VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ ĐỨC VIỆT
HỢP ĐÒNG VÔ HIỆU DO GIẢ TẠO THEO PHÁP
LUẬT DÂN SỤ VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.01.07
LUẬN VẨN THẠC sĩ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN VĂN BIÊN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Hà Nội, ngày.......tháng... năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
LÊ ĐỨC VIỆT
MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO GIẢ
TẠO.......................................................................................................................... 5
1.1. Khái niệm hợp đồng vô hiệu............................................................................. 5
1.2. Khái niệm họp đồng vô hiệu do giả tạo.......................................................... 21
1.3. Các trường họp họp đồng vô hiệu do giả tạo..................................................24
1.4. Họp đồng vô hiệu do giả tạo theo quy định pháp luật của một số nước trên thế
giới.......................................................................................................................... 28
1.5. Ý nghĩa pháp lý của quy định về họp đồng vô hiệu do giả tạo........................30
Chương 2: HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO GIẢ TẠO THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VÀ THựC TIỄN ÁP DỤNG....................................................33
2.1. Thực tiễn áp dụng họp đồng vô hiệu do giả tạo theo các quy định hiện hành của
pháp luật Việt Nam..................................................................................................33
2.2. Điều kiện của họp đồng vô hiệu do giả tạo....................................................45
2.3. Hậu quả pháp lý của họp đồng vô hiệu do giả tạo.......................................... 49
2.4. Thời hiệu yêu cầu tuyên bố họp đồng vô hiệu do giả tạo................................55
2.5. Bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba ngay tình khi họp đồng bị tuyên bố là
vô hiệu do giả tạo...................................................................................................56
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO GIẢ TẠO.................................................. 65
3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về họp đồng vô hiệu do giả tạo....65
3.2. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về họp đồng vô hiệu do giả
tạo
70
3.2.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về họp đồng vô hiệu do giả tạo...........70
KẾT LUẬN............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................79
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc xác lập họp đồngDANH
là một MỤC
trong những
phuơng thức hiệu quả đối với các
VIẾT TÃT
chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sụ, kinh tế nhằm huớng tới quyền, lợi ích
mong muốn đạt đuợc. Hơn thế, đặt trong tuơng quan với pháp luật thế giới và sụ phát
BLDS
: Bộ lại
luậtcódân
sự quan trọng, vì họp đồng
sinh nhiều quan hệ dân
sụ mới thì họp đồng
ý nghĩa
TAND
: Tòa
nhân
ghi nhận và ràng buộc
quyền, nghĩa vụ của
cácán
bên.
Đedân
đuợc pháp luật công nhận và
: Tòa
ánhọp
nhânđồng
dân phải
tối cao
bảo vệ quyền, lợi íchTANDTC
họp pháp thì các bên
trong
tuân thủ một số điều
kiểm
sát nhân
tối một trong các
kiện nhất định, đó là VKSNDTC
điều kiện có hiệu lục: Viện
của họp
đồng.
Việc dân
vi phạm
caolà họp đồng bị vô hiệu.
điều kiện có hiệu lục UBND
sẽ dẫn tới hậu quả
: ủy ban nhân dân
Hiện nay, các quy định về họp đồng vô hiệu vẫn còn nhiều vuớng mắc, có
THA
: Thi hành án
những cách hiểu khác nhau, vận dụng khác nhau dẫn tới đuờng lối xử lý chua thống
nhất, chua rõ ràng, về phía các cơ quan nhà nuớc, do tính phức tạp của các họp đồng,
những quy định không rõ ràng của pháp luật đã tạo cho họ rất nhiều khó khăn, lúng
túng trong công tác xét xử có liên quan tới họp đồng vô hiệu. Nói cách khác, chính
điều đó làm hạn chế năng lục của các cơ quan chức năng trong việc giải quyết các
tranh chấp về họp đồng. Và trên thục tế, cũng không ít truờng họp họp đồng bị tuyên
bố vô hiệu do một bên giao kết họp đồng lợi dụng các quy định của pháp luật để “bội
uớc”, nhằm trốn tránh thục hiện nghĩa vụ của mình. Họp đồng vô hiệu do giả tạo là
một trong những loại họp đồng vô hiệu do vi phạm ý chí chủ thể gây nhiều tranh cãi
và khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật hiện nay.
Thục trạng trên cho thấy, cần nghiên cứu một cách nghiêm túc vấn đề họp
đồng vô hiệu do giả tạo để từ đó đua ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định
pháp luật về vấn đề này. Việc xây dụng các quy định pháp luật về hợp đồng vô hiệu
do giả tạo hoàn chỉnh, phù họp với thục tiễn không những là yêu cầu chính đáng của
nguời dân để họ bảo vệ quyền, lợi ích họp pháp của mình, mà còn là điều kiện để cơ
quan nhà nuớc có thẩm quyền hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ đuợc giao. Xuất
phát từ những lý do trên, việc tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề
hợp đồng vô hiệu do giả tạo là việc làm hết sức cần thiết. Do đó, tác giả đã lụa chọn
đề tài “Hợp đồng vô hiệu do giả tạo theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay”.
2. Tinh hình nghiên cứu đề tài
Họp đồng vô hiệu đã đuợc nhiều nhà khoa học pháp lý nghiên cứu duới góc
độ lý luận cũng nhu thục tiễn giải quyết tranh chấp, có thể trục tiếp hoặc gián tiếp
nhu các bài giảng trong giáo trình Luật dân sụ của Truờng Đại học Kiểm sát, 1
Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Đại học Quốc gia, trong một số ấn phẩm
như: Bình luận BLDS của Bộ Tư pháp và trong một số bài viết của một số tác giả ở
góc độ hẹp, đó là: TS. Bùi Đăng Hiếu: Giao dịch dân sự vô hiệu tương đổi và giao
dịch dân sự vô hiệu tuyệt đổi. Trong bài viết này tác giả chủ yếu phân tích, so sánh
và đưa ra sự khác biệt chung thể hiện bản chất của khái niệm giao dịch dân sự vô
hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối, theo đó, vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu do lừa
dối được tác giả đề cập dưới hình thức là một giao dịch vô hiệu tương đối. Ngoài ra,
còn có các bài viết khoa học đã được đăng trên các tạp chí luật chuyên ngành như
“Chế định họp đồng dân sự vô hiệu và yêu cầu sửa đổi, bổ sung BLDS năm 2005”
(2010) của Bùi Thị Thanh Hằng, Tạp chí Khoa học (Kinh tế - Luật); “Tính chất đền
bù của họp đồng dân sự vô hiệu” (2006) của TS. Bùi Đăng Hiếu, Tạp chí Luật học số
11. Điều này cho thấy vấn đề họp đồng vô hiệu đã, đang được quan tâm rất lớn từ
những nhà nghiên cứu, giảng dạy pháp luật cho đến những người áp dụng, thực hiện
pháp luật. Mỗi bài viết nêu trên của các tác giả đã tiếp cận vấn đề họp đồng vô hiệu ở
nhiều góc độ khác nhau, có sự nghiên cứu, so sánh, tiếp thu những quy định của
pháp luật thế giới; là nguồn tài liệu quý giá cho quá trình nghiên cứu của tác giả. Từ
những bài viết về khái niệm, đặc điểm, phân loại, hậu quả pháp lý họp đồng vô hiệu
mà tác giả có thể vận dụng cho riêng đề tài đặc thù của mình - họp đồng vô hiệu do
giả tạo.
