Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Hôn nhân khác tộc của người Raglai với các dân tộc khác trên địa bàn huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa từ năm 1998 đến 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.73 MB, 137 trang )

i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT

NGUYỄN THỊ CÔNG NỮ

HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI RAGLAI
VỚI CÁC DÂN TỘC KHÁC TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN KHÁNH VĨNH, TỈNH
KHÁNH HÒA TỪ NĂM 1998 ĐẾN 2018
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

Lâm Đồng – 2019


ii

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT

HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI RAGLAI
VỚI CÁC DÂN TỘC KHÁC TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN KHÁNH VĨNH,
TỈNH KHÁNH HÒA TỪ NĂM 1998
ĐẾN 2018
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 8229013
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Cao Thế Trình
Học viên thực hiện: Nguyễn Thị Công Nữ



Lâm Đồng – 2019


iii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình Cao học ngành Lịch sử Việt Nam (khóa
25B) và luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ, động
viên của tất cả quý thầy cô, bạn bè, gia đình và đồng nghiệp. Nhân đây xin
bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến:
- Quý thầy cô đã tham gia giảng dạy và phụ trách lớp Cao học Lịch sử
Việt Nam khóa 25B;
- Các anh chị em đồng nghiệp;
- Gia đình, bạn bè, anh chị học viên lớp Cao học Lịch sử Việt Nam
khóa 25B đã hết lòng hỗ trợ, động viên tôi trong quá trình học tập và hoàn
thành luận văn;
- Đặc biệt tôi xin gửi đến PGS. TS. Cao Thế Trình, thầy vừa tham gia
giảng dạy tôi và cũng là người đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận
văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Lâm Đồng, tháng 07 năm 2019
Tác giả
Nguyễn Thị Công Nữ


iv

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:

Đây là công trình nghiên cứu khoa học của tôi dưới sự hướng dẫn của
PGS. TS Cao Thế Trình.
Những kết quả nghiên cứu của người khác và các số liệu được trích dẫn
trong luận văn đều được chú thích đầy đủ.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà trường về sự cam đoan này.
Lâm Đồng, ngày 04 tháng 07 năm 2019
Tác giả

Nguyễn Thị Công Nữ


v

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ iv
MỤC LỤC ......................................................................................................... v
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................ vii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU .................................................................. viii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................ 2
3. Mục tiêu của đề tài .................................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4
4.1. Đối tượng ........................................................................................... 4
4.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................... 5
5.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................... 5
5.2. Phương pháp nghiên cứu.................................................................... 6
5.3. Khái niệm ........................................................................................... 6

6. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 6
7. Bố cục của luận văn .................................................................................. 6
Chương một: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU................................... 8
1.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu ............................................................ 8
1.1.1. Điều kiện tự nhiên ........................................................................... 8
1.1.2. Dân cư ........................................................................................... 10
1.1.3. Kinh tế, văn hóa và xã hội............................................................. 13
1.2. Khái quát về người Raglai ở Khánh Vĩnh ........................................... 15
1.2.1.Vài nét về người Raglai truyền thống ............................................ 15
1.2.2. Vài nét về người Raglai ở Khánh Vĩnh ........................................ 19
1.3. Vài nét về hôn nhân của người Raglai ở Khánh Vĩnh ......................... 20
1.3.1. Hôn nhân nội bộ tộc người (HNNBTN) ....................................... 20
1.3.2. Hôn nhân khác tộc của người Raglai trước năm 1998.................. 21
Tiểu kết chương một ....................................................................................... 22


vi

Chương hai: NGUYÊN NHÂN, THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG BIẾN ĐỔI
TRONG GIA ĐÌNH HÔN NHÂN KHÁC TỘC CỦA NGƯỜI RAGLAI .... 24
2.1. Tình hình hôn nhân khác tộc của người Raglai ở Khánh Vĩnh từ năm
1998 đến 2018 ............................................................................................. 24
2.1.1. Giai đoạn 1998 đến 2010 .............................................................. 25
2.1.2. Giai đoạn 2011 đến 2018 .............................................................. 33
2.2. Những biến đổi về văn hóa trong các gia đình hôn nhân khác tộc người
Raglai .......................................................................................................... 40
2.2.1. Những biến đổi trong lĩnh vực văn hóa vật chất ........................... 40
2.2.2. Những biến đổi trong lĩnh vực văn hóa tinh thần ......................... 54
2.2.3. Những biến đổi về các vấn đề kinh tế - xã hội.............................. 63
Tiểu kết chương hai ......................................................................................... 75

Chương ba: TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TRONG HÔN NHÂN KHÁC TỘC
CỦA NGƯỜI RAGLAI .................................................................................. 77
3.1. Những mặt tích cực .............................................................................. 78
3.2. Những hạn chế của hôn nhân khác tộc ................................................ 81
3.3. Giải pháp và khuyến nghị .................................................................... 81
Tiểu kết chương ba .......................................................................................... 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 91
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 97


vii

BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Viết tắt
DTTS
ĐKKH

HNKTN
HNNBTN
KT-XH
SL
TL
TP
TT
UBKHXH
UBND

Viết đầy đủ
Dân tộc thiểu số
Đăng ký kết hôn
Hôn nhân khác tộc người
Hôn nhân nội bộ tộc người
Kinh tế - xã hội
Số lượng
Tỷ lệ
Thành phố
Thị trấn
Ủy ban Khoa học xã hội
Ủy ban nhân dân


viii

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
STT
1


2

3

4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

Kí hiệu

Tên bảng
Trang
Thống kê dân số huyện Khánh Vĩnh năm 2018
Bảng 1.1
11
theo xã và dân tộc
Bảng điều tra hoàn cảnh quen nhau của các
trường hợp người Raglai kết hôn với người dân
Bảng 2.1
30
tộc khác ở huyện Khánh Vĩnh giai đoạn 1998
đến 2010
Bảng điều tra số vụ ly hôn giữa người Raglai với

