CHƯƠNG I
SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC ĐẦU TIÊN TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM
1.1. Các nhân tố tác động đến sự hình thành nhà nước đầu tiên
1.1.1. Sự chuyển biến về kinh tế và quá trình phân hóa xã hội
Qua các giai đoạn phát triển, xã hội đã có nhiều chuyển biến sâu sắc:
1.1.1.1
Sự chuyển biến về mặt kinh tế
- Kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước vươn lên đóng vai trò chủ đạo, bởi những lý do sau:
Điều kiện tự nhiên thuận lợi: Với khí hậu, sông ngòi, đồng bằng bằng phẳng, phì nhiêu… rất
phù hợp cho sự phát triển của nghề trồng lúa nước lúc bấy giờ.
Sự tác động của công cụ lao động: Qua 4 giai đoạn công cụ lao động ngày càng phát triển và
hiệu quả hơn (do việc tìm ra được kim loại đồng và sau đó là kim loại sắt). Công cụ bằng đồng đa
dạng về chủng loại: lưỡi cuốc, lưỡi cày, xẻng, lưỡi rìu… Mỗi loại hình công cụ lại có nhiều kiểu dáng
khác nhau, thích ứng với nhiều mục đích sử dụng đã tác động mạnh mẽ vào hoạt động canh tác nông
nghiệp góp phần nâng cao năng suất lao động.
Việc kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo đã tác động rất tích cực
đến sự phát triển của nền kinh tế, bởi vì từ đây sản phẩm lao động làm ra nhiều hơn, ổn định và bền
vững hơn chứ không bấp bênh và phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên như trước kia – khi mà kinh tế của
xã hội chủ yếu dựa vào hoạt động săn bắt, hái lượm những sản phẩm từ trong tự nhiên của con người.
- Thương nghiệp ra đời cùng với sự phát triển của các ngành nghề khác bởi nhu cầu trao đổi,
mua bán các sản phẩm làm ra ngày càng gia tăng.
Nhìn chung về mặt kinh tế, trải qua 4 giai đoạn phát triển liên tục từ thấp đến cao đã có
nhiều bước chuyển biến sâu sắc, sản phẩm lao động làm ra ngày càng nhiều, nhu cầu tư hữu bắt đầu
xuất hiện, từ đó làm thay đổi bộ mặt của xã hội.
1.1.1.2
Sự chuyển biến về mặt xã hội
- Về hôn nhân – gia đình:
Các gia đình nhỏ ra đời: Với năng suất lao động ngày càng tăng, sự phân hóa xã hội ngày
càng sâu sắc hơn, thêm vào đó là sự di chuyển thường xuyên của một bộ phận dân cư, làm xuất hiện
nhu cầu tách ra khỏi công xã thị tộc khép kín để hình thành những đơn vị kinh tế độc lập, từ đó các
gia đình nhỏ xuất hiện và chế độ tư hữu cũng đồng thời nảy sinh.
- Về tổ chức xã hội: Công xã nông thôn thay thế cho công xã thị tộc. Sự tan rã của công xã thị
tộc như là một quy luật tất yếu khi mà những điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của nó không còn. Sự
xuất hiện của công xã nông thôn với việc thừa nhận quyền tư hữu đối với nhà ở và sản phẩm lao động
làm ra đã đẩy nhanh quá trình phân hóa xã hội ở nước ta.
- Về sự phân hóa xã hội:
Xã hội phân chia thành 3 tầng lớp khác nhau:
Tầng lớp quý tộc: phần lớn là những người xuất thân từ các thủ lĩnh, tù trưởng, những người
giàu có trong xã hội; họ đã lợi dụng địa vị và uy tín của mình để biến một phần sự đóng góp tự
nguyện của dân chúng thành tài sản riêng, theo thời gian tích luỹ ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư,
1
đồng thời thực hiện việc quản lý xã hội, tổ chức lao động và phân công sản phẩm lao động xã hội.
Tầng lớp nông dân tự do: đây là tầng lớp chiếm số đông trong xã hội và là lực lượng sản xuất
chính.
Họ là thành viên của các công xã nông thôn, xuất thân chủ yếu là từ nông dân, ngư dân, những
người săn bắt… họ là những người tự do về thân phận, nhưng thực tế thì bị lệ thuộc và bị bóc lột tập
thể về kinh tế - có nhiệm vụ cống nạp cho tầng lớp bóc lột, phải có nghĩa vụ về quân sự khi xảy ra
chiến tranh đồng thời thực hiện các công việc chung trước đòi hỏi của xã hội như tham gia vào các
công trình công cộng.
Tầng lớp nô tì: có thân phận thấp kém và bị lệ thuộc vào người chủ. Tầng lớp này xuất thân chủ
yếu là từ những tù binh trong các cuộc chiến tranh thôn tính giữa các bộ lạc, do nợ nần không trả
được, hoặc do mua bán, trao đổi… số lượng tầng lớp này không nhiều, chủ yếu phục vụ trong các gia
đình quý tộc.
Qua bốn giai đoạn phát triển, sự phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc hơn, tuy nhiên quá trình
đó diễn ra một cách chậm chạp, mâu thuẫn đã có nhưng không quá gay gắt, chưa đến mức không thể
điều hoà được.
1.1.2. Nhân tố trị thủy - thủy lợi và chống chiến tranh xâm lược
1.1.2.1.
Nhân tố trị thủy - thủy lợi
1.1.2.2.
Nhân tố chống chiến tranh
Nhu cầu trị thủy - thủy lợi và chống chiến tranh không thể chỉ dùng đến sức mạnh của cá nhân,
mà phải là sức mạnh chung của tập thể, được tạo nên bằng sự tập hợp của nhiều gia đình nhỏ trong
một công xã nông thôn và sự liên kết nhiều công xã nông thôn trong một cộng đồng lớn hơn, tạo
thành một tổ chức mới rộng lớn, có khả năng thống nhất, quản lý toàn bộ xã hội. Chính vì thế, sự hợp
nhất cộng đồng đã diễn ra một cách nhanh chóng hơn trước sự tác động của những yếu tố này (trị
thủy - thủy lợi và chống chiến tranh), trên cơ sở đó tình trạng phân tán, rời rạc cũng như những mâu
thuẫn giữa các cộng đồng cũng nhanh chóng được giải quyết để hình thành một mô hình tổ chức mới.
Và dĩ nhiên khi tổ chức ấy ra đời cần có sự quản lý và chỉ huy thống nhất của một số người giữ vai
trò thủ lĩnh - họ là những người có uy tín, có địa vị trong xã hội, được sự tín nhiệm và bầu lên từ
người dân. Lúc ban đầu tổ chức này chỉ mang tính chất xã hội, xuất phát từ lợi ích của cả cộng đồng,
nhưng dần dần với thời gian nó trở thành công cụ của những người được giao phó chức năng quản lý,
trở thành bộ máy mang tính quyền lực, được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế và nhà nước ra đời.
Trị thủy - thủy lợi và chống chiến tranh là những yếu tố thúc đẩy cho sự ra đời sớm hơn của
nhà nước. Tuy nhiên phải khẳng định rằng, đó không phải là những nhân tố đóng vai trò quyết định,
bản thân chúng không làm sản sinh ra một nhà nước mà nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự ra đời của
nhà nước vẫn thuộc về những nhân tố nội tại là sự phát triển kinh tế làm xuất hiện chế độ tư hữu và
cùng với đó là sự xuất hiện các giai cấp đối kháng về mặt lợi ích.
1.2. Quá trình hình thành nhà nước đầu tiên
1.2.1. Nhà nước trong trạng thái đang hình thành – Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc
- Vào giai đoạn đầu thời đại Hùng Vương, các Liên minh bộ lạc bắt đầu hình thành trước yêu
cầu xã hội cần có một tổ chức mới rộng lớn hơn để giải quyết các vấn đề sau:
2
Một là: Mâu thuẫn giữa các thị tộc, bộ lạc ngày càng gia tăng. Đây là một xu thế tất yếu của xã
hội khi mà nền kinh tế phát triển ngày càng lớn mạnh.
Hai là: Tập trung sức mạnh tập thể để tự vệ, chống thiên tai, bảo vệ sản xuất.
Sự hình thành các liên minh bộ lạc làm cho địa vị của các quý tộc thị tộc ngày càng cao, với
quyền lực ngày càng lớn và họ dần trở thành những con người đứng lên trên xã hội, quản lý xã hội;
Bằng địa vị và uy tín của mình, họ chiếm đoạt ngày càng nhiều của cải trong tay;
Quyền lực xã hội trước đó được trao cho các quý tộc thị tộc nhằm thực hiện các chức năng xã
hội vì cộng đồng dần biến thành quyền lực nhà nước, có khả năng cưỡng chế và họ trở thành những
quan chức nhà nước.
Đứng đầu là vua Hùng Vương;
Dưới vua là Lạc hầu, là một quan văn có nhiệm vụ thay mặt cho nhà vua giải quyết những
công việc trong cả nước.
Đất nước được chia làm 15 Bộ, đứng đầu mỗi Bộ là Lạc tướng; Lạc tướng theo chế độ cha
truyền con nối, là một quan võ phụ trách giải quyết các công việc chung của bộ, chịu trách nhiệm thu
cống phẩm của lạc dân để nộp cho nhà vua, đồng thời là thủ lĩnh về mặt quân sự của Bộ mình đương
nhiệm.
Dưới Bộ là các Công xã nông thôn, đứng đầu là Bồ chính.
1.2.2. Nhà nước Âu Lạc
- Sự hình thành nhà nước Âu Lạc:
Nhà nước Âu Lạc là sự kế thừa liên tục từ nhà nước Văn Lang: trên cơ sở kết quả khảo cổ học
phân bố ở địa bàn Văn Lang, Âu Lạc, các nhà khảo cổ học thấy rằng có một nền văn hóa chung, liên
tục phát triển từ thời Hùng Vương cho mãi tới thời khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó mới ngừng phát
triển như một nền văn hóa độc lập.
CHƯƠNG III
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN NGÔ – ĐINH – TIỀN LÊ (939 – 1009)
3.1. Tổ chức bộ máy nhà nước
3.1.1. Nhà Ngô (939 – 965)
3.1.1.1.
Tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương
Năm 939 sau khi đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền bỏ chức Tiết độ sứ
của triều đình phong kiến phương Bắc trước đó và tự xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa (huyện Đông
Anh – Hà Nội ngày nay).
Đứng đầu tổ chức bộ máy nhà nước là Vua, dưới Vua là đội ngũ quan lại. Tuy nhiên, tổ chức cụ
thể như thế nào thì không rõ, chỉ biết rằng vào thời kỳ này về mặt tổ chức bộ máy nhà nước đã “đặt
trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục”.
3.1.1.2.
Tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương
3
Vẫn giữ nguyên cách thức tổ chức các cấp chính quyền theo mô hình của họ Khúc trước đó, tức
là chia cả nước ra làm 5 cấp: Lộ - Phủ - Châu – Giáp – Xã.
3.1.2. Nhà Đinh (968 – 980)
3.1.2.1.
Tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương
Năm 968 sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng lên ngôi Hoàng đế đặt tên nước Đại
Cồ Việt, lấy niên hiệu là Thái Bình,
đóng đô ở Hoa Lư1. Kinh đô đặt ở Hoa Lư với vị thế hiểm trở, có đồi núi bao quanh cho thấy sự chú
trọng của nước nhà ở giai đoạn này đối với việc phòng thủ quốc gia nhằm tăng cường sức mạnh về
mặt quân sự bảo vệ nền độc lập trước sự xâm lược của kẻ thù.
Việc không dùng niên hiệu của nhà Tống, đặt quốc hiệu riêng, xưng “đế” đã khẳng định về một
quốc gia hoàn toàn độc lập, khẳng định tính dân tộc tự quyết của nước nhà.
Tổ chức bộ máy đã hoàn thiện và phát triển hơn nhà Ngô, tuy nhiên thiết chế vẫn còn đơn giản,
thể hiện:
- Hoàng đế: là người đứng đầu bộ máy nhà nước.
- Các quan lại trong triều: gồm có một số chức quan sau đây:
Định quốc công: là quan đầu triều, có vai trò như Tể tướng sau này (ví dụ: vào thời nhà Đinh
có Nguyễn Bặc là Định quốc công).
Đô hộ phủ Sĩ Sư: đây là chức quan trông coi việc hình án ở Đô hộ phủ. Phủ đô hộ được đặt
ra từ thời Bắc thuộc, nay nhà Đinh vẫn giữ danh hiệu này, để chỉ quan giữ việc hình án ở kinh đô, tức
chức danh đứng đầu việc tư pháp trong cả nước (ví dụ thời nhà Đinh có Lưu Cơ giữ chức này).