Có thể nói, đề tài họp đồng vô hiệu do giả tạo là một đề tài mới, và chưa được
nghiên cứu nhiều. Họp đồng vô hiệu do giả tạo thường chỉ được nhắc đến trong các
bài bình luận họp đồng vô hiệu hoặc bình luận án liên quan đến họp đồng vô hiệu, có
thể kể đến như: Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2013 đã đưa ra những vụ án và bình luận về án
họp đồng vô hiệu trên cơ sở quy định của pháp luật. Trong hệ thống tài liệu luận văn,
luận án, họp đồng vô hiệu do giả tạo đã được nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Hải Ngân về Họp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo (2015) và luận văn thạc sĩ
của Vũ Thị Thanh Nga về Giao dịch dân sự do giả tạo một số vấn đề lý luận và thực
tiễn (2011). Ở hai luận văn này, các tác giả đã phân tích và lý giải nhằm làm rõ cơ sở
lý luận cơ bản về họp đồng vô hiệu do giả tạo, phân loại họp đồng vô hiệu do giả tạo
theo pháp luật dân sự Việt Nam. Đồng thời làm rõ hậu quả pháp lý khi tuyên bố họp
đồng vô hiệu do giả tạo và thực trạng áp dụng quy định pháp luật về họp đồng vô
hiệu do giả tạo hiện nay. Đe xuất phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật
và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật. Theo đó, vấn đề họp
đồng vô hiệu do giả tạo được các tác giả đề 2
cập dưới hình thức là một trường họp của họp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, với sự ra đời
của BLDS năm 2015 thì những thay đổi về họp đồng vô hiệu, họp đồng vô hiệu do
giả tạo đã có những điểm đổi mới, cần được tác giả lưu tâm và cập nhật vào luận văn
của mình.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã nêu và phân tích những
vấn đề có tính khái quát nhất về vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của họp đồng
vô hiệu. Vấn đề họp đồng vô hiệu do giả tạo chỉ là một phần nhỏ trong các công
trình này. Việc nghiên cứu hoàn chỉnh và cụ thể về họp đồng vô hiệu do giả tạo chưa
được khai thác một cách triệt để. Vì vậy, một lần nữa có thể khẳng định, việc nghiên
cứu đề tài họp đồng vô hiệu do giả tạo thực sự rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm góp phần làm sáng tỏ khái niệm,
đặc điểm pháp lý chế định họp đồng vô hiệu nói chung và họp đồng vô hiệu do giả
tạo nói riêng, qua đó làm rõ hậu quả pháp lý của họp đồng vô hiệu do giả tạo, đồng
thời phân tích thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về họp đồng vô hiệu
do giả tạo. Ngoài ra, khi nghiên cứu thực trạng, đánh giá hiệu quả điều chỉnh của các
quy định pháp luật về họp đồng vô hiệu do giả tạo và thực tiễn việc giải quyết hậu
quả pháp lý của họp đồng vô hiệu do giả tạo, luận văn còn nhằm mục đích đề xuất
một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật, bảo đảm tính khả thi khi áp dụng trong thực
tiễn giải quyết các tranh chấp về họp đồng vô hiệu do giả tạo tại TAND.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đe thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ làm rõ những vấn đề sau:
- Phân tích và lý giải nhằm làm rõ cơ sở lý luận cơ bản về họp đồng, họp
đồng vô hiệu và họp đồng vô hiệu do giả tạo trong pháp luật dân sự Việt Nam.
- Nghiên cứu và so sánh pháp luật nước ngoài về họp đồng vô hiệu do giả
tạo.
- Nghiên cứu pháp luật thực định Việt Nam về họp đồng vô hiệu do giả tạo,
hậu quả pháp lý khi tuyên bố họp đồng vô hiệu do giả tạo.
- Nghiên cứu thực tiễn về họp đồng vô hiệu do giả tạo và đánh giá về hiệu
quả của những quy định pháp luật hiện hành thông qua việc áp dụng pháp luật của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Đe xuất phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật và các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề
lý luận và thực tiễn về hợp đồng vô hiệu do giả tạo theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn xét
xử về hợp đồng vô hiệu do giả tạo. vấn đề này được tiếp cận theo chiều sâu và toàn
diện trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam và đặc biệt là quy định của BLDS
2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề trong luận văn dựa trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê .. .kết họp giữa lý luận với thực tiễn để thực
hiện luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn làm rõ những vấn đề cơ bản của họp đồng vô hiệu do giả tạo như
khái niệm, đặc điểm họp đồng vô hiệu do giả tạo, thực trạng pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật tại Tòa án về họp đồng vô hiệu do giả tạo, thông qua đó, đưa ra
những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.
Những đề xuất, kiến nghị của luận văn góp phần hoàn thiện các quy định
pháp luật dân sự về họp đồng vô hiệu do giả tạo. Ket quả nghiên cứu của luận văn sẽ
góp phần vào việc nhận thức sâu sắc thêm về họp đồng vô hiệu do giả tạo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về họp đồng vô hiệu do giả tạo.
Chương 2: Họp đồng vô hiệu do giả tạo theo quy định của pháp luật Việt Nam
và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về họp
đồng vô hiệu do giả tạo.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO GIẢ TẠO
1.1. Khái niệm hợp đồng vô hiệu
1.1.1. Khái niệm
Họp đồng là một trong những chế định quan trọng của pháp luật dân sự được
ghi nhận trong các quy định của BLDS và pháp luật có liên quan. Khi tìm hiểu về
khái niệm “họp đồng vô hiệu” trước hết chúng ta phải hiểu rõ bản chất của khái niệm
“họp đồng” theo quy định của BLDS hiện hành.
Ở Việt Nam, trong thực tế đời sống, có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử
dụng để chỉ về họp đồng: khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ giao ước, tờ
ưng thuận... Trong cổ luật, dựa vào các cứ liệu lịch sử còn lại cho đến ngày nay, thuật
ngữ “v’ở/7 /ự” hay “v’ở/7 £/ỉế”[52, tr.363 - 366], hay mua, bán, cho, cầm đã được sử
dụng khá sớm, trong Bộ Quốc triều Hình luật [34, tr. 156]. Sau này, thuật ngữ “khế
ước” mới được sử dụng chính thức trong sắc lệnh ngày 21/7/1925 (được sửa đổi bởi
Sắc lệnh ngày 23/11/1926 và sắc lệnh ngày 06/9/1927) ở Nam phần thuộc Pháp,
trong Bộ Dân luật Bắc kỳ 1931, và trong Bộ Dân luật Trung kỳ 1936 - 1939. Thuật
ngữ “khế ước” cũng được sử dụng trong sắc lệnh 97/SL của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, được Hồ Chủ tịch ký ban hành ngày 22/5/1950 (Điều 13). Thuật ngữ “khế
ước” cũng được sử dụng trong Bộ Dân luật 1972 của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở
miền Nam trước 30/4/1975 (Điều 653). Ngoài ra, trong các văn bản nêu trên còn sử
dụng thuật ngữ “hiệp ước”, trong đó nhà làm luật xem “khế ước ” là một “hiệp
ước”[3, tr.664] hoặc đồng nhất giữa “khểước” với “hiệp ước”[4, tr.653].
Các văn bản pháp luật hiện hành của nhà nước ta không còn sử dụng thuật
ngữ “khể ước” hay “hiệp ước” như trước đây mà sử dụng các thuật ngữ có tính
“chức năng1', “công cụ” [22, tr.40] như hợp đồng, hợp đồng lao động, hợp đồng
thương mại. Trong pháp luật của nhiều nước chỉ sử dụng thuật ngữ “hợp đồng”, chứ
không sử dụng các thuật ngữ hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp đồng lao
động... như luật Việt Nam.
Ngoài việc chọn “hợp đong' làm thuật ngữ pháp lý chính thức trong các văn
bản pháp luật, các luật gia cũng quan tâm tới việc làm rõ nội hàm của khái niệm
“hợp đồng', về mặt học thuật và pháp lý, các luật gia cũng đã gặp nhiều khó khăn
trong việc đưa ra một định nghĩa về họp đồng. Đúng như một luật gia đã nhận xét,
hợp đồng “dường như là một trong những hiện tượng có thể nhận thức được rất dễ
dàng nhưng thật khó khăn để có thể đưa ra được một định nghĩa về nó”[55, tr. 14].
5
cỏ thể nói, thuật ngữ “Aợp đồng' là một phạm trù đa nghĩa và có thể được
xem xét nhiều góc độ khác nhau. Các luật gia Việt Nam thường hiểu khái niệm “Aợp
đồng” theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa khách quan,
“họp đồng” là một bộ phận của chế định nghĩa vụ trong Luật Dân sự, bao gồm các
“quy phạm pháp luật được quy định cụ thể trong BLDS nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội (chủ yếu là quan hệ tài sản) trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất
giữa các chủ thể với nhau”. Theo nghĩa chủ quan, họp đồng “là sự ghi nhận kết quả
của việc cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể giao kết hợp đồng'' hay “là kết quả
của việc thỏa thuận, thống nhất ý chỉ của các bên, được thể hiện trong các điều
khoản cụ thể về quyền và nghĩa vụ mỗi bên để có cơ sở cùng nhau thực hiện” [42, tr.
19].
Trong phạm vi mục này, tác giả chỉ bàn về khái niệm họp đồng hiểu theo
nghĩa chủ quan (nghĩa hẹp). Theo đó, ngoài việc được ghi nhận chính thức trong các
văn bản pháp luật của nhiều nước trên thế giới, khái niệm họp đồng còn được nhiều
học giả đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Một trong những định nghĩa sớm nhất về
họp đồng thường được nhiều học giả ngày nay nhắc đến và chấp nhận, là định nghĩa
của học giả người Pháp - Pothier trong tác phẩm “Traỉté des oblỉgatỉons” năm 1761:
“Họp đồng là sự thỏa thuận theo đó hai hoặc chỉ một bên hứa, cam kết với người
khác để chuyển giao một vật, để làm một công việc hoặc không làm một công việc
[59, tr.3]. Định nghĩa này không khác gì so với định nghĩa họp đồng trong các BLDS
hiện đại ngày nay. BLDS Pháp cũng có định nghĩa họp đồng giống gần như hoàn
toàn định nghĩa của Pothier: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó một
hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển giao một
vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó” [9, tr. 1101].