Bảng 2.2 người dân tộc khác trên địa bàn Khánh Vĩnh từ
32
năm 1998 đến 2010
Bảng điều tra hoàn cảnh quen nhau của các
Bảng 2.3 trường hợp HNKTN Raglai ở huyện Khánh Vĩnh
36
giai đoạn 2011 đến 2018
Bảng điều tra số con trong các gia đình HNKTN
Bảng 2.4
37
Raglai
Bảng điều tra số vụ ly hôn giữa người Raglai với
Bảng 2.5 các dân tộc khác trên địa bàn Khánh Vĩnh từ năm
38
2011 đến 2018
Bảng điều tra cách nấu ăn của các gia đình
Bảng 2.6
41
HNKTN Raglai ở huyện Khánh Vĩnh
Bảng điều tra kiểu nhà hiện nay các gia đình
Bảng 2.7
48
HNKTN Raglai sinh sống
Bảng điều tra nguyên nhân chọn kiểu nhà của các
Bảng 2.8
50
gia đình HNKTN Raglai
Bảng điều tra cách mặc của các gia đình HNKTN
Bảng 2.9
53

Raglai ở huyện Khánh Vĩnh
Bảng điều tra số lượng người thuộc bài hát của
Bảng 2.10
55
dân tộc mình
Bảng điều tra số lượng người biết chuyện cổ tích
Bảng 2.11
55
dân tộc mình
Bảng điều tra tình hình tôn giáo sau khi kết hôn
Bảng 2.12 của các gia đình HNKTN Raglai ở huyện Khánh
58
Vĩnh


ix

14

Bảng 2.13

15

Bảng 2.14

16

Bảng 2.15

17


Bảng 2.16

18

Bảng 2.17

19

Bảng 2.18

20

Bảng 2.19

21

Bảng 2.20

22

Bảng 2.21

Bảng điều tra tôn giáo của con các gia đình
HNKTN Raglai
Bảng điều tra thời gian quen nhau trước khi kết
hôn của người Raglai với người dân tộc khác ở
huyện Khánh Vĩnh
Bảng điều tra hoàn cảnh kinh tế của các gia đình
HNKTN Raglai

Bảng điều tra nguồn gốc rẫy của các gia đình
HNKTN Raglai ở huyện Khánh Vĩnh
Bảng điều tra loại cây trồng trên rẫy của các gia
đình HNKTN Raglai ở huyện Khánh Vĩnh
Bảng điều tra tiếng nói được sử dụng trong các
gia đình HNKTN Raglai
Bảng điều tra nguyên nhân sử dụng tiếng nói
trong các gia đình HNKTN Raglai
Bảng điều tra họ và thành phần tộc người của
con trong các gia đình HNKTN Raglai ở Khánh
Vĩnh
Bảng điều tra các trường hợp biết chữ viết dân
tộc mình

58
60
61
64
64
65
67
69
73


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua nhiều năm công tác trên địa bàn huyện Khánh Vĩnh, tỉnh

Khánh Hòa, chúng tôi thường xuyên tiếp xúc với đồng bào dân tộc Raglai và
nhận ra nhiều nét văn hóa độc đáo ở tộc người này. Qua quá trình tìm hiểu
chúng tôi được biết đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về dân tộc này và đề
cập tới nhiều phương diện như hoạt động kinh tế, xã hội và văn hóa truyền
thống..., nhưng hầu hết chỉ mới giới thiệu tổng quan về người Raglai mà chưa
đi sâu vào một vấn đề cụ thể và ở một địa bàn cụ thể có người Raglai sinh
sống, trong đó có vấn đề hôn nhân, đặc biệt là việc kết hôn của người Raglai
với các dân tộc khác trên cùng một địa bàn.
Mặc khác, Khánh Vĩnh là huyện miền núi của tỉnh Khánh Hòa. Sau
ngày đất nước thống nhất, theo chủ trương xây dựng các vùng kinh tế mới của
Đảng và Nhà nước, nơi đây đã tiếp nhận nhiều cư dân thuộc các dân tộc khác
nhau tới địa bàn này sinh sống, chính vì vậy ở đây có nhiều cuộc hôn nhân
giữa người Raglai với các dân tộc khác, tạo nên sự đa sắc trong hôn nhân ở
tộc người này và kéo theo đó là những biến đổi to lớn trên nhiều phương diện
của đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội - những vấn đề vừa mang ý nghĩa khoa
học, vừa có giá trị thực tiễn to lớn trong việc quán triệt, thực thi chính sách
đại đoàn kết dân tộc và chủ trương xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng và Nhà nước. Chẳng hạn, sau hôn
nhân, các cặp vợ chồng khác tộc và con cái của họ sẽ sử dụng ngôn ngữ nào,
theo phong tục - tập quán của dân tộc nào?.... Liệu các yếu tố văn hóa độc đáo
của các “gia đình đa văn hóa” có được bảo lưu hay biến đổi hoặc băng hoại,
giải thể,…. Chính những lý do trên nên chúng tôi quyết định chọn đề tài về
hôn nhân của người Raglai với các dân tộc khác tên địa bàn huyện Khánh