Thập đạo tướng quân: chức quan giữ vai trò là tổng chỉ huy quân đội cả nước bao gồm 10
đạo, thời nhà Đinh chức võ tướng Thập đạo tướng quân do Lê Hoàn giữ.
Đô uý: trông coi việc quân sự;
Chi hậu nội nhân: là chức quan phụ trách coi việc tuần phòng ở cung cấm, ví dụ thời nhà
Đinh có Đỗ Thích là Chi hậu nội nhân.2
Tăng thống: là quan đứng đầu các tăng đạo - đứng đầu Phật giáo trong cả nước, ví dụ: thời
nhà Đinh có Ngô Chân Lưu làm Tăng thống hiệu là Khuông Việt đại sư.
Tăng lục: là quan phụ trách Phật giáo cùng với Tăng thống;
Sùng chân uy nghi: quan phụ trách về Đạo giáo, thời nhà Đinh có Đặng Huyền Quang giữ
chức này. 3
1 “Khi ấy mười hai sứ quân đều tự làm hùng trưởng, cắt giữ đất đai;… vua đánh dẹp được cả… chọn chỗ đất phẳng ở Đàm Thôn,
muốn dựng làm kinh đô, nhưng vì thế đất chật hẹp, lại không có lợi về sự đặt hiểm, nên lại đóng đô ở Hoa Lư .” – Ngô Sĩ Liên (2006),
Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, NXB Văn hóa thông tin, tr. 193.
2 Tháng 10 năm Kỷ Mão (979) Chi hậu nội nhân Đỗ Thích giết vua Đinh Tiên Hoàng ở sân cung đình. – Đại Việt sử ký
toàn thư, tập I, sđd, tr. 199.
3 “Tân Mùi, năm thứ 2 (971)… mới định ra giai phẩm cho các quan văn võ và tăng đạo. Cho Nguyễn Bặc làm Định quốc
công, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân; cho Tăng thống Ngô Chân Lưu hiệu là Khuông
Việt đại sư, cho Trương Ma Ni làm Tăng đạo sĩ, Đặng Huyền Quang làm Sung chân uy nghi. – Đại Việt sử ký toàn thư,
sđd, tr. 196.
4
- Về quân đội: giành được sự thống nhất cho nước nhà trên cơ sở đập tan các lực lượng cát cứ
vì thế mối đe dọa từ các thế lực này vẫn là vấn đề thường trực, ngoài ra việc chống xâm lược từ bên
ngoài vẫn luôn là nguy cơ thường trực; chính vì thế vua Đinh Tiên Hoàng đã tổ chức ra một đội quân
hùng mạnh với quy chế rất chặt chẽ bao gồm đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi đạo gồm có mười quân, mỗi
quân gồm có mười lữ, mỗi lữ gồm có mười tốt, mỗi tốt có mười ngũ và mỗi ngũ có mười người.4
3.1.2.2.
Tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương
Trong thời kỳ này xuất hiện đơn vị hành chính đạo. Năm 974 Đinh Tiên Hoàng chia cả nước ra
làm 5 đạo – đạo là cấp hành chính địa phương cũng đồng thời là đơn vị quân sự.5
Dưới cấp đạo là cấp hành chính cơ sở giáp (đứng đầu là Quản Giáp và Phó Tri Giáp) – Xã
(đứng đầu có Chánh Lệnh trưởng và Tá Lệnh trưởng).
3.1.3. Nhà Tiền Lê (980 – 1009)
3.1.3.1.
Tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương
Vào thời kỳ này, đứng đầu nhà nước vẫn là vua, tuy nhiên triều đình trung ương xuất hiện nhiều
chức quan mới:
Tổng quản tri quân dân sự: là viên quan đầu triều, phụ trách quản lý cả về việc dân – quân sự.6
Thái sư: là quan đại thần, có chức năng cố vấn cao cấp cho nhà vua
Thái úy: Là quan võ thuộc một trong số các đại thần của triều đình.7
Nha nội đô chỉ huy sứ: cũng là một quan võ.
Về quân đội: việc củng cố và phát triển đội ngũ quân đội rất được sự chú trọng của triều đình,
đặc biệt là vào đời vua Lê Đại Hành. Nhà nước đặt ra ngạch thân binh và tổ chức lính túc vệ đóng ở
kinh thành bảo vệ cho vua và hoàng tộc vào năm 968. Ngoài ra đến năm 1002, nhà nước còn chia
tướng hiệu ra làm hai ban.8
3.1.3.2.
Tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương
Đổi 10 đạo thành lộ và khôi phục lại các phủ, châu như trước, cho nên vào thời kỳ này, cả nước
chia thành: lộ - phủ - châu – giáp – xã.9
3.2. Pháp luật
3.2.1. Tình hình xây dựng pháp luật
- Đây là giai đoạn đầu sau khi giành được độc lập, đất nước phải đối mặt với nhiều mối đe dọa
từ bên trong (tình trạng phân tán, cát cứ) lẫn bên ngoài (chống giặc ngoại xâm). Do đó là thời kỳ khôi
phục lại nền kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, củng cố và bảo vệ nền độc lập nước nhà. Chính
vì thế, hoạt động xây dựng pháp luật còn chưa thực sự phát triển.
4 Giáp Tuất năm thứ 5 (974)… Mùa xuân, tháng 2, định mười đạo quân, mỗi đạo quân 10 quân, mỗi quân là 10 lữ, mỗi lữ
là 10 tốt, mỗi tốt là 10 ngũ, mỗi ngũ là 10 người.” - Đại Việt sử ký toàn thư, sđd tr. 197.
5 Điều này cho thấy sự chú trọng về mặt quân sự trong tổ chức bộ máy nhà nước đồng thời cũng là sự thể hiện của tính
chất tổ chức bộ máy nhà nước mang nặng tính quân sự.
6 Năm 986 đời vua Lê Đại Hành phong “Từ Mục làm Tổng quản tri quân dân sự, phong tước hầu” - Đại Việt sử ký toàn
thư, sđd, tr. 214.
7 Năm 986, đời vua Lê Đại Hành có Phạm Cự Lạng làm Thái Úy - Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 214.
8 “Mùa xuân, tháng 3, định luật lệnh, chọn quan lính, chia tướng hiệu làm hai ban…” - Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr.
223.
9 “Năm thứ 9 (1002)… Mùa xuân, tháng 3, định luật lệnh,… đổi mười đạo làm lộ, phủ, châu.” - Đại Việt sử ký toàn thư,
sđd, tr. 223.
5
- Về hình thức pháp luật có: tập quán pháp, văn bản pháp luật.
Tập quán pháp tiếp tục được xem là nguồn quan trọng và phổ biến. Phổ biến nhất là các tập
quán dùng để điều chỉnh mối quan hệ về hôn nhân gia đình, ruộng đất, sở hữu… Đây là những tập
quán của các làng xã cổ truyền được lưu giữ lại và được nhà nước thừa nhận.
Văn bản pháp luật: Pháp luật thành văn đã xuất hiện (năm 1002 Lê Đại Hành cho “định luật
lệnh”) tuy nhiên chưa có nhiều công trình quan trọng, đặt ra “luật lệnh” nhưng đó là luật lệnh gì thì
không thể biết rõ nội dung.10
3.2.2. Nội dung pháp luật
Với tình hình bất ổn định về mặt chính trị, xã hội sau khi giành độc lập nên các biện pháp mà
pháp luật đưa ra áp dụng là rất tàn bạo, nghiêm khắc, mang tính nhục hình nhằm để răn đe, trừng trị
đối với những ai vi phạm pháp luật, chống đối triều đình trung ương, phá hoại trật tự xã hội…
Nhà Đinh: Đinh Tiên Hoàng đã dùng oai để cai trị các tội phạm như đặt vạc dầu ở trước điện,
nuôi hổ ở trong vườn để bắt người phạm tội cho vào vạc dầu hoặc cho hổ ăn thịt hoặc đóng vào cũi
ngâm dưới nước.11
Đến thời nhà Tiền Lê, đặc biệt là dưới triều vua Lê Long Đĩnh các hình phạt cũng không kém
phần dã man, tàn bạo, đồng thời còn thể hiện tính chất tùy tiện khi xét xử, với các hình thức như đốt
người, lấy dao ngắn, dao cùn xẻo từng miếng thịt, dìm người xuống sông, cho rắn cắn chết…
Nhìn chung, đây là giai đoạn mới vừa giành được độc lập, nên còn nhiều bất ổn định về tình
hình chính trị, xã hội với sự đe dọa thường xuyên của tình trạng phân tán, cát cứ từ bên trong và tình
trạng giặc giã ngoại xâm từ bên ngoài cho nên nhà nước còn tổ chức đơn giản, pháp luật còn chưa
thực sự phát triển vì nhiệm vụ hàng đầu lúc này là giải quyết các vấn đề trên. Mặc dù vậy, đây là giai
đoạn của nhà nước và pháp luật độc lập tự chủ, tuy chưa đạt được nhiều thành tựu nhưng đánh dấu
một bước tiến quan trọng, mở ra một giai đoạn phát triển mới cả về nhà nước và pháp luật của nước
nhà, đặt nền tảng vững chắc cho các giai đoạn tiếp theo.
10 “Năm thứ 9 (1002)… Mùa xuân, tháng 3, định luật lệnh…” - Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr. 223.
11 “Vua lấy uy để chế ngự thiên hạ, mới đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ ở trong cũi, hạ lệnh rằng: Người nào trái phép sẽ
phải chịu tội bỏ vào vạc nấu hay cho hổ ăn. Mọi người sợ phục không ai dám trái.” - Đại Việt sử ký toàn thư, sđd tr. 193.
6
CHƯƠNG IV
BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CÁC TRIỀU ĐẠI LÝ - TRẦN - HỒ (1010 –1407)
4.1.
Tổ chức bộ máy nhà nước
4.1.1. Nhà Lý (1010 – 1225)
Năm 1010, Lý Công Uẩn – giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ được suy tôn lên làm vua, lập ra triều
Lý, niên hiệu là Thuận Thiên. Tháng 2, năm 1010 Vua dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, sau đó đổi
là thành Thăng Long. Việc dời đô từ “Hoa Lư thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương” về
thành Đại La “ở giữa khu vực trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa Nam – Bắc – Đông – Tây,
tiện hình núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về
ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh, xem khắp nước Việt, chỗ ấy là nơi hơn cả. Thực sự là chỗ
hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn đời.” 12 đánh dấu một sự phát triển lớn
mạnh, ổn định, bền vững của nước nhà, nhân dân có điều kiện để xây dựng một cuộc sống mới phồn
vinh, an tâm lao động, tăng gia sản xuất, bởi sự kiện này cũng đã cho thấy sự chú trọng của nhà nước
đối với việc phát triển nền kinh tế của quốc gia. Giai đoạn này nhà nước và pháp luật đạt nhiều thành
tựu đáng kể.
4.1.1.1.
Tổ chức chính quyền ở trung ương
Thời kỳ nhà Lý đã thiết lập một nhà nước phong kiến theo hình thức chính thể quân chủ trung
ương tập quyền mang tính quý tộc 13, với tổ chức bộ máy như sau:
- Vua: là người đứng đầu, nắm trong tay toàn bộ quyền lực nhà nước: chủ thể duy nhất có
quyền ban hành pháp luật; quyết định việc bổ nhiệm, phong cấp, bãi nhiệm hệ thống quan lại trong
triều; nắm quyền xét xử tối cao, đích thân xét xử và ra quyết định cuối cùng đối với các vụ án quan
trọng; là tổng chi huy quân đội; chủ sở hữu tối cao đối với toàn bộ đất đai; ban hành các thứ thuế…
- Các quan đại thần:
Vị trí: là những người đứng đầu đội ngũ quan lại trong triều đình, được chia làm 2 ngạch: ngạch
quan văn và ngạch quan võ 14, bao gồm:
Tam thái gồm: thái sư, thái phó, thái bảo; ví dụ: Lương Nhậm Văn làm thái sư, Ngô Thượng
Đinh làm thái phó, Đào Xử Trung làm thái bảo vào đời vua Lý Thái Tổ.
Tam thiếu gồm: thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo;
Thái uý
Thiếu uý
Chức năng: cố vấn cao cấp cho nhà vua, cho ý kiến trước khi vua ban hành một quyết định
quan trọng.