Theo quy định tại Điều 1378 BLDS 1994 của Bang Québec (Canada): “Hợp
đồng là sự thống nhất ý chỉ, theo đó một hoặc nhiều chủ thể phải thực hiện những
cam kết đã định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác”. Tuy có tính khái quát
hon, nhưng định nghĩa này cũng không hoàn toàn “thoát ly” khỏi định nghĩa tại Điều
1101 BLDS Pháp [54, Điều 1378]. Cả hai định nghĩa trên đều thể hiện rõ bản chất
của họp đồng là sự “thỏa thuận” hay “thống nhất ý chí” giữa các bên. Tuy nhiên,
nội dung định nghĩa chỉ thể hiện chức năng của họp đồng mà chưa chỉ ra được dấu
hiệu đặc trưng thứ hai của họp đồng: nhằm tạo ra hiệu lực ràng buộc pháp lý về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Trong Bách Khoa toàn thư về Pháp luật của Hoa Kỳ
cũng có định nghĩa họp đồng: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai thực thể pháp lý,
tạo ra một sự ràng buộc nghĩa vụ nhằm để làm một việc, hoặc để 6
không làm một việc, giao một vật xác định'' [56, tr.53]. Định nghĩa này thể hiện rõ
ràng hơn bản chất và mục đích cơ bản của khái niệm hợp đồng và nội dung của nó
cũng có tính “hội nhập” hơn với khoa học pháp lý của các quốc gia khác trên thế
giới.
Điều 385 BLDS 2015 định nghĩa họp đồng nhu sau: “Họp đồng là sụ thoả
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sụ”.
Có thể dễ dàng thấy rằng, quy định tại Điều 385 BLDS Việt Nam 2015 cũng gần
giống nhu quy định của Điều 2 Luật họp đồng Trung Quốc (1999): “Hợp đồng theo
quy định của luật này là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên, các tổ chức khác... ” và đặc
biệt là hoàn toàn giống với quy định tại khoản 1 Điều 420 BLDS Nga (1994): "Hợp
đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” [22, tr.3 9]
Xét về bản chất, họp đồng đuợc tạo ra bởi sụ thỏa thuận của các bên, là kết
quả của quá trình thuơng thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa vụ mà
pháp luật có qui định là không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận của các
bên. Xét về vị trí, vai trò của họp đồng, theo nghĩa hẹp, thì họp đồng là một loại giao
dịch dân sụ, là một căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp
luật dân sụ. Nhu vậy, họp đồng là phuơng tiện pháp lý để các bên tạo lập quan hệ
nghĩa vụ. Có thể nói, định nghĩa trên đã hàm chứa tất cả dấu hiệu mang tính bản chất
của họp đồng và thể hiện rõ chức năng, vai trò của họp đồng trong việc làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.
Định nghĩa trên đây của BLDS 2015 đuợc xem là họp lý và thuyết phục nhất
ở Việt Nam từ truớc đến nay vì có nội dung ngắn gọn, chuẩn xác; vừa mang tính khái
quát cao, phản ánh đúng bản chất của thuật ngữ “hợp đồng”, vừa thể hiện rõ vai trò
của họp đồng nhu là một căn cứ pháp lý (phổ biến) làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền và nghĩa vụ (dân sụ) của các bên [37, tr.57]. Theo quy định của BLDS năm
2015, cách gọi “họp đồng” thay cho “Họp đồng dân sụ” là một điểm mới họp lý.
Truớc đây việc sử dụng khái niệm “họp đồng dân sụ” có thể gây sụ trùng lặp giữa
khái niệm họp đồng theo nghĩa rộng với họp đồng theo nghĩa hẹp (đuợc quy định
trong phần riêng về các loại họp đồng dân sụ). Bởi bản thân từ “dân sụ” trong pháp
luật Việt Nam vừa có thể đuợc hiểu theo nghĩa rộng là để chỉ các vấn đề thuộc lĩnh
vục luật tu nói chung, vừa có thể theo nghĩa hẹp là để chỉ các vấn đề mang tính chất
dân sụ thuần túy nhu ngành “luật dân sụ”, “họp đồng dân sụ”,
7
“tòa dân sự”...để phân biệt với các vấn đề tương đồng khác không phải dân sự như
ngành “luật thương mại” hay “luật hôn nhân và gia đình”... Như vậy hai từ “dân sự”
được đặt ngay sau danh từ “họp đồng” dường như có chủ ý của nhà làm luật là muốn
khẳng định sự khác biệt giữa họp đồng trong pháp luật dân sự với các họp đồng
thuộc phạm vi điều chỉnh của các luật chuyên ngành. Hiểu theo nghĩa đó thì tên gọi
“họp đồng dân sự” như quy định trong BLDS năm 2005 trước đây là không phù họp
với tính chất, vị trí, vai trò là luật chung của BLDS. Điều này làm người đọc cảm
nhận các quy định trong phần chung về họp đồng trong BLDS là chỉ dành riêng để
điều chỉnh họp đồng “dân sự” và qua đó quy định này đã tự làm giới hạn phạm vi tác
động của quy định về họp đồng chuyên biệt trong pháp luật chuyên ngành. Hai là,
không phải mọi thỏa thuận giữa các bên đều có thể đưa đến một bản họp đồng. Ví dụ
thỏa thuận kết hôn, thỏa thuận về việc một bên vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con...
Trong khi đó, khái niệm “họp đồng dân sự” được qui định tại Điều 388 BLDS
2005 với chủ định xem đây khái niệm chung được sử dụng để chỉ mọi họp đồng, chứ
không phải chỉ dành cho riêng “họp đồng dân sự”. Do vậy, không nên đặt từ “dân
sự” ngay sau khái niệm “họp đồng” vì dễ gây hiểu lầm, và không cần thiết. Việc sửa
đổi khái niệm Họp đồng theo hướng bỏ hai từ “dân sự” kèm theo sau thuật ngữ
“hợp đồng” là hoàn toàn họp lý.
về khái niệm họp đồng vô hiệu, theo từ điển Tiếng Việt năm 2003 của Viện
Ngôn ngữ học thì “vô hiệu” được hiểu là “không có hiệu lực, không mang lại kết
quả”. Theo cách hiểu này, họp đồng vô hiệu là họp đồng không có giá trị (hiệu lực)
về mặt pháp lý, mặc dù họp đồng đó đã được xác lập nhưng mọi cam kết của các bên
đều không được pháp luật bảo hộ, không có giá trị pháp lý [46, tr. 1083].
“Họp đồng vô hiệu” là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong khoa học pháp
lý và pháp luật họp đồng. Trong chế định họp đồng, họp đồng vô hiệu là một bộ phận
không thể tách rời, trong mối quan hệ biện chứng với họp đồng, điều kiện có hiệu
lực của họp đồng. Tuy nhiên, trong khi “họp đồng” được định nghĩa tương đối phổ
biến trong pháp luật dân sự của các nước, thì khái niệm “họp đồng vô hiệu” lại
không được pháp luật dân sự của nhiều nước trên thế giới (trong đó có Việt Nam)
đưa ra, mà thông thường chỉ làm rõ các tiêu chí xác định sự vô hiệu của họp đồng.
Điều 407 BLDS 2015 nêu rõ: “Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến
Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với họp đồng vô hiệu” [7, Điều
407]. Vì thế, để hiểu được khái niệm họp đồng vô hiệu phải đặt chúng trong mối
quan hệ với giao dịch dân sự vô hiệu.
8
Đe xác định giao dịch vô hiệu phải căn cứ vào quy định tại Điều 117 và Điều
122 BLDS (giao dịch dân sụ không có một trong các điều kiện đuợc quy định tại
Điều 117 của BLDS năm 2015 là vô hiệu). Các điều kiện theo quy định tại Điều 117
là: nguời tham gia giao dịch có năng lục pháp luật dân sụ và hành vi dân sụ phù họp
với giao dịch dân sụ đuợc xác lập; chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tụ nguyện;
mục đích và nội dung của giao dịch dân sụ không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội; hình thức giao dịch dân sụ là điều kiện có hiệu lục của giao dịch
trong truờng họp pháp luật có quy định. Đồng thời, BLDS 2015 cũng quy định các
truờng họp giao dịch dân sụ vô hiệu cụ thể bao gồm: giao dịch dân sụ vô hiệu do vi
phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (Điều 123); do giả tạo (Điều 124); do
nguời chua thành niên, nguời mất năng lục hành vi dân sụ, nguời có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi, nguời bị hạn chế năng lục hành vi dân sụ xác lập, thục
hiện (Điều 125); do bị nhầm lẫn (Điều 126); do bị lừa dối, đe dọa, cuỡng ép (Điều
127); do nguời xác lập không nhận thức và làm chủ đuợc hành vi của mình (Điều
128); do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 129). Các điều khoản của giao
dịch dân sụ vô hiệu đuợc áp dụng đối với họp đồng vô hiệu.