2

Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa từ năm 1998 đến 2018 làm đề tài luận văn tốt nghiệp
Cao học chuyên ngành lịch sử Việt Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Với những nét đặc sắc của một tộc người “hoang dã” đang bảo lưu
nhiều nét văn hóa cổ sơ, từ lâu dân tộc Raglai đã thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước.
Theo hiểu biết của chúng tôi, ngoài những đề cập chung chung trong bộ
Đại Nam nhất thống chí của triều Nguyễn về các nhóm “Man dân” - “nương
tựa sườn núi, gác sàn mà ở, không biết văn tự thắt nút dây để làm tin” [Quốc
sử quán triều Nguyễn, 1965, tr. 16], đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu
về dân tộc Raglai phải kể đến các học giả người Pháp như M.J.Briên (1893),
Briere (1889), J.Dournes (1950),… Tuy nhiên, trong các nghiên cứu của
mình, các học giả trên đây chỉ mới đề cập một cách sơ lược về Orang Glai,
tức Raglai, về tính hiếu khách của người Raglai - không bị nền văn minh “làm
hư hỏng” như người Srê [Jacques Dournes, 2017, tr. 97]. Tóm lại là dân tộc
Raglai chỉ mới đề cập tới trong các công trình nghiên cứu về các tộc miền núi
Tây Nguyên nói chung, chứ chưa có một công trình khảo cứu chuyên nghiệp
về tộc người này. Tương tự, trước ngày đất nước thống nhất (30.4.1975), dân
tộc Raglai cũng chỉ “thấp thoáng” trong một số công trình lược khảo về vùng
đất Tây Nguyên cũng như về các sắc tộc thiểu số ở miền Nam Việt Nam của
Nguyễn Trắc Dĩ (Đồng bào các dân tộc thiểu số Việt Nam), Cửu Long Giang
- Toan Ánh (Cao nguyên miền Thượng), … Phải đợi tới sau ngày miền Nam
hoàn toàn giải phóng, việc nghiên cứu về các DTTS các tỉnh phía Nam, trong
đó có người Raglai, mới được tiến hành một cách mạnh mẽ và thu được nhiều
kết quả đáng ghi nhận. Trước hết phải kể tới công trình Các dân tộc ít người ở
Việt Nam (các tỉnh phía Nam) của Viện Dân tộc học thuộc UBKHXH Việt
Nam (Phần dân tộc Raglai từ tr. 266-275 do Phan Văn Dốp viết) (Viện Dân


3

tộc học, 1984.). Tiếp đó phải kể tới các chuyên khảo về dân tộc Raglai của
Nguyễn Tuấn Triết (Người Raglai ở Việt Nam, 1991), Phan Xuân Biên (chủ

biên), (Văn hóa và xã hội người Raglai ở Việt Nam, 1998); Trung tâm nghiên
cứu Việt Nam - Đông Nam Á Trường Đại học KHXH-NV, ĐHQG TP Hồ
Chí Minh với công trình - Những vấn đề văn hóa và ngôn ngữ Raglai, 2003,
Phan Quốc Anh với “xê ri” - Văn hóa Raglai - những gì còn lại và Văn hóa
Raglai xuất bản trong các năm 2007 và 2010. Gần đây nhất, phải kể đến phần
viết “Dân tộc Raglai” của Th.S. Vũ Đình Mười trong công trình đồ sộ do
PGS. TS. Vương Xuân Tình chủ biên - Các dân tộc Việt Nam gồm 4 tập, 5
quyển. (Vũ Đình Mười, 2018, tr. 479-556). Đó là chưa kể hàng trăm bài báo
khoa học đăng tải trên các tạp chí Dân tộc học, Khoa học Xã hội Việt Nam,
Văn hóa và nghệ thuật, Văn hóa các dân tộc,… và hàng chục luận án, luận
văn tiến sĩ, cao học, tốt nghiệp đại học hoặc lựa chọn những phương diện
khác nhau của văn hóa truyền thống Raglai làm đề tài nghiên cứu, trong số đó
có thể kể tên của một số cây bút chuyên sâu về văn hóa Raglai như Hải Liên,
Sử Văn Ngọc, Nguyễn Thế Sang, Trần Kiêm Hoàng,…
Chúng tôi chưa đủ điều kiện và thời gian để đọc hết các ấn phẩm giới
thiệu về dân tộc Raglai, song với những công trình “chủ lực” về dân tộc này
mà chúng tôi đã tiếp cận, có thể khẳng định những tác giả đi trước đã có nhiều
đóng góp hết sức đáng trân trọng trong việc giới thiệu những nét văn hóa đặc
sắc của dân tộc Raglai trong vườn hoa nhiều hương sắc của một nền văn hóa
Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Những kết quả nghiên cứu của các học
giả đi trước đã cung cấp cho chúng tôi nguồn tư liệu phong phú về các
phương diện khác nhau của văn hóa Raglai, cũng như hun đúc lên trong
chúng tôi ngọn lửa đam mê, thái độ trân quý với tộc người hiền lành, mộc
mạc chất phác ở dưới chân núi phía Nam dãy Trường Sơn hùng vĩ của Tổ
quốc. Tuy nhiên, trong phạm vi hiểu biết của chúng tôi, cho đến nay vẫn chưa