Trong số các quan đại thần sẽ chọn ra một người đứng trên tất cả đội ngũ quan lại trong triều,
đóng vai trò như tể tướng và tuỳ theo từng giai đoạn mà có thể gọi bằng các tên khác nhau như: Phụ
quốc thái uý, Nhập nội kiểm hiệu thái phó bình chương quân quốc trọng sự…ví dụ: vào đời Lý Thái
12 Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Văn hóa thông tin, tr. 241.
13 Vào thời nhà Lý đã tạo ra một hoàng tộc lớn mạnh bằng nhiều biện pháp khác nhau nhằm tăng cường việc quý tộc
hóa dòng họ, các chức vụ chủ chốt của triều đình theo đó đa phần là do những người trong dòng tộc nhà Lý nắm giữ.
14 “Quan chế triều Lý đại lược văn võ đều có 9 phẩm. Lấy 3 chức thái, ba chức thiếu, cùng thái úy, thiếu úy…” – Phan
Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập I, NXB Khoa học xã hội, tr. 443.
7
Tông có Lý Thường Kiệt làm Phụ quốc thái uý, hay có Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu thái
phó bình chương quân quốc trọng sự vào đời vua Lý Anh Tông.
- Các cơ quan chuyên môn:
Chức năng: là những cơ quan giúp vua quản lý công việc thuộc lĩnh vực chuyên môn khác
nhau, chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhà vua.
Các cơ quan chuyên môn gồm:
Hàn lâm viện:
Chức năng: soạn thảo chiếu, biểu cho nhà vua;
Quan đứng đầu là Hàn lâm viện học sĩ. Ví dụ: thời Lý có Mạc Hiển Tích giữ chức Hàn lâm viện
học sĩ.
Quốc tử giám:
Cơ quan này được thành lập năm 1076 vào đời vua Lý Nhân Tông, là quốc học đầu tiên của
nước nhà. Sự xuất hiện của cơ quan này đánh dấu một sự phát triển mới của nền giáo dục thi cử nước
ta.
Chức năng của cơ quan này là đào tạo Nho sĩ và trông coi Văn miếu;
Quan đứng đầu là Tư nghiệp.
Khu mật sứ:
Đây là cơ quan được thành lập vào tháng 11 năm 1082, đời vua Lý Thái Tông.
Chức năng: bàn bạc việc triều chính thuộc lĩnh vực dân sự với vua;
Quan đứng đầu là Tả sứ, giúp việc có Hữu sứ. Đời Lý Thái Tông có Lý Đạo Kỷ làm Tả sứ,
Xung Tân làm Hữu sứ.15
- Một số chức quan khác
Quan văn: Tả hữu tham tri, Tả hữu Gián nghị đại phu, Viên ngoại lang…;
Quan võ: Đô thống, Nguyên soái, Đại tướng, Thống tướng, Thượng tướng…;
Chức quan về tôn giáo: Quốc sư, Tăng thống, Tăng lục, Tăng chính…
4.1.1.2.
Tổ chức chính quyền địa phương
Lý Thái Tổ đã tiến hành chia đặt lại các đơn vị hành chính sau khi lên ngôi, theo đó đã đổi 10
đạo thời kỳ nhà Đinh – Lê thành 24 lộ và trại 16.
Việc phân chia lại các đơn vị hành chính của Lý Thái Tổ đã góp phần rất quan trọng tạo ra sự
quản lý thống nhất, toàn diện từ trung ương xuống địa phương. Sau cuộc cải cách này, chính quyền
địa phương được chia ra làm 3 cấp.
- Cấp lộ - trại: Cả nước chia làm 24 lộ và 2 trại (châu Hoan và châu Ái), đứng đầu lộ là Thông
phán, đứng đầu trại là Chủ trại.
15 Đỗ Văn Ninh (2006), Từ điển chức quan Việt Nam, NXB Thanh niên, năm 2006, tr. 423.
16 Mùa dông, tháng 12, năm 1010 “…
đổi 10 đạo làm 24 lộ, châu Hoan, châu Ái làm trại.” – Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr. 243.
8
- Cấp phủ - châu: là cấp hành chính dưới cấp lộ - trại, tuỳ thuộc vào khu vực địa lý mà có tên
gọi khác nhau: phủ đặt ở vùng đồng bằng, trại đặt ở miền núi. Đứng đầu phủ là Tri phủ, đứng đầu
châu là Tri châu;
- Cấp hương – xã – sách: là cấp hành chính cơ sở dưới cấp phủ - châu.
4.1.2. Nhà Trần - Hồ giai đoạn từ 1225 – 1407
Năm 1225 nhà Trần lên thay nhà Lý, cai trị nước ta đến 1400 với 12 đời vua, sau đó bị nhà Hồ
cướp ngôi. Nhà Hồ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, lại đối phó với âm mưu xâm lược của kẻ thù và
đến năm 1407 thì bị thất bại trước nhà Minh (Trung Quốc) vì thế tổ chức bộ máy nhà nước ở trung
ương cũng như ở địa phương cơ bản vẫn tiếp tục duy trì mô hình của nhà Trần, hơn thế nữa thời gian
tồn tại khoảng 7 năm của nhà Hồ là sự phát triển liên tục từ nhà Trần trước đó.
4.1.2.1.
Tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương
- Vua:
“Chính thể lưỡng đầu” tồn tại một cách phổ biến dưới các triều vua nhà Trần và cả nhà Hồ.
Theo đó, có hai người cùng nhau trị vì đất nước gồm Thái Thượng Hoàng và Vua. Trong chính thể
này, Vua là người nguyên thủ thực sự trị vì thiên hạ, còn Thái Thượng Hoàng là vị nguyên thủ tối cao,
có uy quyền ngay cả đối với Vua, có chức năng tư vấn tối cao cho Nhà Vua.
- Các quan đại thần:
Ngoài những chức quan đã có từ thời nhà Lý, các quan đại thần thời nhà Trần còn có thêm một
số chức quan mới. Bao gồm:
Đứng đầu hàng ngũ quan lại trong triều là Tể tướng17;
Quan đại thần chia thành hai ngạch: ngạch quan văn và ngạch quan võ 18, gồm:
Tam thái gồm: thái sư, thái phó, thái bảo;
Tam thiếu gồm: thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo;
Thái uý;
Thiếu uý;
Tam tư gồm: Tư đồ (phụ trách việc ngoại giao, văn hóa, lễ nghi), Tư mã (phụ trách công việc
chinh phạt như quốc phòng, an ninh, tư pháp), Tư không (phụ trách các công việc khác).
- Các cơ quan chuyên môn: bao gồm
Ngự sử đài: là cơ quan có chức năng giúp vua kiểm tra hoạt động của đội ngũ quan lại, gồm
có 3 viện nhỏ: Đài viện, Sát viện và Điện viện. Theo Đỗ Văn Ninh 19 thì chức năng của 3 viện như
sau:
Đài viện có các Thị ngự sử đài đàn hặc bá quan, kiểm soát ngục tụng.
Điện viện có Điện trung thị ngự sử kiểm soát nghi thức.
17 “Chức Tể tướng thì chọn trong tôn thất người nào tài giỏi, có đạo đức nghệ thuật, thông hiểu thi thư thì cho làm.” –
Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd tr. 419.
18 “Quan chế đời Trần đại yếu lấy ba chức thái, ba chức thiếu, thái úy, tư đồ, tư mã, tư không làm trọng chức của đại
thần văn võ. Chức tể tướng thì thêm danh hiệu tả hữu tướng quốc bình chương sự.” – Lịch triều hiến chương loại chí, sđd,
tr. 445.
19 Từ điển chức quan Việt Nam, sđd, tr. 521.
9
Sát viện có Giám sát ngự sử kiểm soát quận huyện.
Đứng đầu là Ngự sử đại phu (đời vua Trần Thái Tông, tháng 12, năm 1246 cho Trương Mông
làm Ngự sử đại phu).
Sách Lịch triều hiến chương loại chí cũng cho biết thêm là “Chức Ngự sử, đời Lý về trước chưa
đặt. Đời Trần mới đặt Ngự sử đài, có những chức Thị ngự sử, Giám sát ngự sử, Ngự sử trung tán,
Ngự sử trung thừa, Ngự sử đại phu, Chủ thư ngự sử.”20
Bình Bạc ty: là cơ quan xét xử việc kiện tụng ở kinh thành, được thành lập năm 1230.
Thẩm hình viện: là cơ quan có chức năng định tội.
Tôn chính phủ: có chức năng coi giữ việc sổ họ hàng tôn thất – soạn thảo gia phả cho nhà
vua, đứng đầu là quan Đại tôn chính, do người trong tôn thất phụ trách.
Giảng võ đường: là cơ quan có chức năng đào tạo quan võ, được thành lập năm 1253 đời vua
Trần Thái Tông.21
Tư thiên giám: phụ trách việc làm lịch, xem thiên văn, dự báo thời tiết, suy việc lành dữ.
Tam ty viện: được thành lập vào tháng 3, năm 1250 đời vua Trần Thái Tông, có chức năng
trông coi việc hình ngục, giam giữ phạm nhân. Tam ty viện gồm các viện: Phụng Tuyên, Thanh Túc,
Hiến Chính, chức năng của các viện cụ thể như thế nào thì không rõ.
Khu mật viện: được đổi từ Khu mật sứ thời nhà Lý, có chức năng tham dự, bàn bạc việc triều
chính. Đứng đầu có Đại sứ, giúp việc có Phó sứ.
Quốc học viện: Được thành lập tháng 6, năm 1253 đời Trần Thánh Tông 22 (đổi từ cơ quan
Quốc tử giám nhà Lý trước đó), có chức năng chuyên đào tạo sĩ tử và quan lại.
Quốc sử viện: có chức năng biên chép sử cho triều đình. Đứng đầu là Quốc sử viện giám tu.
(Đời vua Trần Thánh Tông có Lê Văn Hưu là Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu vâng
chỉ soạn thảo xong bộ Đại Việt sử ký 23).
Thái y viện: là cơ quan có chức năng chăm sóc sức khoẻ cho nhà vua, hoàng tộc và triều
đình.
4.1.2.2.
Tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương
- Giai đoạn từ năm 1226 đến năm 1396
Năm 1242, vào đời Vua Trần Thái Tông, đã tiến hành cải cách về mô hình các cấp chính quyền
địa phương24, theo đó chính quyền địa phương được chia làm các cấp sau đây:
Cấp lộ: cấp hành chính cao nhất ở địa phương, cả nước chia thành 12 lộ, đứng đầu lộ là An
phủ chánh sứ, có An phủ phó sứ giúp việc.
20 Sđd, tập I, tr. 467.
21 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr. 424.
22 “Tháng 6, lập Quốc học viện, tô tượng Khổng Tử, Chu Công, Á Thánh, vẽ tượng 72 người hiền để thờ”, Ngô Sĩ Liên,
Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tập I,
tr. 424
23 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tập I, tr. 444.
24 “Nhâm Dần, năm thứ 11 (1242)…mùa xuân, tháng 2, chia cả nước ra làm 12 lộ đặt chức An phủ hoặc Trấn phủ chánh
phó hai viên để cai trị. Các xã, sách thì đặt chức Đại, Tiểu tư xã, từ ngũ phẩm trở lên là Đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống
là là Tiểu tư xã hoặc có người kiêm 2, 3, 4 xã, cùng xã chính, xã sử, xã giám, gọi là xã quan.”, Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký
toàn thư, tập I, Sđd, tr. 416.
10
Cấp phủ - châu: dưới cấp lộ ở miền xuôi chia thành phủ, đứng đầu là quan Tri phủ, ở miền
núi chia thành châu đứng đầu có Tàu vận sứ.
Cấp xã: đứng đầu là xã chính, giúp việc có Xã giám, Xã sử.
- Giai đoạn từ 1397 đến 1400
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, thì năm 1397 đời vua Trần Thuận Tông đã tiến hành phân chia lại
các đơn vị hành chính thành 5 cấp sau đây25:
Cấp lộ: đứng đầu là quan An phủ sứ, giúp việc có Phó phủ sứ;
Cấp phủ: đứng đầu là quan Trấn phủ sứ, giúp việc có Trấn phủ phó sứ;
Cấp châu: đứng đầu là quan Thông phán, giúp việc có Thiêm phán. Ở miền núi gọi là châu
Kimi do các tộc trưởng, tù trưởng đứng đầu.
Cấp huyện: đứng đầu là Lệnh uý, giúp việc có Chủ bạ.
Cấp xã: gồm có các xã quan: xã chính, xã sử, xã giám. Đứng đầu xã lớn gọi là Đại tư xã,
đứng đầu xã nhỏ gọi là Tiểu tư xã.
25 “Định quy chế quan ngoài. Lộ đặt An phủ sứ và Phó sứ, phủ đặt Trấn phủ sứ và Phó sứ, châu đặt Thông phán, Thiêm
phán, huyện đặt Lệnh úy, chủ bạ, để cai trị. Lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện.”