Đe hiểu rõ hơn về giao dịch dân sụ vô hiệu, cần phải có sụ phân biệt sụ khác
nhau giữa giao dịch dân sụ vô hiệu với giao dịch dân sụ mất hiệu lục. Giao dịch dân
sụ vô hiệu là giao dịch không có hiệu lục ở ngay thời điểm giao kết, còn giao dịch
dân sụ bị mất hiệu lục là giao dịch có hiệu lục tại thời điểm ký kết nhung giao dịch bị
chấm dứt hiệu lục là do rơi vào tình trạng không thể thục hiện đuợc. Tình trạng mất
hiệu lục của giao dịch dân sụ có thể do một bên vi phạm, dẫn đến bên bị vi phạm yêu
cầu hủy giao dịch hoặc các bên tụ thỏa thuận với nhau chấm dứt hiệu lục của giao
dịch hoặc do một trở ngại khách quan nào khác [26, tr.27-28]. Ví dụ, hai bên ký kết
một họp đồng mua bán gỗ pơ mu, thời điểm này Nhà nuớc không cấm mua bán đối
với loại mặt hàng này, nhung trong khi hai bên đang thục hiện họp đồng, Nhà nuớc
lại có quyết định cấm khai thác và mua bán gỗ pơ mu, dẫn đến họp đồng không thể
thục hiện đuợc và mất hiệu lục.
Họp đồng là sụ thỏa thuận ý chí tụ nguyện của các bên chủ thể tham gia kí kết
họp đồng. Vì thế nếu họp đồng đuợc thiết lập mà thiếu tính tụ nguyện của các bên
hoặc một bên thì họp đồng đó bị coi là vô hiệu và không thể làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia kí kết họp đồng kể từ thời điểm họp đồng đuợc xác
lập. Căn cứ vào những điều kiện có hiệu lục của giao dịch dân sụ đuợc BLDS 2015
quy định thì có thể hiểu họp đồng vô hiệu là: Họp đồng thể hiện ý chí của các bên
tham gia mà khi xác lập có sụ vi phạm ít nhất một trong những điều 9
kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của BLDS. Tuy nhiên, chua thể coi đây
là một khái niệm hoàn chỉnh của hợp đồng vô hiệu vì nó chua nêu lên đuợc bản chất,
đặc trung của hợp đồng vô hiệu.
Qua những phân tích trên, có thể đua ra khái niệm hợp đồng vô hiệu nhu sau:
“Hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không đuợc pháp luật thừa nhận, không làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của các bên đã cam kết trong hợp đồng kể từ thời điểm xác
lập hợp đồng”.
Nhu vậy, theo quy định của BLDS năm 2015, hợp đồng nếu vi phạm một
trong bốn điều kiện sau thì sẽ có thể bị coi là vô hiệu.
Thứ nhất, hợp đồng vô hiệu do không có sụ tụ nguyện của các chủ thể tham
gia quan hệ hợp đồng. Bản chất của hợp đồng là sụ thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí
của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng nhung không phải bất cứ ai cũng có
quyền tham gia vào bất kỳ giao kết nào mà chỉ có các chủ thể đuợc pháp luật cho
phép mới có thể đuợc tham gia. Đe bảo vệ trật tụ xã hội, bảo vệ quyền lợi của nguời
tham gia giao dịch, pháp luật dân sụ căn cứ vào khả năng sinh học của con nguời, địa
vị pháp lý của các cá nhân và pháp nhân để đặt ra điều kiện cho phép các bên tham
gia với tu cách là chủ thể của giao dịch dân sụ. Đặc điểm này xuất phát từ nguyên tắc
tụ do thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa hai hoặc nhiều bên chủ thể dân sụ trên cơ
sở thỏa thuận. Theo đó, hợp đồng không chỉ là sụ thể hiện ý chí của các bên chủ thể
thông qua nội dung các điều khoản, mà truớc hết còn là sụ thống nhất ý chí giữa các
bên. Mỗi bên trong quan hệ hợp đồng đều có ý chí riêng của mình. Tuy nhiên, trong
hợp đồng ý chí của một bên đòi hỏi cần phải có sụ đáp lại của bên kia, tạo thành sụ
thống nhất ý chí của các bên, từ đó mới hình thành quan hệ hợp đồng. Sụ thống nhất
ý chí trong quan hệ hợp đồng phải trên cơ sở thỏa thuận. Khi tham gia vào quan hệ
giao kết hợp đồng, các bên chủ thể bình đẳng truớc pháp luật. Trong quan hệ hợp
đồng không thể có việc một bên ép buộc bên kia mà hoàn toàn là tụ nguyện, trên cơ
sở thỏa thuận để đi đến thống nhất ý chí. Các bên cùng trao đổi, cùng thỏa thuận về
các điều khoản của hợp đồng và đi đến thống nhất giao kết hợp đồng thể hiện ý chí
chung. Thỏa thuận vừa là nguyên tắc, vừa là đặc trung của hợp đồng và đuợc thể
hiện trong tất cả các giai đoạn của quan hệ hợp đồng. Do đó, khi các bên của hợp
đồng cố tình đi nguợc lại với sụ tụ do thỏa thuận, tụ do ý chí của các chủ thể tham
gia giao kết hợp đồng thì hợp đồng đó bị coi là vô hiệu.
Thứ hai, hợp đồng vô hiệu khi không đảm bảo năng lục giao kết hợp đồng.
Đe đảm bảo sụ thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia, điều kiện cần:
những nguời có ý chí độc lập, có năng lục pháp luật, có khả năng nhận thức 10
được hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát
sinh từ họp đồng. Trường họp ngược lại, người không có năng lực pháp luật, năng
lực hành vi dân sự giao kết họp đồng thì bị coi là không thể có khả năng biểu lộ ý
chí đích thực của họ - do đó không thể có sự tự nguyện. Do vậy, một trong các yếu
tố mà khoa học pháp lý và pháp luật dân sự các nước sử dụng để xác định họp đồng
vô hiệu do người tham gia giao kết họp đồng không có năng lực giao kết. Tư cách
của chủ thể tham gia quan hệ giao dịch dân sự luôn là sự thống nhất giữa năng lực
pháp luật và năng lực hành vi. Năng lực hành vi dân sự cá nhân là khả năng cá nhân
bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Còn năng lực
pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng cá nhân có quyền và nghĩa vụ được pháp
luật quy định. Năng lực pháp luật chính là điều kiện cần, năng lực hành vi chính là
điều kiện đủ để tạo ra tư cách của một chủ thể khi tham gia vào giao dịch dân sự.
Trong thực tế một số giao dịch dân sự mà chủ thể có đầy đủ năng lực hành vi nhưng
không được tham gia một số giao dịch nhất định, như: người giám hộ không được
quyền mua tài sản của người người chưa thành niên mà do chính mình giám hộ hay
là người được ủy quyền không được mua tài sản của người ủy quyền [24]. Việc
BLDS 2015 bổ sung điều kiện chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải đáp ứng hai
điều kiện về năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự là đầy đủ và khái quát
hon BLDS 2005.
Thứ ba, mục đích và nội dung của họp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật
hoặc trái với đạo đức xã hội. Nếu như BLDS 1995 và BLDS 2005 quy định nội
dung và mục đích không trái quy định pháp luật và đạo đức xã hội thì BLDS 2015
lại quy định không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Quy định
này tôn trọng nguyên tắc hiến định công dân được làm những gì pháp luật không
cấm. Trong giao kết họp đồng thì yếu tố thể hiện ý chí là một trong các nguyên tắc
chủ yếu và đặc trưng của giao dịch dân sự. Theo nguyên tắc này chủ thể tham gia
giao dịch có quyền tự do thể hiện ý chí của mình, tự do trong việc quyết định nội
dung, hình thức của giao dịch, khi xác lập giao dịch thì các chủ thể có quyền tự do
lựa chọn đối tác, tự do thỏa thuận nội dung của giao dịch, hình thức giao kết.
Nhưng sự tự do đó không mang tính tuyệt đối mà bị ràng buộc trong khuôn khổ
pháp luật cho phép. Sự ràng buộc này chính là sự hạn chế tự do của các chủ thể khi
tham gia vào giao dịch. Pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện để
bảo vệ các quan hệ xã hội, do đó, khi các quan hệ xã hội bị các chủ thể xâm phạm
hay nói cách khác họ không tuân thủ và thực hiện đúng những chuẩn mực do nhà
nước đề ra thì hành vi đó được coi là vi phạm pháp luật. Bởi
11
vậy, nhằm mục đích bảo vệ các quan hệ xã hội được nhà nước thừa nhận, nhà nước
đã đưa ra các quy định cụ thể về hợp đồng vô hiệu nhằm thể hiện phản ứng của mình
trước những hành vi giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng không đúng quy định
của pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ thể trong quan hệ hợp đồng, lợi ích
của nhà nước hoặc lợi ích của các chủ thể khác.
Tuy nhiên, nội dung hợp đồng cho dù không trái bất cứ một quy định nào của
pháp luật nhưng vẫn có thể bị vô hiệu khi vi phạm đạo đức xã hội. Pháp luật về hợp
đồng ở đa số các nước trên thế giới đều có quy định này. Ví dụ, tại Điều 113 BLDS
và thương mại Thái Lan quy định: “Một hành vi pháp lý bị vô hiệu nếu mục tiêu của
nó rõ ràng bị pháp luật ngăn cấm hoặc không thể thực hiện được, hoặc trái với trật tự
công cộng hoặc trái với đạo đức”[ 11, tr. 113].