4

có tác giả nào quan tâm đến mảng đề tài về quan hệ hôn nhân giữa người

Raglai với các dân tộc khác trong mấy thập niên gần đây. Rõ ràng, đây là một
mảng đề tài phản ánh sự chuyển dịch của văn hóa truyền thống Raglai trong
xã hội đương đại, thể hiện rõ nét xu hướng vận động thông qua sự “lựa chọn”
“sàng lọc” những gì tinh túy của các gia đình “đa văn hóa” Raglai nói riêng,
dân tộc Raglai - nói chung. Theo chúng tôi, đây cũng là một khoảng trống cần
khỏa lấp khi nghiên cứu về dân tộc Raglai.
3. Mục tiêu của đề tài
- Khảo sát tình hình kết hôn của người Raglai với các dân tộc khác trên
địa bàn huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa từ năm 1998 đến 2018.
- Đánh giá những nét mới trong kiểu gia đình này và xu hướng chuyển
biến của các yếu tố văn hóa truyền thống, văn hóa của người Raglai và các
văn hóa khác trên địa bàn.
- Cảnh báo và đề xuất những biện pháp ngăn chặn các hiện tượng mai
một, giải thể những giá trị văn hóa truyền thống, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong
đa dạng, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Những cặp vợ chồng có ĐKKH mà vợ hoặc chồng là người Raglai kết
hôn với vợ hoặc chồng là người thuộc các dân tộc khác sống trên địa bàn
huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi:
Do thời gian có hạn nên chúng tôi tiến hành khảo sát về tình hình
HNKTN Raglai trên địa bàn 12 xã, 1 thị trấn trên tổng số 13 xã, 1 thị trấn
huyện Khánh Vĩnh. Đó là TT Khánh Vĩnh, xã Khánh Thượng, Sơn Thái, Liên


5


Sang, Cầu Bà, Khánh Thành, Khánh Phú, Sông Cầu, Khánh Nam, Khánh
Trung, Khánh Hiệp, Khánh Bình, Khánh Đông (trừ xã Giang Ly).
- Thời gian: từ năm 1998 đến 2018.
Sở dĩ chúng tôi chọn năm 1998 làm mốc mở đầu cho nghiên cứu của
mình chủ yếu liên quan đến nguồn tài liệu về hôn nhân còn lưu trữ tại các xã
trên địa bàn huyện. Như chúng ta đều biết, do thói quen từ truyền thống, đồng
bào các DTTS ở địa phương hầu như không tiến hành thủ tục ĐKKH khi lập
gia đình. Không chỉ các cặp vợ chồng cao niên mà ngay cả những cặp vợ
chồng ở độ tuổi trung niên cũng thường chỉ thực hiện các nghi lễ hôn nhân
truyền thống, về ăn ở với nhau trong suốt nhiều năm, “sinh con đẻ cái”, mãi
tới lúc chính quyền địa phương yêu cầu tiến hành thủ tục ĐKKH để lập sổ hộ
khẩu và các giấy tờ tùy thân khác của công dân họ mới thực hiện các thủ tục
pháp lý xác nhận vợ chồng. Thiết nghĩ, đây cũng là tình trạng khá phổ biến
với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên và các tỉnh duyên hải miền Trung,
thậm chí cho tới gần đây vẫn còn có những trường hợp tảo hôn, các cặp nam
nữ về sinh hoạt vợ chồng trong vài ba năm, lúc cô dâu/chú rể đủ tuổi mới tới
UBND xã tiến hành ĐKKH.
Bên cạnh lý do về tài liệu sơ cấp, năm 1998 là thời gian huyện Khánh
Vĩnh dần ổn định về mặt dân số sau thời gian tăng đột biến.
- Không gian: Địa bàn huyện Khánh Vĩnh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tập trung ở các nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) về
xây dựng và phát triển một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc; Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa IX) về công tác dân tộc trong tình
hình mới.


6


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp lịch sử, so sánh, logic; phương pháp liên ngành;
phương pháp sử học định tính kết hợp định lượng, điều tra Dân tộc học kết
hợp điều tra Xã hội học; phương pháp tổng hợp và phân tích dữ liệu có sẵn;
phương pháp phỏng vấn sâu; phương pháp thu thập và xử lý thông tin qua
hình ảnh.
5.3. Khái niệm
Theo luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có nêu: “Hôn nhân là quan
hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn” [Quốc hội, 2014, tr. 2].
Hôn nhân khác tộc là “quan hệ giữa vợ và chồng thuộc hai tộc người
khác nhau sau khi kết hôn” [Vũ Phương Nga, 2017, tr. 32].
6. Đóng góp của luận văn
- Giúp địa phương có cái nhìn toàn cảnh để có những chính sách phù
hợp với cuộc sống của người Raglai và các dân tộc khác sinh sống trên địa
bàn, đặc biệt về vấn đề hôn nhân và gia đình.
- Phát huy cái mới, cái hay và định hướng cho việc bảo tồn các giá trị
văn hóa tốt đẹp của các dân tộc mà chủ yếu là của người Raglai ở huyện
Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa.
- Làm tài liệu tham khảo cho tất cả những ai quan tâm tới vấn đề DTTS
ở Khánh Hòa, nhất là với dân tộc Raglai và tình hình hôn nhân ở tộc
người này.
7. Bố cục của luận văn
Gồm 3 chương
Chương một: Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Trong chương này chúng tôi trình bày một cách khái quát về huyện
Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa trên các phương diện điều kiện tự nhiên, dân
cư, kinh tế, xã hội; vài nét về người Raglai ở Khánh Vĩnh.