11
CHƯƠNG V: TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC THỜI LÊ SƠ
5.1. Khái quát trạng thái xã hội thời Lê sơ (1428 – 1527)
Hầu hết các nhà nghiên cứu lịch sử đều khẳng định đây là giai đoạn phát triển rực rỡ, hưng thịnh
nhất trong suốt hơn 1000 năm tồn tại và phát triển của nhà nước phong kiến với chính thể quân chủ ở
Việt Nam trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, pháp luật, quân sự, văn hoá, xã hội…
Chúng ta biết rằng, sau khi vương triều nhà Hồ (1400 – 1407) sụp đổ vào năm 1407, quân xâm
lược Minh đặt ách đô hộ lên nước ta sau gần 500 năm độc lập tự chủ. Sự hiện diện và chính sách nô
dịch trong vòng 20 năm (1407 – 1427) của nhà Minh đã tàn phá nghiêm trọng nền kinh tế - xã hội mà
các triều đại Lý - Trần gây dựng nên. Cuộc kháng chiến chống Minh do Lê Lợi khởi xướng đã đem
lại độc lập dân tộc cho nước nhà vào năm 1428 và bắt tay khôi phục lại trạng thái kinh tế, chính trị,
xã hội vốn điêu tàn, mà trước hết là khôi phục các thiết chế chính trị và nền kinh tế nông nghiệp.
- Về chính trị - pháp lý: sau khi đánh tan quân Minh, uy tín và vị thế của nhà Lê có sự chuyển
biến rõ rệt, dân chúng ủng hộ nhà Lê; các công thần mưu lược ra sức cùng vua Lê khôi phục và phát
triển mạnh mẽ thể chế quân chủ trung ương tập quyền. Nhà Lê sơ (thế kỷ XV) tồn tại được 100 năm
(1428 – 1527) trải qua 10 đời vua. Trong thời gian này, đựơc chia làm ba mốc quan trọng trong đời
sống chính trị. Từ năm 1428 đến năm 1460 là thời kỳ hậu chiến nên nền chính trị cũng như các thiết
chế về tổ chức bộ máy chưa thực sự phát triển mạnh; giai đoạn 1460 -1497, (thời vua Lê Thánh
Tông), được coi là thời kỳ cực thịnh trên tất cả các lĩnh vực không chỉ của nhà Lê mà của hơn 1000
năm phong kiến Việt Nam; và giai đoạn 1498 – 1527 là giai đoạn nhà Lê rơi vào trạng thái suy vong.
Riêng về tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê Sơ được chia làm hai giai đoạn: (giai đoạn: 1428 1460 (trước cải cách của vua Lê Thánh Tông) và giai đoạn: 1460 - 1527 (cải cách của vua Lê Thánh
Tông).
- Giai đoạn 1428 – 1460: đây là thời kỳ hậu chiến, tình trạng “thù trong giặc ngoài” đang tiếp tục đe
dọa chính quyền non trẻ nhà Lê. Chức năng và nhiệm vụ chính yếu nhất của lực lượng cầm quyền
nhà Lê là bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc nên tổ chức bộ máy nhà nước mang tính quân
sự với nền hành chính quân quản; đồng thời kế thừa tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý – Trần.
- Giai đoạn: 1460 - 1527 (cải cách của vua Lê Thánh Tông). Sau 32 năm độc lập tự chủ, xã hội thời
Lê thanh bình, thịnh vượng; đời sống vật chất và tinh thần trong dân chúng chuyển biến rõ rệt theo
chiều hướng tích cực. Vì vậy vua Lê Thánh Tông chủ trương xóa bỏ tổ chức bộ máy nhà nước theo
mô hình “quân quản” và tiến hành cuộc cải cách rộng khắp từ trung ương xuống địa phương; đồng
thời nâng cao vị thế tuyệt đối của hoàng đế.
So với các triều đại trước, thời nhà Lê, tổ chức bộ máy nhà nước cũng như các thiết chế khác
trong việc thực hiện quyền lực chính trị đã thực sự có nhiều bước phát triển, ổn định hơn; hoạt động
xây dựng pháp luật được chú trọng hơn bao giờ hết, nhất là dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 –
1497). Với gia tài pháp luật của mình, nhà Lê sơ đã để lại những dấu ấn tích cực (cả về số lượng và
chất lượng) trong tiến trình lập pháp của dân tộc Việt Nam, nổi bật nhất là Bộ Luật Hồng Đức với
722 điều (còn gọi là Quốc triều hay Lê triều Hình luật) được hoàn chỉnh thời vua Lê Thánh Tông
dưới niên hiệu Hồng Đức – 1470.
- Về kinh tế: nhà Lê tiếp tục phát huy sản xuất nông nghiệp, xóa bỏ chế độ điền trang thái ấp của
các thời kỳ trước, nhất là chế độ tư hữu phát triển thực chất hơn nhằm khuyến khích nền sản xuất và
tích lũy tài sản. Chính sách hạn điền đã thu hẹp quyền tư hữu của tầng lớp quan lại phong kiến và tạo
điều kiện, cơ hội tích lũy ruộng đất cho tất cả mọi người không phân biệt giai cấp. Chính điều này
kéo theo sự phát triển của các định chế pháp lý về quyền tư hữu, khung pháp luật cho các giao dịch
dân sự, thừa kế về ruộng đất ngày càng hoàn thiện hơn. Nhìn chung, với chính sách ruộng đất mới đã
12
phát huy hiệu quả, nền kinh tế nông nghiệp có nhiều bước phát triển vượt bậc, đời sống vật chất của
người dân được cải thiện rất nhiều. Có thể khái quát sự thịnh vượng của nền kinh tế thời nhà Lê (thế
kỷ XV) bằng hai câu ca dao:
“Đời vua (Lê) Thái Tổ, Thái Tông
Lúa mọc đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”
Bên cạnh nền kinh tế nông nghiệp, nhà Lê từng bước thừa nhận nền kinh tế hàng hóa, trao đổi. Vì
vậy pháp luật về quyền tư hữu, hợp đồng dân sự (đoạn mại, điển mại,…) rất phát triển, tạo hành lang
pháp lý an toàn cho hoạt động trao đổi, mua bán.
- Về tư tưởng: từ cuối thời Trần, Nho giáo đã dần dần lấn át Phật giáo. Đến thời Lê sơ, vua Lê
Lợi (tức Lê Thái Tổ) đã khẳng định Nho giáo là ý thức hệ chủ đạo trong đời sống tư tưởng của toàn
bộ xã hội. Tuy nhiên, cho đến thời vua Lê Thánh Tông, Nho giáo được đưa lên địa vị độc tôn và trở
thành hệ tư tưởng lý luận chính thống để cụ thể hóa thành các thiết chế chính trị, định chế pháp lý và
trên cở sở đó, củng cố, thống nhất chính thể quân chủ trung ương tập quyền phù hợp với nền kinh tế
nông nghiệp.
Giáo lý Nho giáo trở thành “bệ đỡ” tinh thần, là ngọn đuốc lý luận để soi đường cho chính thể
quân chủ nhà Lê vững bước đi lên. Nho giáo có mặt khắp nơi và được sử dụng vào nhiều mục đích
khác nhau, được biến tấu dưới nhiều hình thức: Nho giáo được chuyển thể thành ca dao, tục ngữ hay
khúc hát ru để răn dạy người đời (ví dụ bài Nhị thập tư hiếu – hai mươi tư điều hiếu nghĩa của con cái
dối với cha mẹ do vua Lê Thánh Tông biên soạn); Nho giáo được sử dụng trong việc giáo dục, học
hành và thi cử của sĩ tử; các chuẩn mực của Nho giáo được cụ hể hóa thành các quy phạm pháp luật,
các giá trị kinh điển của Nho giáo quy định nội dung của hệ thống pháp luật nhà Lê,…Thậm chí, các
vua nhà Lê còn dùng các chủ thuyết chính trị của Nho giáo để bài xích, chống lại nạn các thói hư, tật
xấu mà trước hết là của đội ngũ quan quyền.
Bên cạnh Nho giáo, một số nội dung của hệ tư tưởng Pháp gia (Pháp trị) được vận dụng một cách
linh hoạt và ảnh hưởng rất lớn đến pháp luật nhà Lê. Nói cách khác, pháp luật nhà Lê là sự kết hợp
của nhiều yếu tố, trong đó, nổi bật là sự dung hòa giữa hai hệ tư tưởng lớn: Nho gia và Pháp gia.
Tóm lại, bức tranh xã hội nhà Lê thế kỷ XV (1428 – 1527) đã đạt đến mức hoàn mỹ trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế - chính trị, pháp lý – xã hội; chính thể quân chủ nhà Lê trở thành tấm gương sáng
ngời và để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá, nhiều giá trị kinh điển trong tiến trình xây dựng
nhà nước pháp quyền hiện nay cũng như ở một số định chế pháp lý cụ thể, nổi bật nhất là trong cuộc
chiến chống tham nhũng.
5.2. Tổ chức bộ máy nhà nước giai đoạn đầu Lê sơ (1428 – 1460)
5.2.1. Chính quyền trung ương
5.2.1.1.
Vua
Tất cả quyền hành tối cao của bộ máy nhà nước khi đó đều tập trung vào triều đình. Đứng đầu
triều đình là Nhà Vua, theo nhà sử học Phan Huy Chú thì dưới Vua có những chức quan trọng yếu
như sau: “quan chế nhà Lê lúc đầu đại yếu lấy tả hữu tướng quốc kiểm hiệu bình chương quân quốc
trọng sự, đại tư đồ, tư không, đại tư mã, tư khấu, thái phó, thái bảo, thái uý, thiếu phó, thiếu bảo,
thiếu uý, tả hữu bộc xạ, hữu bật, thượng thư lệnh, đặc tiến khai phủ nghi đồng tam ty, tham dự triều
chính, làm trọng chức của các đại thần văn võ, trao cho các thân thuộc của nhà vua và bày tôi có
công. Lại có Chính sự viện để giữ then chốt, dùng cả văn võ (có những chức Tham tri chính sự, Tham
nghị, đồng Tham nghị, sau lại đặt Chính sự viện thượng thư)26.
5.2.1.2.
Tả, Hữu Tướng quốc và các quan đại thần
26 Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, nxb KHXH, Hà Nội, 1992, tập I, tr. 448
13
Trong lịch sử quan chế Việt Nam, các triều đại từ nhà Tiền Lê đã xuất hiện chức quan thực hiện
giống như công việc của Tể tướng bên Trung Quốc, nhưng không gọi bằng cái tên Tể tướng mà được
gọi bằng những cái tên khác nhau tùy từng thời kỳ. Ở thời kỳ đầu của thời Lê sơ, chức việc thực hành
giống như Tể tướng được gọi là Tướng quốc, bao gồm: Tả Tướng quốc và Hữu Tướng quốc. Tả, Hữu
Tướng quốc là chức quan quan trọng trong triều, thường được gia thêm “kiểm hiệu bình chương quân
quốc trọng sự” đứng đầu về mặt hành chính, giúp Vua quản lý toàn bộ đội ngũ quan lại trong nước.
Khi Lê Lợi mới lên ngôi đã phong cho Trần Nguyên Hãn giữ chức Tả tướng quốc, thái tử Tư Tề chức
Hữu tướng quốc. Lê Quý Đôn đã cho biết: “Đồng Hanh Phát tâu vua Nhân Tông rằng: Bản triều
trọng dụng duy ở Tể tướng và Hành khiển. Bởi vì chức Tể tướng giữ cả trách nhiệm hữu nạp ngôn
trong Môn hạ sảnh và đồng tham nghị trong Chính sự viện…”27.
Cũng như các triều đại trước, triều Lê sơ thời kỳ đầu cũng gồm các quan đại thần như Đại tư
đồ, Đại tư mã, Tư không, Tư khấu, Tam Thái, Tam thiếu… các chức quan này thường được trao cho
những đại công thần, tiếng nói của họ rất quan trọng trong triều, họ là những người có công lao rất
lớn với triều đình, mặc dù năng lực quản lý của họ đôi khi rất hạn chế 28, đặc biệt thời kỳ này vẫn theo
quan chế của nhà Trần là đối với các quan đại thần này, Nhà Vua thường cho họ kiêm nhiệm chức
việc của Tể tướng nên quyền lực của họ rất lớn.
5.2.1.3.