Thứ tư, hợp đồng vô hiệu khi vi phạm quy định của pháp luật về hình thức
của hợp đồng. Hình thức là biểu hiện của nội dung hợp đồng. Xuất phát từ nguyên
tắc tự do hợp đồng, các bên tự do lựa chọn hình thức biểu hiện nội dung hợp đồng.
Do vậy, pháp luật dân sự nhiều nước không coi hình thức hợp đồng là một điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng, nhưng điều đó không có nghĩa là có thể miễn trừ hoàn
toàn các đòi hỏi về hình thức, bởi đều nhìn nhận sự cần thiết phải có sự can thiệp của
nhà nước đối với một số giao dịch nhằm bảo vệ lợi ích của các bên và lợi ích công
cộng. Do đó, đều đưa ra các đòi hỏi về hình thức đối với các giao dịch này. Trước
hết, những hợp đồng này phải được thể hiện bằng văn bản, những trường hợp chặt
chẽ hơn nó còn phải có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường
hợp này, pháp luật quy định rõ, hình thức là một điều kiện có hiệu lực đối với một số
loại hợp đồng thì các bên tham gia phải tuân thủ, nếu không hợp đồng sẽ bị vô hiệu.
1.1.2. Phân loại hợp đồng vô hiệu
1.1.2.1. Căn cứ vào thủ tục tổ tụng để tuyên bổ hợp đồng vô hiệu
Theo căn cứ này, hợp đồng vô hiệu được phân thành: hợp đồng vô hiệu tuyệt
đối và hợp đồng vô hiệu tương đối.
Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối (hay còn gọi là đương nhiên vô hiệu): Vô hiệu
không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Những trường
hợp vô hiệu này thường do nó xâm hại đến lợi ích công cộng. Các dạng thường gặp
của hợp đồng vô hiệu tuyệt đối là các hợp đồng có nội dung vi phạm điều cấm của
pháp luật, trái đạo đức xã hội, hợp đồng giả tạo.
Hợp đồng vô hiệu tương đối (hay còn gọi là hợp đồng vô hiệu có điều kiện):
Những hợp đồng này có thể bị vô hiệu theo ý chí của các bên tham gia quan hệ hợp
12
đồng. Khi họ có sự yêu cầu và đuợc Tòa án căn cứ vào yêu cầu đó để tuyên bố vô
hiệu. Các yếu tố đua đến hợp đồng vô hiệu tuong đối nhu: hợp đồng đuợc giao kết do
nhầm lẫn, đe dọa, lừa dối, do nguời không có năng lục hành vi hoặc bị hạn chế năng
lục hành vi xác lập thục hiện.
Các thuật ngữ khác nhau để chỉ các hình thức vô hiệu nói trên, có thể đuợc
pháp luật dân sụ mỗi nuớc sử dụng, ví dụ: BLDS Pháp dùng khái niệm đuơng nhiên
vô hiệu - vô hiệu có điều kiện (hoặc bị hủy bỏ); BLDS Nhật Bản, sử dụng thuật ngữ
vô hiệu - xóa bỏ; BLDS và Thuong mại Thái Lan phân chia thành hợp đồng vô hiệu có thể bị vô hiệu... Dù vậy, về bản chất, chúng không có sụ khác nhau, đó là: một
loại quan hệ chịu sụ tác động của quyền lục Nhà nuớc - ý chí Nhà nuớc quyết định
hợp đồng vô hiệu và một loại vô hiệu khác do chủ thể giao kết hợp đồng quyết định
thông qua việc hủy bỏ, thay đổi hoặc có thể yêu cầu tòa án tuyên bố vô hiệu.
Ở Việt Nam, khoa học pháp lý có quan điểm phân loại hợp đồng vô hiệu
tuyệt đối và vô hiệu tuong đối. Tuy nhiên, trong BLDS, sụ phân biệt này rất mờ nhạt,
ngoại trừ quy định về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu (theo Điều
132 BLDS): Những hợp đồng vô hiệu tuyệt đối có thời hiệu tuyên bố vô hiệu không
hạn chế nhu: Hợp đồng có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội; hợp đồng do giả tạo. Các truờng hợp vô hiệu tuơng đối thông thuờng có thời hạn
đuợc giới hạn là 2 năm kể từ ngày giao dịch đuợc xác lập. Hiện nay, trong lý luận
cũng nhu trong thục tiễn chua có sụ thống nhất về tiêu chuẩn thật rõ ràng để phân
biệt hợp đồng vô hiệu tuơng đối và hợp đồng vô hiệu tuyệt đối. Tuy nhiên, khi phân
định sụ khác nhau giữa chúng thông thuờng nguời ta dựa vào các tiêu chí: Một là, ý
chí của Nhà nuớc và của các bên đối với sụ vô hiệu của hợp đồng. Hợp đồng vô hiệu
tuyệt đối bị vô hiệu, không phụ thuộc vào ý chí của các bên trong quan hệ hợp đồng
đó, mà phụ thuộc vào ý chí của nhà nuớc. Ví dụ: Hợp đồng vận chuyển trái phép chất
ma túy đuơng nhiên vô hiệu, cho dù các bên giao kết hợp đồng không có tranh chấp
và thừa nhận với nhau quan hệ hợp đồng nhung nó vẫn vô hiệu bởi Nhà nuớc không
thừa nhận hợp đồng đó. Đối với hợp đồng vô hiệu tuơng đối, Quyết định của Tòa án
là cơ sở làm cho hợp đồng vô hiệu. Khi có đơn yêu cầu của nguời có quyền, lợi ích
có liên quan, Tòa án sẽ tiến hành xem xét. Bên có đơn yêu cầu phải chứng minh cơ
sở của yêu cầu. Ví dụ: Neu cho rằng mình ký kết hợp đồng do bị bên kia lừa dối thì
phải chứng minh đuợc sụ lừa dối đó. Dựa trên những chứng cứ này, Tòa án sẽ cân
nhắc xem hợp đồng có bị vô hiệu hay không. Hai là, sụ khác biệt về mục đích. Việc
quy định hợp đồng vô hiệu tuyệt đối nhằm bảo vệ các lợi ích công (lợi ích của Nhà
nuớc, của xã hội nói chung). Hợp đồng vô
13
hiệu tương đối, xét trong một góc độ nhất định, đều có ảnh hưởng đến lợi ích công.
Tuy nhiên, pháp luật quy định các trường họp vô hiệu này chủ yếu để đảm bảo quyền
lợi cho chính các chủ thể tham gia giao kết họp đồng. Ba là, thời hiệu khởi kiện họp
đồng vô hiệu. Họp đồng vô hiệu tuyệt đối có thời hiệu khởi kiện dài hơn, thậm chí
không có giới hạn. Đối với họp đồng vô hiệu tương đối, thời hiệu khởi kiện có hạn
định. Bốn là, chủ thể có quyền tuyên bố vô hiệu: Đối với họp đồng vô hiệu tương
đối, chỉ có người nào được pháp luật bảo vệ mới có quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu
họp đồng. Bên cùng giao kết không thể dựa vào sự vô hiệu tương đối để xin hủy bỏ
họp đồng. Đối với họp đồng vô hiệu tuyệt đối, về nguyên tắc tất cả những người có
quyền, lợi ích liên quan đều có thể yêu cầu tuyên bố họp đồng vô hiệu. Như vậy,
phạm vi của những người có quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với họp đồng bị coi
là vô hiệu tuyệt đối rộng hơn so với vô hiệu tương đối. Quan điểm này xuất phát từ
nguyên tắc ưu tiên bảo vệ lợi ích công, pháp luật không bảo vệ người có lỗi. Năm là,
khả năng khắc phục khiếm khuyết. Đối với họp đồng vô hiệu tuyệt đối, các khiếm
khuyết thông thường không khắc phục được. Ví dụ: Họp đồng vi phạm pháp luật như
buôn bán ma túy, theo pháp luật Việt Nam thì đương nhiên vô hiệu, các bên trong
quan hệ họp đồng không thể thực hiện bất cứ biện pháp nào để họp đồng có hiệu lực.
Ngược lại, khiếm khuyết của họp đồng vô hiệu tương đối thường có thể khắc phục
được. Ví dụ: Trong BLDS Việt Nam quy định trong trường họp họp đồng có yếu tố
nhầm lẫn, bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của họp đồng
đó (biện pháp khắc phục khiếm khuyết về không đảm bảo sự tự nguyện trong họp
đồng), nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Toà án
tuyên bố họp đồng vô hiệu (Điều 131). Như vậy, những họp đồng vô hiệu tuyệt đối đương nhiên vô hiệu - không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia giao kết họp
đồng mà phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Họp đồng vô hiệu tương đối - có thể bị
vô hiệu căn cứ vào ý chí của chính các bên trong quan hệ họp đồng. Ngoài ra, sự
khác biệt giữa họp đồng vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối có thể còn ở mục
đích tuyên bố họp đồng vô hiệu, thời hiệu khởi kiện, chủ thể yêu cầu tuyên bố vô
hiệu và khả năng khắc phục khiếm khuyết của họp đồng.