7

Chương hai: Nguyên nhân, thực trạng và những biến đổi trong gia đình
hôn nhân khác tộc của người Raglai.
Trong chương này chúng tôi trình bày về nguyên nhân và thực trạng
của HNKTN Raglai trong hai giai đoạn từ 1998 đến 2010, từ 2011 đến 2018;
Trình bày về những biến đổi về văn hóa như: ăn, mặc, ở của các gia
đình HNKTN Raglai ở huyện Khánh Vĩnh.
Chương ba: Tích cực và hạn chế trong hôn nhân khác tộc của người
Raglai.
Trình bày được những mặt tích cực và hạn chế từ HNKTN, tổng quan
kết quả nghiên cứu - đề xuất kiến nghị trong việc bảo tồn và phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Raglai trong công cuộc xây dựng một
nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở địa phương.
Trong phần kết luận chúng tôi khái quát lại một số kết quả nghiên cứu
của luận văn đồng thời nêu lên một số dự báo về xu hướng vận động của văn
hóa truyền thống dân tộc Raglai nói riêng và các tộc người cùng cộng cư
trong khu vực, nói chung.


8

Chương một
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Khánh Vĩnh là một trong hai huyện miền núi của tỉnh Khánh Hòa, có
diện tích tự nhiên 1.165 km2, trong đó, rừng chiếm 3/4 diện tích, đất nông
nghiệp chiếm khoảng 8.600 ha, trải dài từ Bắc xuống Nam khoảng 32 km,
rộng từ Tây sang Đông khoảng 30 km. Vị trí của huyện trên bản đồ Việt Nam

được giới hạn khoảng 12,07 đến 12,25 độ vĩ Bắc và từ 108,42 đến 109 độ
kinh Đông, nằm dọc phía Tây hai huyện Diên Khánh và Ninh Hòa; phía Nam
giáp huyện Lạc Dương - Lâm Đồng, huyện Khánh Sơn; phía Tây - Bắc giáp
huyện MaĐrăk và Krông Pông tỉnh ĐăkLăk. Địa giới huyện được bao bọc 3
mặt bởi các ngọn núi cao, tạo địa hình thấp dần ở vùng giữa từ Tây sang
Đông.
Về tài nguyên thiên nhiên: núi và rừng chiếm đến 3/4 diện tích toàn
huyện, 1/4 còn lại là rừng thưa, bằng phẳng ven sông có thể khai phá thành
ruộng, rẫy trồng lúa và hoa màu.
Núi ở Khánh Vĩnh cao trung bình 1.000m so với mặt biển nhưng lại
gần biển. Do đó, khí hậu Khánh Vĩnh vừa chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới
gió mùa nóng ẩm, vừa ảnh hưởng khí hậu đại dương có độ ẩm lớn, lượng mưa
trung bình cao, phân bố không đều trong các mùa, các vùng. Điều kiện tự
nhiên thuận lợi tạo cho vùng núi Khánh Vĩnh có thảm thực vật phong phú, đa
dạng. Nguồn tài nguyên thiên nhiên là lâm thổ sản của Khánh Vĩnh có trữ
lượng lớn, lâm nghiệp là một thế mạnh trong kinh tế của huyện.
Rừng Khánh Vĩnh có diện tích lớn và có nhiều loại gỗ quý như: mun,
gõ, hương, căm xe, kiền kiền, bằng lăng, sao… Những loại gỗ này dùng để


9

đóng tàu thuyền, vật liệu xây dựng, đồ gia dụng có giá trị xuất khẩu. Các loại
mây, song, lá buông là nguồn nguyên liệu làm hàng mỹ nghệ. Rừng Khánh
Vĩnh cũng tập trung nhiều loại cây dược liệu quý: đảng sâm, sa nhân, hà thủ
ô, thiên niên kiện, cổ chi, vàng đắng, bo bo… Thú rừng tương đối đa dạng và
phong phú, gồm các loại thú lớn quý hiếm: hổ, báo, heo rừng, hưu, nai, voi,
gấu, khỉ, vượn,…và các loại thú nhỏ như: cầy hương, cheo, nhím,…các loại
bò sát: rắn, trăn, tê tê, kỳ đà, kỳ tôm… Người xưa có truyền lại câu nói nổi
tiếng: “Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận”.

Đất Khánh Hòa nổi tiếng được truyền tụng là “Xứ trầm hương”. Nhà
bác học Lê Quý Đôn có viết về loại đặc sản này như sau: “Kỳ nam hương
xuất từ đầu núi các xã thuộc hai phủ Bình Khang và Diên Khánh xứ Quảng
Nam là thứ tốt nhất… Hương ấy là do ở ruột cây dó kết thành. Dó có 3 loại:
dó lưỡi trâu thì thành khổ trầm, dó niệt thì thành trầm hương, dó bầu thì thành
kỳ nam hương…”. Cây dó là loại cây cho trầm kỳ mọc tập trung ở vùng núi
cao Khánh Vĩnh. Ngoài kỳ nam và trầm hương, rừng Khánh Vĩnh còn có
nhiều dược liệu quý: mật ong, dầu rái, gạc nai,…
Đất nông nghiệp của huyện có diện tích nhỏ (khoảng 8.600 ha), phân
bố không tập trung giữa các vùng như ven sông Cái (ở Thác Ngựa), sông
Giang, sông Chò, sông Cầu, chủ yếu trồng bắp, lúa, mì, rau các loại và cây ăn
trái. Vùng đồi thấp thuận lợi cho việc trồng cây công nghiệp và phát triển
thành đồng cỏ để chăn nuôi đàn đại gia súc: bò, trâu, dê…
Ở Khánh Vĩnh có các sông lớn như sông Chò phát nguyên từ dãy Chư
Tông chảy qua buôn Đung Ninh (của người Ê đê) xuống Suối Môn, Trảng
Thông, Pa Kẳng hòa vào sông Cái vùng Bến Khế; sông Giang cũng phát
nguyên từ dãy Chư Tông chảy qua buôn Ma Phu (của người Ê đê) xuống
vùng Suối Cá, Hòn Mưa, qua Sở Năm Lân, hòa vào sông Cái. Sông Cái là
sông lớn nhất của Khánh Vĩnh (cũng là con sông lớn nhất của tỉnh Khánh