Các cơ quan có chức năng cố vấn cho Vua trong việc chính sự:
- Tam sảnh, thời kỳ đầu thời Lê sơ, vua Lê Thái Tông đã học tập quan chế của nhà Trần để lập
ra Tam sảnh. Tam sảnh bao gồm Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh. Lê Quý Đôn cho
biết: “nhà Trần phỏng theo chế độ nhà Tống đặt ba sảnh, Thượng thư sảnh giữ công việc về quan
chức; Trung thư sảnh bàn luận việc lớn; Môn hạ sảnh xét kỹ lại rồi giao cho Trung thư sảnh thi
hành…”29
- Thượng thư sảnh, thời Trần học tập xây dựng bộ máy nhà nước theo mô hình Trung Quốc
thời kỳ nhà Tống (mô hình Tam sảnh của Trung Quốc đã có từ thời Tùy Đường 30), nhà Trần đã thành
lập Tam sảnh, trong đó có Thượng thư sảnh, lúc đó quan đứng đầu sảnh này gọi là Hành khiển, đến
thời kỳ đầu Lê sơ, viên quan đứng đầu sảnh này được đổi tên gọi là Thượng thư lệnh. Nhiệm vụ của
Thượng thư sảnh là thực hiện công việc sự vụ của các quan chức 31.
- Trung thư sảnh là cơ quan thuộc Tam sảnh, cũng có từ thời Trần, Trung thư sảnh có chức
năng giữ việc thương lượng, giúp lời khuyên về các việc trọng đại của quốc gia 32, Trung thư sảnh có
các chức quan như Trung thư lệnh (đứng đầu), rồi đến Thị lang, Xá nhân, Trước tác, cuối cùng là
Sảnh thuộc. Trung thư sảnh là cơ quan nắm giữ quyền lực rất lớn, trong thực tế Vua thường giao cho
Tể tướng kiêm giữ quyền Trung thư lệnh.
- Môn hạ sảnh cũng nằm trong Tam sảnh. Môn hạ sảnh giữ quyền thẩm tra, kiểm duyệt mọi
việc, sau đó mới cho ban bố thi hành33. Môn hạ sảnh có các chức quan như chức quan phụ trách sảnh
là quan Tri ty sự, rồi đến Thị lang, Lang trung...
- Chính sự viện, đây là cơ quan khá quan trọng, được đặt vào thời đầu Lê sơ, thành viên của
Chính sự viện bao gồm các quan văn võ đại thần trong triều cùng tham dự. Quan đứng đầu Chính sự
27 Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, NXB Văn hóa thông tin, 2007, tr.132
28 Ví dụ như Đại tư đồ Lê Sát, Tư khấu Lê Ngân chuyên quyền về sau đều bị giết.
29 Lê Quý Đôn, sđd, tr. 132
30 Một số nhà nghiên cứu dịch sảnh l tỉnh. Theo mô hình thời Tuỳ Đường thì Trung thư tỉnh đề xuất chủ trương, Môn hạ
tỉnh thẩm duyệt biện bác, Thượng thư tỉnh chấp hành.
31 Nguyễn Công Việt, Ấn chương Việt Nam từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX, NXB KHXH, Hà Nội, 2005, tr. 118
32 Nguyễn Công Việt, sđd, tr. 118
33 Nguyễn Công Việt, sđd, tr. 118
14
viện lúc đầu là Tham tri chính sự sau đổi gọi làm Chính sự viện thượng thư. Chức năng của Chính sự
viện theo như Phan Huy Chú là giữ then chốt về chính trị34.
- Nội mật viện (tức Khu mật viện). Sử cũ cho biết: “nhà Lê buổi đầu theo quan chế của nhà
Trần, đặt Nội mật viện, có chức Viện sứ, Phó tri viện sự, Đồng tri, Thiêm tri viện sự” 35. Như vậy,
đứng đầu Nội mật viện là quan Nội mật viện sứ. Không thấy sử sách nói về nhiệm vụ cụ thể của Nội
mật viện. Theo Đỗ Văn Ninh thì Nội mật viện cùng với Tam sảnh, ba Bộ dưới quyền của Tả, Hữu
Tướng quốc chia nhau giữ việc nước36. Cũng theo một số nhà nghiên cứu khác thì cho rằng nếu như
thành viên Chính sự viện bao gồm rộng rãi các quan đại thần văn võ thì Nội mật viện chỉ gồm các
thành viên thân tín của Nhà Vua37, với chức năng cố vấn những việc quân cơ, đại sự cho Nhà Vua.
Đây là cơ quan cố vấn cho Nhà Vua cũng có quyền lực rất lớn.
5.2.1.4.
Các bộ
Bộ là cơ quan chuyên môn quan trọng giúp Nhà Vua trong việc quản lý đất nước. Theo mô hình
của nhà nước phong kiến Trung Hoa, tổ chức bộ điển hình và hoàn chỉnh là bao gồm Lục bộ. Tuy
nhiên, theo như ghi chép của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, phần Quan chức
chí thì cho thấy Lê Thái Tổ lúc lên ngôi mới chỉ đặt ra hai bộ là bộ Lại và bộ Lễ, còn trong sách Dư
địa chí của Nguyễn Trãi thì cho thấy bấy giờ đã có thêm bộ Dân (bộ Hộ). Như vậy, thời kỳ này đã có
3 bộ là bộ Lại, bộ Lễ và bộ Hộ, đứng đầu mỗi bộ, cũng như ở các triều đại khác, vẫn là Thượng thư
và chức phó là Tả, Hữu Thị lang. Bộ Lại với chức năng phong quan chức cho các công thần, bộ Lễ
quy định những nghi thức, lễ nghi, bang giao, học hành thi cử. Bộ Hộ trông coi việc thu chi tài chính
trong cả nước, đồng thời quản lý về ruộng đất. Năm 1460, sau khi cướp ngôi, Nghi Dân trong quá
trình củng cố triều đình mới lập đủ Lục bộ và thành lập Lục khoa để giám sát Lục bộ.
5.2.1.5.
Các cơ quan có chức năng văn phòng:
- Hàn lâm viện, Hàn lâm viện có chức năng giúp Vua soạn thảo các chiếu, chế, biểu… Hàn
lâm viện đã được thành lập từ thời Lý, thời Lý quan đứng đầu Hàn lâm viện là quan Học sĩ, thời Trần
đổi lại là Phụng chỉ. Thời kỳ đầu Lê sơ lúc đầu theo quan chế nhà Trần cũng đặt chức Phụng chỉ
(Nguyễn Trãi từng giữ chức này) sau lại đổi là Hàn lâm đại học sĩ. Dưới đó có các chức Thừa chỉ,
Học sĩ, Thị giảng, Thị độc, Trực học sĩ, Tri chế cáo, Đãi chế, Hiệu khám.
- Hoàng môn sảnh chỉ có chức Thị lang phụ trách. Đây là cơ quan giữ bảo ấn của Vua và phụ
giúp công việc cho Môn hạ sảnh.
- Nôi thị sảnh có các chức Đô tri, Chánh giám, Phó giám, Xá nhân các cục thân tuỳ.
- Ngự tiền tam cục (tức ba cục Cận thị, Chi hậu, Học sĩ), mỗi cục đều có Cục trưởng, Cục phó.
- Tam quán (tức Nho lâm quán, Sùng văn quán, Tú lâm cục) có các chức Tri quán sự, Tư huấn,
Điển nghĩa. Tam quán chắc có lẽ là các trường giảng dạy cho các Nho sĩ.
5.2.1.6.
Các cơ quan có chức năng tư pháp, giám sát:
- Ngũ hình viện, theo ghi chép của Phan Huy Chú, bấy giờ trong triều có một cơ quan trông
coi việc hình án tức là cơ quan phụ trách công việc xét xử, đó là Ngũ hình viện. Ngũ hình viện gồm 5
viện là Thẩm hình, Tả hình, Hữu hình, Tường hình và Tư hình. Có các chức quan như Lang trung,
34 Phan Huy Chú, sđd, tr. 448
35 Phan Huy Chú, sđd, tr. 467
36 Đỗ Văn Ninh, Từ điển chức quan Việt Nam, NXB Thanh niên, HN, 2006, tr. 548
37 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, NXB Công an nhân dân, 2003, tr.
160
15
Đại phu, Viện sứ, Trị viên sự, Thiêm tri viện sự cùng Giám sát ngũ hình. Không thấy tài liệu cổ ghi
chép cụ thể về công việc của mỗi viện trong Ngũ hình viện như thế nào.
- Ngự sử đài, cơ quan này được đặt ra đầu tiên dưới thời Trần, có các chức Thị ngự sử, Trung
thừa, Phó trung thừa, Giám sát ngự sử, Chủ bạ. Lê Quý Đôn cho biết: “hồi quốc sơ, theo chế độ nhà
Trần, đặt Ngự sử đài giữ việc xem xét, chấn chỉnh kỷ cương trong triều, gọi là ngôn quan; nếu có
việc ngục tụng lớn, thì đặc chỉ giao cho tra hỏi, còn việc ngục tụng nào cần phải xét lại thì không
giao qua Ngự sử đài…”38 Như vậy, Ngự sử đài là cơ quan giữ phong hiến, pháp độ (tức là giám sát
các chức quan và các cơ quan khác trong triều, can gián nhà vua).
5.2.1.7.
Các cơ quan chuyên môn khác
- Quốc sử viện, đây là cơ quan từ thời Trần đã thành lập. Việc ghi chép sử là một công việc rất
quan trọng đối với các hoàng đế Đại Việt, cho nên Quốc sử viện có nhiệm vụ ghi chép, biên soạn
những bộ chính sử của triều đình. Thời kỳ này, quan phụ trách Quốc sử viện là Tu soạn.
- Quốc tử giám đã xuất hiện lần đầu vào năm 1076 từ thời Lý, năm 1253 đổi làm Quốc học
viện. Thời kỳ đầu Lê sơ lại cho gọi là Quốc tử giám, chức quan cao nhất của cơ quan này là Quốc tử
giám Tế tửu, dưới đó là các chức Trực giảng, Bác sĩ, Giáo thụ. Quốc tử giám là trường chuyên đào
tạo Nho học cho tất cả các Nho sĩ trong nước.
- Thái sử viện, đứng đầu là Thái sử lệnh, dưới đó là Thái sử thừa, Linh đài lang, Thái chúc và
Chưởng lịch. Thái sử viện có lẽ chỉ chức năng trông coi, xếp đặt các bài vị trong việc cúng tế trong
triều39.
Nhìn chung, tổ chức chính quyền trung ương thời kỳ đầu Lê sơ vẫn còn chịu ảnh hưởng của bộ
máy nhà nước thời Trần rất đậm nét, nguyên do là vì lúc đó nhà Lê mới giành được đất nước nên
chưa có đủ thời gian để thực hiện những bước thay đổi lớn.
5.2.2. Chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương thời kỳ đầu Lê sơ gồm các cấp: đạo; lộ (trấn, phủ); châu; huyện và xã.
5.2.2.1.
Cấp đạo
Theo Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép lại vào tháng 3/1428, Lê Thái Tổ đã: “chia cả nước làm
5 đạo… Lại đặt chức Hành khiển các đạo để chia giữ sổ sách về quân, dân” 40. Như vậy, nước Đại
Việt lúc đó được chia làm 5 đạo, cụ thể: Đông đạo, Bắc đạo, Tây đạo, Nam đạo, và Trung đạo. Đứng
đầu đạo có quan Hành khiển phụ trách quân đội, quản lý hành chính, thu thuế, xét xử…
5.2.2.2.
Cấp lộ - trấn - phủ :
Sử cũ đã nhắc đến dưới cấp đạo có các cấp như lộ, trấn, phủ. Tuy nhiên, chúng ta không biết
một cách chính xác mối liên hệ giữa các cấp lộ, trấn, phủ diễn ra cụ thể như thế nào. Chỉ thấy Đại
Việt sử ký toàn thư có ghi chép: “Ấn công thì do chánh quan giữ. Ở các lộ thì Tri phủ giữ ấn, không
có Tri phủ thì Trấn phủ giữ ấn” 41. Lịch triều hiến chương loại chí thì chép: “Triều nhà Lê đặt quan
các lộ, đặt chức Tri phủ, Đồng tri phủ, ở lộ đặt chức Tri phủ trưởng ấn. Bấy giờ việc coi lộ coi phủ
có lẽ cũng như nhau”42. Theo các tác giả của giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam của
38 Lê Quý Đôn, sđd, tr. 130
39 Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,
2003, tr. 160
40 Ngô Sĩ Liên, trang 293.
41 Ngô Sĩ Liên, sđd, tr. 298
42 Phan Huy Chú, sđd, tr. 478
16
Đại học Luật Hà Nội cho rằng có lẽ lộ và phủ là cấp hành chính tương đương nhau, nên Phan Huy
Chú mới có nhận xét trên và tháng 6 năm 1466 Lê Thánh Tông mới đổi lộ thành phủ43.