1.1.2.2. Căn cứ vào mức độ của sự vô hiệu
Họp đồng vô hiệu được phân chia thành vô hiệu toàn bộ và vô hiệu từng
phần.
Họp đồng vô hiệu toàn bộ không được ghi nhận cụ thể trong quy định của
BLDS, nhưng khái niệm họp đồng vô hiệu toàn bộ tồn tại dựa trên thực tế áp dụng
quy định pháp luật, nhất là điều khoản họp đồng vô hiệu một phần được ghi nhận
14
trong BLDS. Đây cũng là truyền thống xây dựng luật của một số nuớc trên thế giới.
Trong BLDS Pháp không thấy sụ ghi nhận về phạm vi vô hiệu toàn bộ lại do thục
tiễn xét xử quyết định và Tòa án cố gắng đua ra tiêu chí để giải quyết: nếu một điều
khoản bị vô hiệu là yếu tố quan trọng trong ý chí của các bên họp đồng là một khối
thống nhất thì họp đồng vô hiệu toàn bộ [58]. Khi họp đồng vô hiệu toàn bộ thì toàn
bộ quyền và nghĩa vụ đã đuợc xác lập trong họp đồng sẽ không có giá trị pháp lý tức
là không làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ đó đối với các chủ
thể trong họp đồng.
Cũng có những họp đồng vô hiệu toàn bộ nhung đối với một số điều khoản
đuợc các bên thỏa thuận ghi trong họp đồng có vai trò độc lập với họp đồng, thì khi
họp đồng vô hiệu toàn bộ, các điều khoản đó cũng có thể đuợc công nhận có hiệu lục
nếu đủ các điều kiện luật định mà không lệ thuộc vào hiệu lục của toàn bộ họp đồng.
Họp đồng vô hiệu từng phần (vô hiệu một phần) là những họp đồng đuợc xác
lập mà có một phần nội dung của nó không có giá trị pháp lý nhung không ảnh
huởng đến hiệu lục của các phần khác của họp đồng đó. Thông thuờng kết cấu của
một họp đồng sẽ bao gồm phần nội dung và hình thức. Phần nội dung của họp đồng
ghi nhận các điều khoản cụ thể trên cơ sở họp thức hóa các thỏa thuận của chủ thể
tham gia giao kết họp đồng. Do vậy, căn cứ vào điều kiện có hiệu lục của họp đồng
đã đuợc pháp luật quy định, đối chiếu với thỏa thuận chủ thể giao kết, nếu thỏa thuận
này trái luật tức là không có giá trị pháp lý. Nhung pháp luật cũng không vì một nội
dung vi phạm mà liên đới tới các nội dung không vi phạm khác.
Đối với một họp đồng vô hiệu từng phần, ngoài phần vô hiệu không đuợc áp
dụng, các phần còn lại vẫn có giá trị thi hành, nên các bên vẫn phải tiếp tục thi hành
trong phạm vi phần họp đồng vẫn còn hiệu lục. Chỉ có những phần vô hiệu mới
không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên; phần còn lại
của họp đồng vẫn có giá trị thục hiện và giá trị pháp lý ràng buộc các chủ thể trong
họp đồng trong phạm vi phần có giá trị hiệu lục đó.
Cách phân loại này tuơng đối phổ biến ở pháp luật dân sụ nhiều nuớc. Ví dụ:
Theo nội dung của quy định tại Điều 135 BLDS và Thuơng mại Thái Lan: Neu bất
kỳ phần nào của họp đồng bị vô hiệu thì toàn bộ họp đồng vô hiệu, trừ khi có thể cho
rằng, do hoàn cảnh vụ việc, hai bên ký kết có ý định tách phần có hiệu lục ra khỏi
phần vô hiệu. Pháp luật dân sụ Việt Nam có quy định tuơng tụ: Họp đồng vô hiệu
từng phần khi một phần của họp đồng vô hiệu nhung không ảnh huởng đến hiệu lục
của phần còn lại của họp đồng (Điều 130 BLDS). Trong họp đồng vô hiệu 15
từng phần, chỉ những phần họp đồng vi phạm bị vô hiệu, không ảnh hưởng đến hiệu
lực của toàn bộ họp đồng. Nói cách khác, khi họp đồng được xác định là vô hiệu
từng phần thì họp đồng vẫn tồn tại và có hiệu lực. Họp đồng vô hiệu toàn bộ được
xác định khi các điều kiện có hiệu lực của họp đồng không được đảm bảo, làm cho
toàn bộ họp đồng không có hiệu lực. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa họp đồng vô
hiệu toàn bộ và họp đồng vô hiệu từng phần.
1.1.2.3. Căn cứ vào điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Trên cơ sở các điều kiện có hiệu lực của họp đồng được quy định tại Điều 117
BLDS 2015, có thể phân chia họp đồng vô hiệu thành bốn trường họp:
Thứ nhất, họp đồng vô hiệu do người tham gia giao kết không có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Khi tham gia bất kỳ một giao dịch nào các chủ
thể cũng phải đáp ứng điều kiện về mặt năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân
sự đối với họp đồng. Chủ thể tham gia họp đồng không đáp ứng quy định này sẽ làm
cho họp đồng vô hiệu.
Thứ hai, họp đồng vô hiệu do có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của
luật, trái đạo đức xã hội. Pháp luật cùng với việc quy định cho các chủ thể những
hành vi được phép làm, cũng đã quy định những hành vi bị cấm. Bên cạnh đó, đạo
đức xã hội cũng đặt ra những chuẩn mực ứng xử đòi hỏi các chủ thể phải tôn trọng
và pháp luật cũng ghi nhận điều đó. Chính vì vậy, khi các chủ thể không tuân thủ
theo các quy định của pháp luật về điều cấm và các chuẩn mực đạo đức xã hội thì
họp đồng trở nên vô hiệu.
Thứ ba, họp đồng vô hiệu do chủ thể tham gia họp đồng không hoàn toàn tự
nguyện. Bản chất của họp đồng là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí. Chính vì vậy,
tự do ý chí và bày tỏ ý chí là các yếu tố cấu thành sự tự nguyện. Neu một trong hai
yếu tố này không có hoặc không thống nhất thì không thể có sự tự nguyện. Họp đồng
thiếu sự tự nguyện đều bị coi là vô hiệu. Mọi sự thỏa thuận không phản ánh đúng ý
chí của các bên hoặc một bên ký kết sẽ không làm phát sinh hậu quả pháp lý.
Thứ tư, họp đồng vô hiệu do hình thức không phù họp với quy định pháp luật.
Pháp luật cho phép các bên chủ thể có quyền tự do lựa chọn hình thức của họp đồng.
Tuy nhiên, trong một số trường họp pháp luật quy định họp đồng phải được lập theo
một hình thức nhất định và hình thức của họp đồng trong trường họp này được coi là
điều kiện có hiệu lực của họp đồng. Khi đó, nếu họp đồng không tuân thủ các quy
định về hình thức sẽ vô hiệu.
16
1.1.2.4. Căn cứ vào mức độ vượt quá phạm vỉ đại diện của người đại điện
Một trong các điều kiện quan trọng để công nhận hợp đồng có hiệu lục là tu
cách đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật hoặc ủy quyền) của hộ gia đình, tổ
hợp tác, tổ chức hoặc cá nhân. Trong nhiều truờng hợp, khi việc tham gia xác lập
hợp đồng thay cho nguời thứ ba không dựa trên các truờng hợp đại diện luật định thì
hợp đồng đó có thể bị vô hiệu.
- Hợp đồng vô hiệu do nguời đại diện xác lập vuợt quá phạm vi đại diện:
Thuờng thì đây là hợp đồng đuợc xác lập bởi nguời đại diện hợp pháp, nhung
do nguời đại diện đã xác lập hợp đồng trên thục tế vuợt quá phạm vi đại diện. Nguời
trục tiếp tham gia hợp đồng tuy có tu cách đại diện hợp pháp nhung nội dung hợp
đồng do họ xác lập có một phần giá trị, mức độ, phạm vi vuợt quá giới hạn đuợc ghi
trong hợp đồng ủy quyền hoặc đuợc quy định trong loại đại diện tuong ứng.
Hợp đồng đuợc xác lập vuợt quá phạm vi đại diện thì phần vuợt quá phạm vi
đại diện đó bị vô hiệu, trừ truờng hợp nguời đuợc đại diện biết mà không phản đối.
- Hợp đồng vô hiệu do nguời giao kết không có quyền đại diện:
Hợp đồng vô hiệu do nguời trục tiếp giao kết không có tu cách đại diện hoặc
tuy có tu cách đại diện nhung đã giao kết, thục hiện hợp đồng không thuộc công việc
mà họ đuợc phép đại diện. Cũng bị xem là không có tu cách đại diện nếu nguời đại
diện đua ra những tuyên bố ý chí trái với ý chí của nguời đuợc đại diện, làm những
việc không thuộc đối tuợng của quan hệ đại diện.