10

Hòa) phát nguyên từ các đỉnh núi cao vùng ranh giới 3 tỉnh Khánh Hòa, Lâm
Đồng và Đăk Lak chảy xuống thôn Cần Đại (Gia Bí), Tà Gộc đến vùng Gia
Lê xuống Hòn Dù. Ngoài ra còn có các sông nhỏ như Trảng Thông, sông
Trang, sông Cầu, sông Khế. Tất cả các nguồn sông này đều hòa vào sông Cái
chảy xuống đồng bằng Diên Khánh, Nha Trang đổ ra cửa biển Cù Lao (Thành
phố Nha Trang).
Sông suối của Khánh Vĩnh không rộng. Nơi đầu nguồn sông suối vượt

qua nhiều ngọn thác. Có 3 ngọn nguy hiểm nhất là: Thác Ngựa, Thác Trâu và
Thác Dàng Xay. Dân gian ở đây có câu: “Ngựa Lồng, Trâu Đụng, Dàng Xay;
khỏi 3 thác ấy khoanh tay mà nằm”. Tuy vậy, càng xuống thấp, tốc độ dòng
chảy nhỏ dần. Về mùa mưa, nước sông dâng rất nhanh, mặt sông rộng ra và
nước chảy xiết [Huyện ủy Khánh Vĩnh, 2005, tr. 9-14].
Đường giao thông: Khánh Vĩnh có 4 đường giao thông chính, đó là:
- Tỉnh lộ số 2 là trục giao thông huyết mạch chính của huyện từ Khánh
Vĩnh dọc theo sông Cái về TT Diên Khánh.
- Tỉnh lộ số 8 nối từ km8 (TT Ninh Hòa) của quốc lộ 21 chạy vào vùng
Kà Hon (xã Khánh Bình).
- Hương lộ 45 từ xã Diên Phú, huyện Diên Khánh (phía bắc Cầu
Thành) chạy lên xã Khánh Bình.
- Đường quốc lộ 27c nối 2 tỉnh Lâm Đồng và Khánh Hòa (nối TP Đà
Lạt với TP biển Nha Trang) đã trở thành tuyến giao thông huyết mạch giữa
hai tỉnh, mà còn với các tỉnh từ Khánh Hòa trở ra khi đến với TP Đà Lạt.
1.1.2. Dân cư
Theo số liệu của Chi cục Thống kê huyện Khánh Vĩnh, năm 1999 dân
số toàn huyện là 26.570 người, năm 2009 là 33.991 người, đến năm 2018 là
39.478 người [Chi cục thống kê huyện Khánh Vĩnh, 1999, 2010, 2018]. Từ


11

năm 1999 đến năm 2018, dân số toàn huyện tăng 12.908 người. Cụ thể về bức
tranh tộc người ở huyện Khánh Vĩnh đến năm 2018 như sau: (Xem bảng 1.1)
Bảng 1.1: Thống kê dân số huyện Khánh Vĩnh năm 2018 theo xã và dân tộc
Dân tộc
Đơn vị
TT Khánh
Vĩnh

Xã Khánh
Hiệp
Xã Khánh
Bình
Xã Khánh
Trung
Xã Khánh
Đông
Xã Khánh
Thượng
Xã Khánh
Nam
Xã Sông
Cầu
Xã Giang
Ly
Xã Cầu Bà
Xã Liên
Sang
Xã Khánh
Thành
Xã Khánh
Phú
Xã Sơn
Thái
Tổng cộng

Kinh

Raglai Ê-đê Cơ ho* Mường Tày


SL
2.574 1.638
TL (%)
54,8
34,9
SL
517 1.584
TL (%)
13,3
40,7
SL
1.572 2.451
TL (%)
32,8
51,1
SL
638 1.628
TL (%)
21,3
54,2
SL
2.252 1.022
TL (%)
68,4
31,0
SL
97 2.150
TL (%)
3,7

81,8
SL
375 1.172
TL (%)
19,1
59,7
SL
1.021
178
TL (%)
83,8
14,6
SL
78
72
TL (%)
4,7
4,3
SL
57
685
TL (%)
2,2
26,4
SL
201 1.663
TL (%)
10,4
86,2
SL

191 1.712
TL (%)
9,7
87,1
SL
295 2.735
TL (%)
8,4
78,0
SL
176
416
TL (%)
7,6
18,0
SL
10.044 19.106
TL (%)
25,4
48,4

28
0,6
1.226
31,5
236
4,9
0
0
6

0,2
324
12,3
1
0,1
1
0,1
6
0,4
19
0,7
23
1,2
0
0
15
0,4
4
0,2
1.889
4,8

89
1,9
75
1,9
0
0
22
0,7

0
0
21
0,8
12
0,6
10
0,8
1.512
90,3
1.821
70,2
20
1,0
33
1,7
375
10,7
1.715
74,0
5.705
14,5

40 272
0,9
5,8
38 181
1,0
4,7
38 337

0,8
7,0
151 371
5,0 12,4
0
13
0
0,4
11
9
0,4
0,3
23 221
1,2 11,3
0
8
0
0,7
0
6
0
0,4
4
6
0,2
0,2
13
0
0,7
0