5.2.2.3.
Cấp châu :
Lịch triều hiến chương loại chí có chép: “Nhà Lê lúc mới dựng nước, đặt các chức Thiêm phán,
Tào vận, lại đặt các chức Phòng ngự sứ và Chiêu thảo sứ ở các châu... Lại có chức Tri châu, Đại tri
châu để bổ cho các tù trưởng ở ngoại phiên… Vì bấy giờ theo lệ nhà Trần, chức coi châu còn thống
cả huyện nên chức việc rất nhiều”44.
Như vậy, theo suy đoán của các tác giả Trường đại học Luật Hà Nội 45 có lẽ châu là một đơn vị
hành chính trên cấp huyện và dưới cấp lộ – trấn – phủ, các chức quan phụ trách ở châu là Thiêm
phán, Tào vận, Phòng ngự sứ và Chiêu thảo sứ, nhưng vì hạn chế của sử liệu nên chưa biết thứ tự các
chức quan cao thấp ra sao, thống thuộc nhau thế nào, ngoài ra, các châu ở vùng xa có thêm các chức
Tri châu, Đại tri châu.
5.2.2.4.
Cấp huyện:
Theo ghi chép của sử cũ thì thời này cấp huyện có các chức quan phụ trách như Tuần sát,
Chuyển vận sứ và Chuyển vận phó sứ.
5.2.2.5.
Cấp xã:
Theo ghi chép trong sử cũ, vua Lê Thái Tổ đã cho “đặt xã quan, xã lớn 100 người trở lên thì
đặt 3 người, xã vừa 50 người trở lên đặt 2 người, xã nhỏ 10 người trở lên đặt 1 người” 46. Như vậy,
phụ trách xã là xã quan, việc số xã quan nhiều hay ít trong một xã sẽ tuỳ thuộc vào số lượng dân đinh
trong xã đó.
5.3. Tổ chức bộ máy nhà nước giai đoạn từ Lê Thánh Tông trở về sau
Giai đoạn này bắt đầu từ khi Lê Tư Thành lên ngôi (tức Lê Thánh Tông: 1460 – 1497) và kết
thúc năm 1527. Cuộc cải cách chính quyền của Lê Thánh Tông như trong sắc dụ hiệu định quan chế,
chủ yếu để tập trung tăng cường quyền lực của nhà vua và khiến cho bộ máy nhà nước hoạt động
hiệu quả hơn. Đây là mục tiêu quan trọng nhất trong khâu cải cách hành chính vì chính quyền trung
ương là cơ quan đầu não của đất nước, có xây dựng một chính quyền trung ương vững mạnh, thể hiện
quyền lực nằm trong tay nhà vua và triều đình trung ương mới có thể thực hiện được các công việc
của triều đình, của đất nước, tạo cơ sở để triển khai các công việc xuống các địa phương. Cuộc cải
cách trên lĩnh vực này đã được Lê Thánh Tông tiến hành như sau:
- Trước hết, Vua trực tiếp nắm quyền chỉ đạo mọi công việc quan trọng của nhà nước cũng
như mối liên hệ với các cơ quan thừa hành, các quan chức (Tướng quốc, Đại hành khiển, Tả Hữu bộc
xạ…) và các cơ quan trung gian giữa Vua và các cơ quan thừa hành (Thượng thư sảnh, Trung thư
sảnh, Môn hạ sảnh, Khu mật viện) bị bãi bỏ. Trường hợp cần thiết, Vua mời một số đại thần có hàm
Tam Thái, Tam Thiếu đến bàn bạc hoặc thay Vua giải quyết công việc.
- Khi bãi bỏ những chức quan, cơ quan làm nhiệm vụ trung gian giữa Nhà Vua với triều đình
thì Lê Thánh Tông đã phải thực hiện nguyên tắc tản quyền đó là không để tập trung quá nhiều quyền
hành vào một hay một số cơ quan mà được trao cho nhiều cơ quan, để ngăn chặn sự lạm quyền. Để
thực hiện điều này Lê Thánh Tông đã tách 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) ra khỏi Thượng thư
43 Đại học Luật Hà Nội, sđd, tr. 162
44 Phan Huy Chú, sđd, tr. 479
45 Đại học Luật Hà Nội, sđd, tr 163
46 Ngô Sĩ Liên, sđd, tr. 297
17
sảnh để lập 6 cơ quan riêng cai quản các mặt hoạt động khác nhau của nhà nước. Mỗi bộ có một
Thượng thư phụ trách, chịu trách nhiệm trước Nhà Vua. Ngoài ra, Vua còn đặt 6 tự (Thượng bảo, Đại
lý, Quang lộc, Hồng lô…) phụ trách công việc phụ của 6 bộ. Vua làm việc trực tiếp với 6 bộ, 6 tự và
6 khoa. Một số thự, cục cấp dưới không còn nữa. Bộ máy nhà nước trung ương trở nên đơn giản hơn.
Mọi công việc trong triều đình phải được báo cáo trực tiếp với Vua và phải được bản thân Vua ra
quyết định.
- Đề cao và tăng cường công tác thanh tra, giám sát quan lại bằng cách lập 6 khoa tương ứng
với 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) để mỗi khoa cùng với Ngự sử đài giám sát hoạt động của bộ
tương ứng, đàn hặc quan lại của bộ mắc lỗi. Ngay cả bộ Lại – bộ đứng đầu nhà nước và chịu trách
nhiệm thăng bổ, bãi miễn quan lại – nếu làm sai nguyên tắc cũng bị Lại khoa bắt bẻ, tố giác. Lê
Thánh Tông nói: “Như thế khiến cho quan to chức lớn đều ràng buộc lấy nhau, chức trọng chức
khinh cùng kiềm chế lẫn nhau. Uy quyền không bị lợi dụng, thế nước vậy là khó lay”47.
- Bỏ chế độ chỉ bổ dụng các vương hầu quý tộc vào trọng trách của triều đình. Những người
được giao các trọng trách ấy phải là người đỗ đạt các kỳ thi nghiêm ngặt, dù họ thuộc bất cứ thành
phần nào trong xã hội (trừ người thuộc diện cấm thi). Các thân vương, công hầu… được ban cấp
bổng lộc rất hậu, nhiều khi quyền lợi của họ lớn hơn các quan chức đại thần trong triều nhưng nếu
không có tài năng, đỗ đạt qua khoa cử Nho học thì cũng không được cử làm quan.
Với các biện pháp trên, Lê Thánh Tông đã xây dựng được một thiết chế quân chủ tập trung
quyền lực vào tay Nhà Vua, hạn chế sự tham chính của quý tộc hoàng tộc, loại bỏ khả năng lộng
quyền của triều thần.
Bộ máy nhà nước dưới thời Lê Thánh Tông được tổ chức như sau:
5.3.1. Chính quyền trung ương
Chính quyền trung ương dưới thời Lê Thánh Tông cũng giống như tất cả các triều đại phong
kiến ở nước ta, nói tới chính quyền trung ương tức là nói tới triều đình. Trước đó, do sự can dự quá
nhiều của các đại thần, khiến cho quyền lực của Vua bị sút giảm. Để nắm trực tiếp quyền hành, tăng
cường việc tập trung quyền lực vào tay mình, Lê Thánh Tông đã tiến hành cải tổ đối với toàn bộ bộ
máy nhà nước.
Các quan đại thần và Tể tướng. Bỏ chức danh tể tướng; giảm số lượng quan đại thần còn 6
người. Hạn chế sự tham chính của Quan đại thần. Quan đại thần ít có quyền lực và giảm thiểu sự ảnh
hưởng của họ trong đời sống chính trị nhà Lê.
Các cơ quan có chức năng văn phòng cho nhà vua.
- Hàn lâm viện: soạn thảo văn bản cho vua và triều đình.
- Đông các viện: thẩm tra, rà soát, sửa chữa các văn bản của triều đình do Hàn lâm viện
chuyển qua, đồng thời phụ trách việc bầu cử của triều đình.
- Hoàng môn sảnh: giữ ấn cho Nhà Vua
Lục bộ
Lục bộ là hệ thống cơ quan hành pháp ở trung ương, gồm: Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công. Ở
mỗi bộ, Nhà Vua đều đặt chức Thượng thư đứng đầu và Tả, Hữu Thị lang đứng thứ nhì để giúp việc.
-
Bộ Lại: có nhiệm vụ quản lý, tuyển bổ, thăng giáng, lựa chọn, khảo xét, phong tước các
47 Ngô Sĩ Liên, sđd, tr. 454
18
quan lại.
- Bộ Hộ: quản lý ruộng đất, tài chính, nhân khẩu, tô thuế, kho tàng, thóc tiền và lương của
quan quân.
- Bộ Lễ: phụ trách việc lễ nghi, tế tự, thết tiệc các quan và tân khách, thi cử, học hành, đúc các
ấn tín, trông coi Tư thiên giám, Thái y viện…
- Bộ Binh: coi giữ hết các việc thuộc về binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên ải, tổ chức gìn
giữ các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp.
- Bộ Hình: trông coi về luật lệnh, hình pháp, xét lại các việc tù đày, kiện cáo cùng các việc
nghiêm cấm.
- Bộ Công: có nhiệm vụ trông coi về việc sửa chữa, xây dựng (như xây dựng cầu cống, xây
cất thành trì, cung điện…) và quản đốc thợ thuyền.
5.3.1.1.
Lục tự
Triều vua Lê Thánh Tông là thời kỳ đầu tiên trong bộ máy chính quyền trung ương xuất hiện
những cơ quan mới đảm trách những công việc cụ thể, thể hiện tính chất chuyên môn hóa, trong đó
vai trò giải quyết các công việc hành chính của triều đình được chủ yếu giao cho Lục bộ, chắc chắn
lúc đó công việc của Lục bộ rất nhiều, có nhiều công việc không thể đảm trách hết được. Đã lường
trước và để giải quyết vấn đề này, Nhà Vua đã cho thành lập Lục tự, Lục tự là những cơ quan thực
hiện những công việc mà Lục bộ không đảm trách hết được. Điều đáng lưu ý là các tự này không
phải là những cơ quan cấp dưới trực tiếp của Lục bộ mà là cơ quan độc lập chịu sự chỉ đạo trực tiếp
của triều đình. Nói cách khác, Lục Tự là đơn vị sự nghiệp của triều đình.
5.3.1.2.
Các cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát
Bộ máy nhà nước dưới thời vua Lê Thánh Tông được đánh giá là thể hiện rất rõ tư tưởng pháp
trị, đặc biệt với sự xuất hiện và thi hành một cách hiệu quả của các cơ quan giám sát trong triều cũng
như bên ngoài, trong đó, các cơ quan kiểm tra, giám sát trong triều đình bao gồm Lục khoa và Ngự sử
đài.
- Lục khoa
Khi Nghi Dân tổ chức cuộc binh biến để sát hại em trai mình là Lê Nhân Tông năm 1459, năm
sau Lê Nghi Dân muốn thực hiện một cuộc cải cách để thu phục nhân tâm, vì vậy, Lê Nghi Dân đã
học tập mô hình của nhà Minh khi đó cho thành lập Lục bộ và tương ứng với Lục bộ là Lục khoa,
Lục khoa khi đó gồm: Trung thư khoa, Hải khoa, Tây khoa, Đông khoa, Nam khoa, Bắc khoa. Tuy
nhiên cuộc cải cách của Nghi Dân mới chỉ dừng lại với những tên gọi mới mà thôi.
Sau khi lên ngôi vua năm 1460, Lê Thánh Tông đã tiến hành cuộc cải cách chính quyền của
mình một cách mạnh mẽ, năm 1465, Lê Thánh Tông cho đổi tên gọi của Lục khoa như sau: Trung thư
khoa làm Lại khoa, Hải khoa làm Hộ khoa, Đông khoa làm Lễ khoa, Nam khoa làm Binh khoa, Tây
khoa làm Hình khoa, Bắc khoa làm Công khoa 48. Như vậy tên gọi của mỗi khoa cũng như chức năng
giám sát của mỗi khoa tương ứng với một bộ.
Phụ trách công việc giám sát mỗi bộ là một khoa tương ứng, quan phụ trách cao nhất mỗi khoa
là quan Đô cấp sự trung với trật Chánh thất phẩm, dưới đó là quan Cấp sự trung trật Chánh bát phẩm.