1.1.3. Hậu quả pháp lỷ của hợp đồng vô hiệu
Thuật ngữ “hậu quả pháp lý” đuợc sử dụng rất rộng rãi, nhung khoa học pháp
lý cũng nhu pháp luật hiện hành thuờng không đua ra một định nghĩa chính xác mà
chỉ đuợc tiếp cận theo huớng đua ra những nội dung của nó. Theo cách hiểu thông
thuờng, hậu quả là kết quả không hay xảy ra từ một quá trình, một việc làm truớc đó.
Nhu vậy, hậu quả truớc hết phải là một kết quả và kết quả đó phải đuợc xảy ra từ một
hành vi, một việc làm truớc đó và giữa chúng có mối liên hệ nhân quả. Cách hiểu
này cho thấy, không phải kết quả nào cũng có hậu quả, hậu quả chỉ là một bộ phận
của kết quả không hay, kết quả xấu. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý, thì khái niệm
“hậu quả pháp lý”có những ý nghĩa khác nhau, không phải lúc nào cũng có ý nghĩa
là kết quả xấu, hậu quả pháp lý có thể là một kết quả tốt. Ví dụ: Hậu quả pháp lý của
giao kết hợp đồng lại nhằm phát sinh, thay đổi, chấm quyền, nghĩa vụ của các bên đây là kết quả mà các bên mong đợi - một kết quả tốt. Tiếp cận từ góc độ bản chất
của hợp đồng, thì: Hợp đồng vô hiệu là những hợp đồng không đuợc pháp luật thừa
nhận. Do đó, hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu có 17
thể hiểu theo nghĩa: Là một kết quả xấu về mặt pháp lý, phát sinh theo quy định của
pháp IJ 灄 21<灄ᰀ Ő灄灄 ἁ 灄 ᰀ⅁ᰀᰀἁᰀᰀŐᰀᰀ>21 ᰀIJ⨂ᰀᰀΰᰀ°ᰀ°━ᰀᰀᰀ⌁ᰀ∁ᰀ⅁ᰀ
°ᰀ°━ᰀᰀᰀ⌁ᰀ∁
- Tình trạng pháp lý của các bên (các quyền và nghĩa vụ);
- Phuong thức xử lý giữa các bên và từ phía Nhà nuớc;
- Các chế tài có thể áp dụng.
Xuất phát từ đó, có thể nhận thấy, một số nội dung của hậu quả pháp lý khi
họp đồng vô hiệu:
Thứ nhất, khi họp đồng vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
các bên kể từ thời điểm giao kết. Các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận.
BLDS Pháp không có điều luật quy định cụ thể giải quyết hậu quả pháp lý
của họp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, có thể thấy khi họp đồng vô hiệu không làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên, việc hoàn trả tài sản theo quy định về:
Quyền sở hữu - nghĩa là tài sản thuộc quyền sở hữu của ai thì truớc hết phải hoàn trả
cho nguời đó. Những truờng họp tài sản không còn giữ nguyên đuợc trạng thái ban
đầu, hoặc trong quá trình thục hiện họp đồng có hoa lợi, lợi tức phát sinh... khi đó có
thể căn cứ thêm vào quy định “Nhận vật không có căn cứ pháp luật” để giải quyết, ví
dụ: Điều 1376 BLDS: “Nguời nào vì nhầm lẫn hoặc cố ý đã nhận vật không phải của
mình thì buộc phải trả lại cho chủ sở hữu vật đã nhận không có căn cứ pháp luật đó”.
Hoặc điều 1378 BLDS: “Neu có gian ý từ phía nguời nhận thì họ buộc phải hoàn trả
cả gốc lẫn lãi hoặc hoa lợi kể từ ngày thanh toán”.
- Tính vô hiệu của một giao dịch là tính không phát sinh hậu quả pháp lý mà
các bên mong muốn. Ví dụ: Trong họp đồng mua bán giả tạo, hành vi đó không làm
phát sinh quyền của nguời bán yêu cầu thanh toán tiền, nguời mua không có quyền
chuyển giao vật... Giao dịch dân sụ vô hiệu thậm chí trong truờng họp các bên sau đó
công nhận cũng không thể coi là có hiệu lục ngay từ khi giao kết.
- Những họp đồng có thể bị xóa bỏ (vô hiệu tuong đối) do việc thể hiện ý chí
bị tỳ vết (các truờng họp bị lừa dối, bị ép buộc, hoặc do nguời chua thành niên xác
lập, thục hiện). Neu những nguời có quyền xóa bỏ muốn xóa bỏ, họp đồng sẽ trở
thành vô hiệu: Hậu quả pháp lý của việc xóa bỏ giao dịch là hành vi đó trở nên vô
hiệu ngay từ thời điểm giao kết. Ví dụ: Khi xóa bỏ họp đồng mua bán trong đó nguời
chua thành niên bán một vật thuộc quyền sở hữu của mình, nếu vật đó chua đuợc
chuyển giao thì sẽ không có nghĩa vụ chuyển giao, nếu vật đã chuyển giao thì có
quyền yêu cầu hoàn trả. Điều dễ hiểu là trong truờng họp thứ nhất, nguời chua thành
18
trả số tiền đã nhận được. Tuy nhiên, trường hợp thứ hai này, nhằm bảo vệ có hiệu
quả hon quyền lợi của người chưa thành niên, BLDS quy định người chưa thành niên
chỉ phải hoàn trả tài sản đã nhận, nếu tại thời điểm yêu cầu hoàn trả, người chưa
thành niên còn chiếm giữ tài sản đó (Điều 121 BLDS). Điều đó có nghĩa là có thể
hoàn trả toàn bộ hoặc một phần tài sản còn lại hoặc hoàn trả tài sản trong trạng thái
đã thay đổi. Khi hợp đồng bị vô hiệu hoặc xóa bỏ, việc các quyền, nghĩa vụ thỏa
thuận trong hợp đồng nếu chưa thực hiện sẽ dừng không thực hiện, nếu đã thực hiện,
các bên phải khôi phục lại tình trạng như ban đầu. Việc khôi phục lại tình trạng ban
đầu có thể căn cứ vào chế định “thu lợi không có căn cứ”: “Thu lợi không có căn cứ”
để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong trường hợp một người không có căn cứ
chính đáng mà thu được khoản lợi nhất định của người khác. Điều đó làm phát sinh
nghĩa vụ hoàn trả lại khoản lợi cho người đã mất. Ví dụ: A trên cơ sở hợp đồng vay
đã đưa 100.000 yên cho B, tuy nhiên hợp đồng này ngay từ đầu là bất hợp pháp và
sau đó bị vô hiệu. Khi không có sự cố ý hoặc vô ý của B thì việc đó không thể coi là
sự vi phạm (Điều 709 BLDS). Đồng thời, nếu để lại khoản tiền đó ở B thì trái với
nguyên tắc công bằng. Chế định thu lợi không có căn cứ là nhằm để bảo đảm sự
công bằng bằng cách xác lập nghĩa vụ, trong nghĩa vụ nêu trên là nghĩa vụ của B
phải trả lại khoản tiền đã thu được cho A.
BLDS và Thương mại Thái Lan, có những quan điểm tương đồng về vấn đề
hoàn trả - một trong những hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu. Theo đó, quy
định: Những hợp đồng vô hiệu (vô hiệu tuyệt đối) không thể được phê chuẩn (Điều
134) đương nhiên không có hiệu lực, do đó không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ
giữa các bên. Những hợp đồng có thể bị vô hiệu (vô hiệu tương đối) nếu bị xóa bỏ
coi như vô hiệu từ khi mới bắt đầu (Điều 137). Khi hợp đồng vô hiệu, các bên phải
khôi phục lại điều kiện ban đầu, và nếu không thể khôi phục lại như vậy thì họ phải
bồi thường tương ứng (Điều 138).
- Việc khôi phục lại điều kiện ban đầu trong Luật dân sự Thái Lan căn cứ vào
chế định “Làm giàu không chính đáng” tại các quy định từ Điều 406 đến Điều 419
BLDS, theo đó: Người nào qua một hành vi do người khác thực hiện hoặc theo bất
kỳ cách nào khác nhận được cái gì đó phương hại đến người khác nói trên, mà không
có cơ sở hợp pháp, thì phải hoàn lại vật nhận được cho người đó.
+ Neu tài sản nhận được một cách không chính đáng là một khoản tiền, thì
việc hoàn trả được thực hiện toàn bộ. Trong trường hợp người đó đã nhận tiền một
cách thiện chí, họ chỉ có bổn phận hoàn trả phần đã làm giàu còn lại từ thời điểm có
yêu cầu hoàn trả.
19
+ Nếu tài sản phải hoàn trả là vật, xảy ra 2 trường họp: Nếu người nhận tài
sản đó có thiện chí thì họ chỉ có bổn phận hoàn trả nó trong nguyên trạng mà nó có,
mà không phải chịu trách nhiệm về mất mát hoặc hư hỏng của vật đó. Nhưng nếu
người nhận tài sản đó không có thiện chí, phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về mất
mát, hư hỏng ngay cả do lý do bất khả kháng gây ra.