21
0
1,1
0
6
78
0,2
2,2
4
0
0,2
0
311 1.540
0,8
3,9

Nùng Khác** Tổng
49
1,0
246
6,3
163
3,4
162
5,4
0
0
0
0
148

7,5
0
0
0
0
0
0
2
0,1
0
0
0
0
2
0,1
772
2,0

8
0,2
22
0,6
2
0
30
1,0
1
0
15
0,6

10
0,5
0
0
0
0
3
0,1
8
0,4
8
0,4
4
0,1
0
0
111
0,3

[Nguồn: Chi cục thống kê huyện Khánh Vĩnh]; (*) Nhóm T’rin

4.698
100
3.889
100
4.799
100
3.002
100
3.294

100
2.627
100
1.962
100
1.218
100
1.674
100
2.595
100
1.930
100
1.965
100
3.508
100
2.317
100
39.478
100


12

(**)Bao gồm các dân tộc: Dao, Khơ me, Chăm, Hoa, Thái, Hrê, Thổ,
Mnông
Theo số liệu của Chi cục Thống kê, tính đến ngày 31 tháng 12 năm
2018, dân số huyện Khánh Vĩnh là 39.478 người, mật độ dân số trung bình là
33,2 người/km2, có đại diện của 15 dân tộc anh em sinh sống, gồm Kinh, Tày,

Hoa, Mường, Dao, Nùng, Ê-đê, Cơ ho (nhóm T’rin), Hrê, Raglai, Thái,
Chăm, Thổ, Mnông, Khơ me.
Trong bức tranh chung về các dân tộc ở Khánh Vĩnh, dân tộc Raglai có
19.106 người, chiếm 48,4% tổng dân số toàn huyện, Kinh 10.044 người
(25,4%) và Cơ ho (nhóm T’rin) là 5.705 người chiếm 14,5%, dân tộc Ê-đê với
tổng số dân là 1.889 người chiếm 4,8% (đa số tập trung sống ở xã Khánh
Hiệp - 1.226 người).
Raglai và Ê-đê là hai dân tộc sinh sống lâu đời ở Khánh Vĩnh. Dân tộc
Cơ ho (nhóm T’rin) ở Khánh Vĩnh có nguồn gốc từ Lâm Đồng, vào các “năm
1957 đến 1958, Mỹ - Diệm lập khu tập trung Gia Lê, chúng đưa đồng bào
K’Ho,…từ Đà Lạt tập trung về đây khoảng 1.500 người. Sau khi vùng tập
trung Gia Lê bị ta phá thì số dân này định cư ở đây” [Huyện ủy Khánh Vĩnh,
2005, tr. 17]. Ngày nay, họ sống tập trung ở xã Sơn Thái, Cầu Bà.
Các dân tộc còn lại đến vùng này trong thời kì sau khi giải phóng hoàn
toàn miền Nam thống nhất đất nước theo chủ trương xây dựng các vùng kinh
tế mới. Các dân tộc di cư từ miền Bắc vào như Tày, Thái, Nùng sống chủ yếu
ở các xã Khánh Nam, Khánh Trung, Khánh Hiệp. Người Kinh sống chủ yếu ở
TT Khánh Vĩnh.


13

1.1.3. Kinh tế, văn hóa và xã hội
1.1.3.1. Kinh tế
Cơ cấu kinh tế của huyện Khánh Vĩnh là nông - lâm nghiệp, công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ.
Nông - lâm nghiệp: Là huyện miền núi nên hoạt động kinh tế gắn liền
với lâm nghiệp. Những năm gần đây, công tác khoán, trồng, chăm sóc rừng
được nhân dân hưởng ứng tích cực nên diện tích trồng và chăm sóc ngày một
tăng “(25 ha rừng trồng tập trung và 25.000 cây phân tán (năm 2017))”

[UBND huyện Khánh Vĩnh, 2018a, tr. 2]. Ngoài ra, công tác quản lý bảo vệ
rừng đã khai thác tận thu và đóng búa kiểm lâm cho hàng trăm m3 gỗ, nạn
cháy rừng vẫn diễn ra 1 vụ trong năm 2018 ở xã Khánh Thượng (thiệt hại
143,29 ha rừng phòng hộ) [UBND huyện Khánh Vĩnh, 2018a, tr. 2].
Về trồng trọt và chăn nuôi: Ngoài trồng cây công nghiệp, cây ăn quả,
lúa rẫy, hiện nay cây lúa nước đã được canh tác phổ biến ở nhiều xã như
Khánh Trung, Khánh Bình, Khánh Đông.
Đặc biệt, trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi bà con nông dân trong
huyện đã áp dụng kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp như đổi mới giống cây
trồng, trồng cây ăn trái có giá trị kinh tế cao như bưởi da xanh, nuôi heo theo
mô hình trang trại, nuôi cá tầm,… Kết quả thu được rất khả quan và đây là thế
mạnh cũng là hướng đi trong nông nghiệp của huyện.
Về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: Hiện nay cụm công nghiệp
Sông Cầu đang xây dựng, chuẩn bị đưa vào hoạt động. Nghề tiểu thủ công
nghiệp phổ biến là chẻ tăm hương, do tận dụng nguồn nguyên vật liệu sẵn có
tại địa phương như tre, lồ ô,… nhưng kinh doanh theo kiểu nhỏ, lẻ.
Sản xuất mộc dân dụng, mộc mỹ nghệ là thế mạnh của huyện trong
những năm qua, nhưng chủ yếu do tư nhân tự lập xưởng chế tác và
kinh doanh.