Lục khoa không phải là cơ quan cấp dưới trực tiếp của Lục bộ mà là cơ quan giám sát Lục bộ, báo
48 Phan Huy Chú, sđd, tr. 471
19
cáo trực tiếp lên Vua cho nên mặc dù quan phụ trách ở khoa tuy phẩm trật không lớn, nhưng rất có
thực quyền.
- Ngự sử đài:
Ngự sử đài là cơ quan kiểm tra, giám sát tối cao với toàn bộ các chức quan, cơ quan trong triều
cũng như ngoài triều. Ngự sử đài dưới các triều đại phong kiến Trung Hoa là cơ quan đứng đầu nhánh
kiểm tra, giám sát49 các cơ quan khác trong và ngoài triều đình. Ngự sử đài là ngôn quan, là tai mắt
của nhà vua. Ngự sử đài ở Việt Nam bắt đầu có từ thời Trần. Tuy vậy đến thời Lê Thánh Tông cũng
có những khác biệt nhất định, nếu như Ngự sử đài ở thời Trần do quan Ngự sử đại phu nắm giữ, thì
thời kỳ này Ngự sử đài với chức quan đứng đầu là Đô ngự sử với trật Chánh tam phẩm, dưới còn có
các chức quan như Phó đô ngự sử, Thiêm đô ngự sử. Ngự sử đài là cơ quan có trọng trách rất lớn
trong triều. Các quan trong Ngự sử đài và các quan Giám sát ngự sử đều được tuyển lựa rất kỹ càng,
ít nhất phải được thử thách ở các công việc cụ thể từ 12 năm trở lên mới được trao chức vụ.
5.3.1.3.
Các cơ quan chuyên môn khác:
- Thông chính sứ ty:
Tên Thông chính sứ ty có ý nghĩa mong muốn việc giải quyết công việc hành chính như nước
phải lưu thông thường xuyên. Thông chính sứ ty phụ trách việc chuyển đạt công văn, giấy tờ, chỉ dụ
của Vua tới các nơi và chuyển đệ công văn từ dưới lên trên, chuyển đơn từ của dân chúng lên triều
đình50. Quan phụ trách Thông chính ty là Thông chính sứ, trật Tòng tứ phẩm. Dưới đó có các chức
quan như Thông chính phó sứ, Thừa sự, Điển sự. Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng cho biết Lục
khoa thuộc sự quản lý của Thông chính sứ ty51.
- Quốc tử giám: Là cơ quan giáo dục cao nhất nước, trường đại học của nước ta khi đó. Quốc
tử giám có nhiệm vụ là trông coi Văn miếu, tổ chức, quản lý các công việc giáo dục và đào tạo sĩ tử
thành những người Nho sĩ tài giỏi, có đức độ để làm quan, giúp Vua cai trị đất nước.
- Quốc sử viện:
Các vua Việt Nam cũng như Trung Quốc đều rất coi trọng việc chép sử. Các bộ chính sử là
những tài liệu quan trọng lưu truyền lại cho hậu thế. Hầu hết các triều đại phong kiến ở Việt Nam đều
cho thành lập Quốc sử viện để soạn ra những bộ thông sử ghi chép lại hoạt động của quốc gia, của
triều đình. Thời kỳ này, quan phụ trách Quốc sử viện là Tu soạn, trật Chánh bát phẩm và chức phó là
Sử quán Biên tu lục, trật Tòng bát phẩm. Thời Hồng Đức, giữ chức Tu soạn chính là Ngô Sĩ Liên, tác
giả chính của Đại Việt sử ký toàn thư.
- Tư thiên giám:
Nền nông nghiệp của nước ta lúc đó phải dựa vào âm lịch, âm lịch là loại lịch dựa theo những
kỳ trăng. Ở thời kỳ này xuất hiện một cơ quan có nhiệm vụ giữ việc liệu đoán khí hậu, suy tính độ
mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú, nghiên cứu, xây dựng lịch kiêm luôn việc thiên văn, dự báo thời
tiết, cơ quan đó là Tư thiên giám. Quan đứng đầu Tư thiên giám là Tư thiên lệnh trật Chánh lục phẩm,
dưới đó là Tư thiên giám phó bậc Chánh thất phẩm, rồi đến Tư thiên giám ngũ quan, Tư thiên giám tư
thần lang52.
49 Trong đó, Thừa tướng giữ quyền hành chính, Thái uý nắm quân đội và quan Ngự sử nắm việc kiểm tra, giám sát bách
quan.
50 Viện sử học, Lịch sử Việt Nam, tập III, nxb KHXH, HN, 2007, tr. 155
51 Đỗ Văn Ninh, sđd, tr. 796
52 Đỗ Văn Ninh, sđd, tr. 417
20
- Thái y viện:
Thái y viện là cơ quan lo việc đảm bảo sức khoẻ và chữa trị bệnh tật cho Nhà Vua cũng như các
quan trong triều. Phụ trách Thái y viện là quan Thái y viện Đại sứ trật Chánh ngũ phẩm, đứng thứ hai
là Thái y viện Viện sứ trật Tòng ngũ phẩm. Ngoài ra còn có quan Thái y viện Ngự y chánh trật Chánh
lục phẩm và Thái y viện y phó trật Tòng lục phẩm. Trong đó Thái y viện Ngự y chánh là thầy thuốc
riêng của Nhà Vua, chuyên trực tiếp khám bệnh và điều trị cho Vua và tôn thất nên rất được Vua
trọng vọng.
- Sở đồn điền53: Đây là cơ quan có chức năng giống như Đồn điền sứ dưới thời Trần với chức
năng phụ trách việc thành lập và quản lý các đồn điền, các làng mạc mới, góp phần tăng diện tích
canh tác nông nghiệp. Phụ trách cơ quan này là quan Đồn điền Sở sứ với trật Tòng bát phẩm và phụ
giúp có quan Đồn điền Phó sứ trật Chánh cửu phẩm.
- Sở tầm tang: Nghề dệt vải đóng một vai trò quan trọng khi đó, liên quan trực tiếp đến nghề
dệt là nghề trồng dâu nuôi tằm. Chính vì thế Lê Thánh Tông đã cho thành lập Sở tầm tang để phụ
trách việc trông coi các công việc liên quan tới trồng dâu nuôi tằm. Đứng đầu cơ quan này là quan
Tầm tang Sở sứ trật Tòng bát phẩm và dưới đó là quan Tầm tang Phó sứ trật Chánh cửu phẩm.
- Sở thực thái54: Để quản lý việc trồng rau, phát triển các loại cây lương thực, thời kỳ này còn
có Sở thực thái. Đây là cơ quan giữ nhiệm vụ phụ trách việc trồng và nhân giống các loại rau và các
cây lương thực khác. Phụ trách Sở thực thái là chức quan Thực thái Sở sứ, trật Chánh cửu phẩm.
- Sở điền mục: Bên cạnh việc phát triển các loại cây lương thực, và phát triển việc dệt lụa tơ
tằm, Lê Thánh Tông còn cho thành lập Sở điền mục với nhiệm vụ chuyên trông coi và phát triển việc
chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm. Phụ trách cơ quan này là quan Điền mục Sở sứ, trật Chánh cửu
phẩm.
- Ty Tinh mễ: Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư cho biết thời kỳ này có một cơ quan
là ty Tinh mễ, nhiệm vụ là trông coi việc trồng lúa.55
- Hà đê ty: theo Văn Tạo thời kỳ này còn có cơ quan là Hà đê ty với chức năng là lo việc đê
điều, trị thủy, thủy lợi trong sản xuất nông nghiệp56.
5.3.2. Chính quyền địa phương
Ở địa phương, năm 1465, cùng với sự thay đổi tên gọi của Lục khoa có từ đời Nghi Dân, các
Hành khiển ở 5 đạo được đổi thành ty Tuyên chính sứ, đứng đầu là Tuyên chính sứ.
Năm 1466, Lê Thánh Tông thực hiện cải cách, xóa bỏ 5 đạo và 24 lộ có từ thời Trần, chia lại
đơn vị hành chính thành 12 đạo thừa tuyên và 1 phủ Trung đô (khu vực kinh đô Thăng Long); đến
năm 1471 lập thêm đạo thừa tuyên thứ 13 là Quảng Nam. Các thừa tuyên tương đối đồng đều nhau về
quy mô diện tích và dân số.
Đứng đầu mỗi thừa tuyên đạo lúc đó gồm có hai cơ quan là Đô Tổng binh sứ ty phụ trách việc
cai quản quân đội và Thừa chính sứ ty phụ trách việc hành chính và tư pháp. Đô tổng binh sứ ty có
các chức quan Tổng binh, Phó Tổng binh phụ trách. Trước đây, đứng đầu một thừa tuyên là một viên
quan Hành khiển, tới năm 1460 được đổi thành Tuyên phủ chính sứ, sau đó lại được đổi thành Thừa
53 Đồn điền là từ ghép của hai từ: Đồn là trại lính, doanh trại và điền là đất, ruộng. Vậy có lẽ đồn điền là vùng đất quân
đội khai hoang và canh tác. Ngô Sĩ Liên chép là ty Đồn điền.
54 Toàn thư chép là ty Chủng thái.
55 Ngô Sĩ Liên, sđd, tr. 462
56 Văn Tạo, Mười cuộc cải cách , đổi mới trong lịch sử Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, 2006, tr. 123
21
chính sứ. Phụ giúp cho Tuyên phủ chính sứ là Chức Tuyên phủ phó sứ cũng được đổi thành Thừa
chính phó, cùng với Thừa chính sứ quản lý và điều hành Thừa ty.
Dưới đạo có phủ, rồi đến châu, huyện và xã. Việc chia lại các đơn vị hành chính này chứng tỏ
sự củng cố chính quyền trung ương tập quyền, năm đạo trước kia nay chia nhỏ thành 12 đạo để thu
hẹp bớt quyền hành của chính quyền địa phương. Một số đơn vị trung gian như trấn và lộ bị bãi bỏ để
đơn giản hệ thống tổ chức chính quyền và đồng thời tăng sự lệ thuộc vào chính quyền trung ương.
Cho tới năm 1490, cả nước bao gồm: 13 thừa tuyên đạo dưới đó có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu,
6851 xã 57. Các cấp hành chính địa phương được sắp xếp theo vị trí lớn nhỏ như sau:
5.3.2.1.
Cấp đạo
Thời kỳ đầu Lê sơ, cả nước chia thành 5 đạo, ở mỗi đạo, phụ trách mọi mặt ở đạo là quan Hành
khiển. Điều này đã khiến một số quan đã chiêu mộ binh lính riêng, quyền hành không khác gì một
lãnh chúa. Chính vì vậy, Lê Thánh Tông đã cho thực hiện việc phân chia từ 5 đạo thành 12 thừa tuyên
đạo, việc chia nhỏ không gì khác là để dễ quản lý và ngăn ngừa sự cát cứ, và sau năm 1471, với chiến
thắng trước quân Chăm pa, Lê Thánh Tông đã mở rộng cương vực đất nước tới tận chân đèo Cù
Mông, ông lấy vùng đất mới lập thành thừa tuyên đạo thứ 13 với tên gọi Quảng Nam. Như vậy, lúc
này cả nước gồm 13 thừa tuyên.
Đối với các cơ quan ở cấp đạo thì Ty Tuyên chính sứ (đứng đầu là Tuyên chính sứ) được lập ra
ở các đạo từ năm 1464 để thay thế cho Hành khiển. Sự kiện này đánh dấu quá trình chuyển hình thức
cai quản địa phương bởi một cá nhân, hơn nữa chỉ thiên về quản lãnh quân sự sang hình thức cai quản
bằng một cơ quan có một quan chức đứng đầu và có sự phân công chức trách giữa các bộ phận trong
ty. Từ năm 1467 trở về trước, mỗi thừa tuyên chỉ có hai ty: Đô ty với các chức Tổng binh sứ, Tổng
binh đồng tri, Tổng binh thiêm sự; Thừa ty với các chức Thừa chính sứ, Tham chính, Tham nghị,
nhưng chức Thừa chính sứ phần nhiều do các Tổng binh kiêm giữ. Đến đây, Trấn điện tướng quân Lê
Văn tâu rằng, Tổng binh xuất thân từ hàng võ, không hiểu chữ nghĩa mà kiêm giữ hai chức sẽ trở ngại
cho việc quân ngũ và việc chính trị, vậy xin từ nay chức Tổng binh chỉ nên chuyên về việc binh, còn
chức Thừa chính sứ thì chọn người có văn học để sung bổ. Lê Thánh Tông đã thuận theo lời tâu hợp
lý đó58. Như vậy, cùng với việc xóa bỏ vai trò của các thân vương, quý tộc hoàng tộc trong việc nắm
chính quyền ở Trung ương, chủ trương bỏ chế độ “độc quan” và nhất là chỉ có quan võ nắm quyền
hành chính ở các địa phương chứng tỏ Lê Thánh Tông không chỉ đã thực sự coi trọng vai trò của
quan văn mà còn nhằm xóa bỏ tình trạng “lộng quyền” dẫn đến xu hướng cát cứ, ly tâm của quan lại
địa phương, đồng thời tạo ra sự thống nhất chỉ đạo từ trên xuống, gắn địa phương với trung ương để
thống nhất các mặt hoạt động của đất nước.