+ Neu việc hoàn trả là không thể thực hiện được, do tính chất của tài sản đã
nhận hoặc lý do khác, thì phải hoàn trả đầy đủ giá trị tài sản bằng tiền.
Thứ hai, khi họp đồng vô hiệu, các bên phải khôi phục tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Việc hoàn trả được xem xét trước hết trên các
căn cứ quyền sở hữu: Việc hoàn trả vật, tài sản khi họp đồng bị tuyên bố vô hiệu chỉ
có thể thực hiện khi một bên (đòi hỏi lại vật) là chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu
họp pháp còn bên kia là người trên thực tế đang chiếm hữu vật; ngoài ra có thể căn
cứ thêm vào chế định “Được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật” hoặc tưong
đương (pháp luật dân sự Pháp - Nhận vật không có căn cứ pháp luật, pháp luật dân
sự Thái Lan - Làm giàu không chính đáng...)
Thứ ba, khi họp đồng vô hiệu không làm phát sinh hậu quả pháp lý mà các
bên mong muốn - có thể mang lại những thiệt hại nhất định cho các bên. Do đó, bên
có lỗi bồi thường thiệt hại. Ở đây, bồi thường thiệt hại sẽ căn cứ vào “bồi thường
thiệt hại ngoài họp đồng”.
BLDS Pháp có quy định: Neu có hành vi gây thiệt hại cho người khác do lỗi
của mình, thì phải bồi thường thiệt hại (Điều 1382).
BLDS Nhật Bản quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi họp đồng vô
hiệu căn cứ vào bồi thường thiệt hại ngoài họp đồng: “Giao dịch dân sự vô hiệu có
thể làm phát sinh trách nhiệm hình sự hoặc bồi thường thiệt hại ngoài họp đồng” [10,
tr. 169]. Đe xem xét mối liên quan giữa việc vô hiệu (hay hủy bỏ họp đồng) và bồi
thường thiệt hại, pháp luật căn cứ trên các yếu tố sau:
- Thiệt hại trong trường họp hủy bỏ họp đồng chuyển giao vật, nếu không
thực hiện nghĩa vụ cần được tính theo giá vật đó tại thời điểm hủy họp đồng, chứ
không tính theo giá vật đó tại thời điểm thực hiện nghĩa vụ (Quyết định của Tòa án
tối cao ngày 18.12.1953).
- Mức độ miễn trách nhiệm cho người thực hiện quyền hủy bỏ phải dựa vào
mức bồi thường thiệt hại. Ví dụ: Họp đồng mua bán vải với giá 100.000 yên. Nhưng
sau đó họp đồng bị hủy bỏ khi người bán còn chưa giao hàng, và người mua chưa trả
tiền. Neu tại thời điểm hủy bỏ mà giá vải tăng một mức đáng kể theo giá mới thì giá
trị lô hàng đó là 150.000 yên. Mức bồi thường thiệt hại sẽ là: 150.000 trừ đi
20
100.000 yên là mức miễn nghĩa vụ. Nếu người mua hủy bỏ hợp đồng vào thời điểm
giá vải hạ xuống 60.000 yên và người mua chưa trả tiền (100.000 yên). Trường họp
này mức bồi thường thiệt hại là 100.000 yên cộng với lãi suất do chậm thực hiện họp
đồng. Tuy nhiên, phải trừ đi mức miễn trách nhiệm cho người bán về việc cung cấp
hàng với giá 60.000 yên. Nghĩa vụ khôi phục lại tình trạng ban đầu và bồi thường
thiệt hại có thể bắt buộc đối với 2 bên. Trường họp này áp dụng những quy định đối
với việc thực hiện nghĩa vụ cùng một lúc (Điều 546 BLDS Nhật Bản) [10, tr.358359].
1.2. Khái niệm hợp đồng vô hiệu do giả tạo
1.2.1. Khái niệm
\'ề khái niệm “giả tạo”, theo Từ điển tiếng Việt thì “giả tạo” được hiểu là
“không thật”, vì được tạo ra một cách không tự nhiên trong đời sống hàng ngày
người ta thường nói nụ cười giả tạo, thương xót giả tạo... [48, tr.384]. Dưới góc độ
pháp lý, chưa có định nghĩa khái quát về thuật ngữ giả tạo. Theo từ điển giải thích
Luật học: Giao dịch dân sự do giả tạo là giao dịch được xác lập nhằm che giấu giao
dịch có thật khác. Trong giao dịch giả tạo các chủ thể không có ý định xác lập quyền
và nghĩa vụ với nhau [30, tr.24].
BLDS năm 2015 quy định về giao dịch vô hiệu do giả tạo tại Điều 124, tại
điều luật này các nhà làm luật chỉ nêu lên cách hiểu về giao dịch dân sự vô hiệu do
giả tạo và ghi nhận các hình thức của sự giả tạo. Trong khi đó tại Điều 127 BLDS
năm 2015 lại định nghĩa cụ thể khái niệm “lừa dối” trong giao dịch dân sự vô hiệu do
bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. Theo đó, lừa dối trong giao dịch dân sự là “hành vi cố ý
của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể,
tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch
đó”.
Giả tạo có tính chất quyết định đến một giao dịch, là yếu tố có thể đưa đến vô
hiệu của giao dịch đó. Tính chất quyết định làm cho giao dịch dân sự vô hiệu thể
hiện ở chỗ các bên tham gia họp đồng có sự thỏa thuận và thống nhất ý chí, ý chí đó
phải là ý chí đích thực của các bên trong quan hệ đó. Neu như họp đồng được giao
kết một cách giả tạo nhằm che giấu ý chí thật của các chủ thể thì họp đồng đó sẽ vô
hiệu. Với cách hiểu giả tạo là không "tự nhiên”, không có thật thì có thể hiểu họp
đồng vô hiệu do giả tạo là họp đồng được xác lập không thật. Trong họp đồng giả tạo
các vấn đề hậu quả pháp lý của họp đồng bị tuyên bố vô hiệu không được quy định
riêng mà để xử lý hậu quả pháp lý của họp đồng vô hiệu thì cần căn cứ vào quy định
của BLDS 2015 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu vì họp 21
đồng là một loại giao dịch dân sự. Một hợp đồng được các bên giao kết mà không
tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của họp đồng sẽ không làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm xác lập. Các bên phải
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên có lỗi gây
thiệt hại thì phải bồi thường, tài sản và hoa lợi, lợi tức có thể bị tịch thu.
Như vậy, họp đồng vô hiệu do giả tạo là họp đồng được giao kết không tuân
thủ nguyên tắc tự nguyện của các bên chủ thể khi tham gia xác lập họp đồng. Các
chủ thể tham gia giao kết họp đồng không thể hiện ý chí thực của mình mà thiết lập
quan hệ trên một ý chí sai lệch. Đôi khi các bên tham gia họp đồng vì những lý do
khác nhau đã xác lập với nhau một họp đồng không phải với ý chí chủ quan đích
thực của họ. Mục đích của các bên giao kết họp đồng giả tạo nhằm che giấu một giao
dịch khác hoặc trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.
1.2.2. Đặc điểm hợp đồng vô hiệu do giả tạo
Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều
quy định họp đồng do giả tạo là họp đồng vô hiệu. Vì vậy, họp đồng do giả tạo mang
những đặc điểm chung của họp đồng vô hiệu.
về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, khi tham gia giao kết họp đồng
các bên chủ thể đều mong muốn đạt được mục đích nhất định và pháp luật bảo hộ
cũng như tạo điều kiện để mục đích này trở thành hiện thực. Vì thế, để được pháp
luật bảo hộ, người tham gia giao kết họp đồng phải tuân theo những điều kiện mà
pháp luật quy định. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích
của người tham gia giao kết họp đồng, cũng như bảo vệ lợi ích chung của xã hội.
Sự giao kết họp đồng giả tạo với mục đích nêu trên làm cho họp đồng xác lập
giả tạo có những điểm riêng biệt với các trường họp họp đồng vô hiệu khác. Đó là
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, về ý chí các bên tham gia họp đồng xác lập họp đồng trên cơ sở ý
chí không đích thực. Xét việc xác lập họp đồng giả tạo, ý chí được bày tỏ gian ý của
mình trong việc xác lập họp đồng với nội dung hoàn toàn giả tạo khác với ý chí ban
đầu. Họp đồng giả tạo bị xác định vô hiệu là do không đảm bảo được tính tự nguyện
về ý chí giữa các bên tham gia. Tính tự nguyện ở đây không phải do sự cưỡng ép, đe
dọa mà bởi vì nó không đảm bảo giữa ý chí bên trong và sự biểu hiện ý chí ra bên
ngoài khi giao kết họp đồng. Sự tự nguyện ở đây không chỉ là sự tự nguyện trong
chính bản thân các chủ thể. Các bên phải biểu hiện ý chí một cách thoải mái và trung
thực với mong muốn của họ. Yeu tố tự nguyện phải được hiểu một cách rõ
22