là làm đúng
gương Bác đã làm. Đó là quan điểm “dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân”.
Người chỉ rõ:
"Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (25) .
Sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất sớm thấy nguy cơ đối
với đảng cầm quyền không những là bệnh quan liêu, hách dịch, vênh váo lên mặt

17


“quan cách mệnh”, mà cả những thói hư tật xấu khác rất dễ nảy sinh trong cán bộ,
đảng viên, nhất là trong những người có chức, có quyền, như bệnh địa vị, công thần,
cục bộ địa phương, bè phái, cái thói “chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, lo chiếm của công làm
của tư, lợi dụng địa vị và công tác của mình mà buôn bán phát tài, lo việc riêng hơn
việc công”... Hồ Chí Minh chỉ rõ ba căn bệnh chính là tham ô, lãng phí, quan liêu - đó
là những “thứ giặc nội xâm” mà chung quy tất cả những thói hư tật xấu trên đều bắt
nguồn từ chủ nghĩa cá nhân mà ra. Muốn cho Đảng trong sạch, Người chỉ rõ, phải
“nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”.
Trong nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, rõ ràng một bộ phận rất quan trọng là tư
tưởng về đạo đức cách mạng. Ngay từ năm 1927, chuẩn bị thành lập Đảng, trong cuốn
Đường Kách mệnh, sau khi dẫn lời Lê-nin về vai trò của lý luận cách mệnh tiên phong
đối với Đảng tiên phong, Người mở đầu tác phẩm bằng mục lớn: “Tư cách một người
cách mệnh”, trong đó xác định những yêu cầu về đạo đức mà người cách mệnh phải có
như: “Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng tham muốn về vật chất”. “Vị công
vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm”. “Quyết đoán. Dũng
cảm. Phục tùng đoàn thể”. Khi cách mạng đã giành được chính quyền và khi từ chiến
tranh đã chuyển sang hòa bình xây dựng, những yêu cầu về đạo đức đối với cán bộ,
đảng viên chẳng những không giảm đi, trái lại càng tăng thêm, do đó Hồ Chí Minh
càng quan tâm hơn đến xây dựng Đảng về đạo đức cách mạng. Người viết trong Di
chúc: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung
thành của nhân dân” (26). Lời dặn cuối cùng của Người đã nói vắn tắt và đầy đủ về

một điều cốt tử nhất trong xây dựng Đảng cầm quyền, nó quyết định vận mệnh của cả
chế độ - đó là đạo đức cách mạng. Thực tế đang chứng thực những cảnh báo của Hồ
Chí Minh về những nguy cơ mà các đảng cầm quyền, kể cả Đảng ta, có thể mắc phải,
những lời cảnh báo thể hiện một nhãn quan vô cùng sáng suốt.
Hồ Chí Minh viết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp,
phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã
đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến

18


thắng lợi khác” (27). Song, một bộ phận không nhỏ trong Đảng không thực hiện đúng
lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã trượt ngã vào vũng bùn của chủ nghĩa cá
nhân, trở thành những phần tử quan liêu, ức hiếp quần chúng, tham nhũng, hối lộ, làm
xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Mọi người chúng ta đều hiểu sâu sắc tất
cả tầm quan trọng của Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà Đảng ta đã đề ra
để đạt cho kỳ được yêu cầu.
Muốn vậy, cần chú ý ba điểm:
1. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh là “nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, thực hiện thành công Di chúc thiêng liêng của Người về
chỉnh đốn Đảng.
2. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh là ra sức phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh là giương cao ngọn cờ cách mạng
và sáng tạo của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, thực hiện thành công lý tưởng độc lập dân
tộc và CNXH trên Tổ quốc thân yêu của chúng ta và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới.
GS NGUYỄN ĐỨC BÌNH, Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung
ương Đảng, nguyên Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương


19



×