Từ năm 1467, Lê Thánh Tông đã cho cải tổ việc quản lý địa phương bằng cách không chỉ trao
quyền cho một cơ quan phụ trách ở một đạo, mà quyền hành được chia đều cho 3 cơ quan (sử sách
thường gọi là Tam ty). Tam ty bao gồm:
- Thừa ty phụ trách các công việc thuộc lĩnh vực hành chính, tài chính, dân sự. Chức quan
đứng đầu Thừa ty là Thừa chính sứ với trật Tòng tam phẩm, chức phó là Thừa phó sứ trật Tòng tứ
phẩm.
- Đô ty phụ trách quân sự, đứng đầu là quan Đô Tổng binh sứ trật Chánh tứ phẩm, thứ đến là
quan Phó Tổng binh trật Tòng tứ phẩm.
57 Ngô Sĩ Liên, sđd, tr. 507
58 Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 503
22
- Hiến ty có chức năng giám sát mọi công việc trong đạo để tâu lên Vua và triều đình. Lê Quý
Đôn cho biết “Thánh Tôn… đặt ty Hiến sát ở các đạo bên ngoài, trách nhiệm ty này là xét những sự
gian tà của quan, hiểu rõ nỗi u uẩn của dân, cũng không giữ việc phúc khám từ tụng”59. Đứng đầu
Hiến ty là quan Hiến sát sứ với trật Chánh lục phẩm, thứ đến quan Hiến sát phó sứ trật Chánh thất
phẩm.
Công tác thanh tra giám sát ở các địa phương cũng được chú trọng như ở trung ương. Năm
Hồng Đức thứ 2 (1471), vua Lê Thánh Tông cho đặt chức Hiến sát sứ ở các đạo, sau lại đặt chức
Giám sát ngự sử ở 13 đạo trực thuộc Ngự sử đài làm nhiệm vụ theo dõi, giúp đỡ các Hiến ty, giám sát
đàn hặc các hành vi sai trái của quan lại các thừa tuyên, phủ, huyện. Giám sát ngự sử đứng đầu cơ
quan giám sát cấp đạo là ty Ngự sử, các ty Ngự sử không phải là cơ quan trực thuộc ở địa phương mà
nó là cơ quan trực thuộc Ngự sử đài ở triều đình. Mỗi ty Ngự sử giám sát hai hoặc ba đạo.
5.3.2.2.
Cấp phủ
Phủ là cấp hành chính trung gian giữa cấp đạo với châu, huyện. Về phạm vi thì phủ nhỏ hơn
tỉnh nhưng lại lớn hơn huyện thời nay 60. Chức quan cao nhất trong một phủ là quan Tri phủ với trật
Tòng lục phẩm, chức phó là Đồng tri phủ trật Chánh thất phẩm. Chức năng chủ yếu của quan lại cấp
phủ là truyền lệnh từ trên xuống cho các huyện – châu, đốc thúc và kiểm tra việc thi hành, thu nộp
các loại thuế, các lao dịch, binh dịch61.
5.3.2.3.
Cấp huyện – châu
Dưới cấp phủ là một cấp hành chính mà ở miền xuôi được gọi là huyện, còn ở vùng miền núi
được gọi là châu, trước thời Lê Thánh Tông ở huyện có các chức quan Tuần sát chưởng ấn, Chuyển
vận sứ, Chuyển vận phó sứ. Đến thời Lê Thánh Tông đổi Chuyển vận sứ làm Tri huyện tức là người
đứng đầu ở huyện trật Chánh lục phẩm, chức Tuần sát đổi làm Huyện thừa. Ở cấp châu chỉ có chức
Tri châu, mang trật Tòng thất phẩm. Chức năng của Tri huyện và Tri châu là giúp Vua cai trị và quản
lý toàn bộ nhân dân trong địa bàn của mình, khiến cho người dân ở khắp nơi đều thấm nhuần ơn mưa
móc của triều đình, như Lê Thánh Tông đã nói “đi xét trong hạt, bờ biển, chỗ nào có thể làm ruộng
được, các đê bồi ngòi cừ, chỗ nào có thể đào đắp được, cũng là chỗ nào có giống hổ lang làm hại, có
kẻ cường hào xui giục kiện tụng, phong tục điêu bạc, nhân dân đau khổ, hết thảy các việc tiện lợi nên
làm, những mối tệ hại nên bỏ”62.
5.3.2.4.
Cấp xã
Trong lịch sử Việt Nam kể từ khi dựng nước, vấn đề nông nghiệp – nông thôn và nông dân –
tựu trung lại là vấn đề “làng xã”, luôn nổi lên hàng đầu và đóng vai trò hết sức quan trọng trên tất cả
các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của đất nước. Đó còn là sức mạnh truyền thống vừa
có tính quốc gia, lại vừa có tính địa phương được sản sinh từ làng xã.
Làng là đơn vị cư trú chính yếu của nông dân, được nhà nước phong kiến lắp ghép thành đơn vị
hành chính cấp cơ sở theo kiểu “nhất xã nhất thôn” hoặc “nhất xã nhị, tam thôn”… nhằm đảm bảo
được các yêu cầu về phu thuế, binh dịch. Nhà nước ở tất cả các thời kỳ trước đó đều quan tâm sâu sát
đến việc quản lý làng xã. Đến Lê Thánh Tông, ông tiếp tục những cải cách quan trọng. Mở đầu là vào
năm 1466, ông bỏ chế độ xã quan, đổi chức xã quan thành xã trưởng. Đại xã dùng 5 người làm xã
trưởng, trung xã 4 người, xã nhỏ 100 hộ trở lên 2 người, xã nhỏ dưới 60 hộ một người. Năm 1488,
59 Lê Quý Đôn, sđd, tr. 131
60 Đào Trí Úc, Nghiên cứu hệ thống pháp luật Việt Nam thế kỷ XV- XVIII, nxb KHXH, HN, 1994, tr. 127
61 Nguyễn Minh Tuấn, Tổ chức chính quyền thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, nxb Tư pháp, HN, 2006, tr. 69
62 Ngô Sĩ Liên, sđd, tr. 457
23
ông xuống lệnh không cho phép những người là anh em ruột, anh em con chú bác, cô cậu, dì già cùng
làm xã trưởng. Đến năm 1496, quy định này được mở rộng ra những đối tượng là cháu chú cháu bác,
cháu cô cháu cậu và thông gia với nhau. Mục đích của việc này là nhằm ngăn chặn hiện tượng lợi
dụng quan hệ họ hàng, thông gia để kết bè kéo cánh, nắm giữ các chức vụ quan trọng ở làng xã, tạo
thành những thế lực chính trị để khống chế nông thôn.
Ngoài ra, Lê Thánh Tông cũng quan tâm đến việc ngăn chặn sự thoái hóa biến chất của các viên
chức trong bộ máy làng xã, trong 24 điều giáo huấn năm 1470, trong các chỉ dụ năm 1471, 1483 ông
đều nhắc tới việc dùng luật pháp làm công cụ để chống lại nạn cường hào ở nông thôn, bằng việc sẽ
bị pháp luật trừng trị nếu vi phạm.
Bộ máy hành chính ở xã gồm các chức: xã trưởng (xã chính), xã sử, xã tư (xã phó).
Xã trưởng là người đứng đầu bộ máy hành chính làng xã – đơn vị cấp cơ sở trong hệ thống
chính quyền nhà nước, lại cũng vừa là người đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ cho toàn thể dân làng
trước nhà nước, là cầu nối giữa dân làng với nhà nước.
Xã trưởng có chức năng, nhiệm vụ cụ thể là thu thuế ở địa phương mình, tổ chức và chọn các
đinh tráng ở địa phương để tham gia vào đội ngũ binh lính của nhà nước, chọn thí sinh đi dự các kỳ
thi, giữ gìn an ninh trật tự tại địa phương, giải quyết các vụ kiện trong xã…
Việc bầu chức xã trưởng cụ thể như thế nào thì sử sách không chép rõ, chỉ biết tiêu chuẩn để
bầu chọn xã trưởng cụ thể như: phải là con nhà lương thiện, đứng tuổi từ 30 trở lên; là Giám sinh
(đều theo học tại Quốc tử giám), Sinh đồ ở làng. Những người có họ hàng thân thích với nhau thì chỉ
được bầu một người trong số đó vào chức xã trưởng mà thôi. Theo nhiều nhà nghiên cứu cho rằng,
việc bầu xã trưởng dưới thời Hồng Đức thể hiện tính chất dân chủ làng xã, tuy nhiên theo lệnh năm
Hồng Đức thứ 25 (1494)63, và theo đạo dụ được ban hành vào năm Hồng Đức thứ 27 (1496) 64 cho
thấy mặc dù có nhắc tới việc xã trưởng là do dân bầu ra, nhưng thực chất xã trưởng chủ yếu được cắt
đặt bởi các quan phủ, huyện, đây cũng là quan điểm của Insun Yu 65, có lẽ quan điểm này chính xác
hơn. Điều đó cho thấy với những biện pháp tăng cường kiểm soát cũng như cải tổ cấp xã như vậy,
vua Lê Thánh Tông đã can thiệp sâu hơn tới cấp xã - cấp hành chính cơ sở của nhà nước Đại Việt,
qua đó nhằm mục đích củng cố quyền lực tập trung của Nhà Vua, hạn chế nạn cường hào cũng như
tình trạng cát cứ địa phương (đã khiến quyền lực nhà nước trung ương suy yếu các đời vua trước).
5.4. Kết luận
Công cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông là cuộc cải cách tương đối toàn diện từ triều
đình trung ương xuống đến làng xã. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: “Với mô hình tổ chức bộ máy
nhà nước mà Lê Thánh Tông đặt ra sau cuộc cải cách, mô hình này là mô hình tiên tiến nhất của chế
độ quân chủ phong kiến đương thời, thể hiện khá hoàn chỉnh tư tưởng chỉ đạo của Lê Thánh Tông:
lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, nặng nhẹ cùng kiềm chế nhau, địa phương gắn với trung ương”66.
Hệ thống hành chính này phù hợp và phản ánh rõ nét trình độ phát triển kinh tế – xã hội, trình
độ dân trí của nước Đại Việt khi đó. Ở thế kỷ XV, chế độ quân chủ trung ương tập quyền Đại Việt đã
đạt tới một trình độ phát triển cao, điều đáng chú ý về mặt tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
thời kỳ này là việc tổ chức và thực hiện sự giám sát lẫn nhau giữa một số cơ quan nhà nước. Như lời
63 Viện nghiên cứu Hán nôm, sđd, tr. 448
64 Viện nghiên cứu Hán nôm, sđd, tr. 301
65 Insun Yu, Cấu trúc của làng xã Việt Nam ở đồng bằng Bắc bộ và mối quan hệ của nó với nhà nước thời Lê, Nghiên
cứu lịch sử, số 4 năm 2000, tr. 70
66 Nguyễn Hoài Văn, Tư tưởng chính trị Nho giáo từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002, tr. 121
24
nhận xét của một nhà nghiên cứu nước ngoài về bộ máy nhà nước thời Lê sơ: “Có trình độ chuyên
môn hóa cao hơn hẳn các nước khác ở vùng Đông Nam Á và thậm chí ở phương Tây thời Trung cổ
cũng không biết tới một chính quyền với các cơ quan hoàn chỉnh đến như vậy”67.
Dưới triều Lê, đặc biệt từ thời Lê Thánh Tông, vai trò quyền lực của nhà nước trung ương đối
với các địa phương rất to lớn. Hồng Đức bản đồ – bộ bản đồ đầu tiên của nước ta được hoàn thành
dưới thời Lê Thánh Tông đã đánh dấu bước tiến to lớn trong quản lý của nhà nước trung ương. Cả
nước được chia thành 13 thừa tuyên đạo, có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851
xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguyên, 30 trường. Các vùng xa như Thanh Nghệ,
Thuận Hóa, Yên Bang, Tuyên Quang, Hưng Hóa đều đặt ty và thủ ngự. Nhà nước trực tiếp quản lý
các địa phương thông qua hệ thống quan lại.
67 Dẫn lại theo Lê Đức Tiết, sđd, tr. 105
25