14

Về thương mại - dịch vụ do mức độ tập trung dân số chưa cao và sức
mua của người dân còn hạn chế, nên trên địa bàn huyện chưa có những trung
tâm thương mại lớn mà chủ yếu là những hoạt động kinh doanh cá thể nhỏ lẻ,
đa số phục vụ nhu yếu phẩm cần thiết cho người dân. Đây là mặt hạn chế của
huyện Khánh Vĩnh.
1.1.3.2. Văn hóa - xã hội
Trong những năm gần đây, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi, tỷ

lệ sinh con thứ 3 trên địa bàn huyện có chiều hướng giảm. Công tác chăm sóc
sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân
được đẩy mạnh.
Huyện Khánh Vĩnh đã phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo, tuy nhiên hiệu
quả chưa cao. Tính đến năm 2018 còn 43,98% [Chi cục thống kê huyện
Khánh Vĩnh, 2018, tr. 65].
Tình hình trẻ em đến tuổi tới lớp đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên cần có
biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập, hạn chế tỷ lệ bỏ học ở
các cấp.
Hoạt động tôn giáo tại các xã trên địa bàn huyện nhìn chung không có
vấn đề phức tạp. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện và các đoàn thể
đã tích cực trong việc tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân, tín đồ,
chức sắc, nhà tu hành chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật
của Nhà nước về tôn giáo, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội.
Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao, thông tin tuyên truyền phục
vụ nhân dân trên địa bàn huyện được chú trọng thực hiện, nhất là vào dịp kỉ
niệm những ngày lễ lớn của đất nước và ngày giải phóng Khánh Hòa.


15

1.2. Khái quát về người Raglai ở Khánh Vĩnh
1.2.1.Vài nét về người Raglai truyền thống
1.2.1.1. Về lịch sử tộc người, địa bàn cư trú, hoạt động kinh tế
Người Raglai thuộc ngữ hệ Malayo - Polinesian, cùng ngữ hệ với các
dân tộc khác ở Việt Nam như người Chăm, Ê-đê, Churu, Gia rai. Có nhiều ý
kiến xung quanh nguồn gốc các tộc người này, nhưng nổi lên 2 luồng giả
thuyết: các cư dân khối ngôn ngữ này đã từ các đảo phía Nam Trung Quốc di
cư qua đất liền đến các nước Đông Dương, sau đó lan tỏa ra các đảo Đông

Nam Á; giả thuyết thứ hai là trên đường từ các đảo Nam Trung Quốc xuống
các đảo Đông Nam Á, có một bộ phận rẽ vào đất liền Việt Nam. Tuy nhiên,
các giả thuyết trên còn nhiều tranh cãi. Điều mà giới nghiên cứu đều khá
thống nhất là “từ xa xưa nhóm tộc người Malayo- Polinesian đã cư trú trên
một địa bàn rất rộng, bao quát cả một vùng ở Đông Nam Á và Đông Á, trong
đó có địa bàn ở phía Nam Đông Dương” [Tô Đông Hải, 2011, tr. 23-24].
Các nhà nghiên cứu chia người Raglai thành “Raglai Bắc và Raglai
Nam là hai nhánh được phân định từ tư duy của người viết, nó hoàn toàn
không phụ thuộc và căn cứ vào một tài liệu nào trước đây có nói đến “Raglai
Bắc” và “Raglai Nam”” [Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, 2011, tr. 17].
Ranh giới là quốc lộ 27 từ Phan Rang lên Lâm Đồng. Nhánh Raglai Bắc từ
các huyện Thuận Bắc, Ninh Hải, Bắc Ái của tỉnh Ninh Thuận ra đến huyện
Khánh Sơn, Khánh Vĩnh tỉnh Khánh Hòa. Nhánh Raglai Nam từ quốc lộ 27
trở vô đến Bình Thuận.
Sở dĩ cần phải phân ra hai nhánh là để giúp cho người đọc dễ nhận diện
về sự đậm nhạt, thậm chí có trường hợp khác biệt về các di sản văn hóa phi
vật thể của cùng một tộc người và nhất là để người đọc, với nhận định khách
quan, có thể xác định được hướng di dân tiếp tục về phương Nam của một bộ
phận người Raglai trước đây vốn có mối quan hệ gốc rễ với cộng đồng tộc


16

người ở phía Bắc cực Nam Trung Bộ (Raglai Bắc) [Hội văn nghệ dân gian
Việt Nam, 2011, tr. 17-18].
“Địa bàn cư trú truyền thống của người Raglai tiếp giáp với vùng Ê-đê
ở phía Bắc, với người Churu ở phía Tây, với các nhóm dân tộc Cơ ho ở phía
Tây và Tây Nam, với người Chăm ở phía Đông” [Phan Xuân Biên (Chủ
biên), 1998, tr. 23]. Ngày nay người Raglai cư trú nhiều nhất ở các tỉnh Ninh
Thuận, Khánh Hòa, ngoài ra cư trú ở Lâm Đồng và Bình Thuận.

Người Raglai trước đây sống trong “các làng cô lập, nhỏ, hoặc vùi sâu
trong thung lũng một dòng suối, hoặc treo lưng chừng một sườn núi dốc.
Làng gắn với rẫy, nó thường di chuyển khi đất đã bạc màu” [Jacques
Dournes, 2017, tr. 95].
Hoạt động kinh tế chính của người Raglai là nông nghiệp nương rẫy
nên phụ thuộc vào thiên nhiên rất nhiều. Chính vì điều đó nên họ chia thành
hai loại rẫy: Kra là rẫy trên đất phù sa dọc theo sông, suối, rẫy trên cao không
bị ngập nước gọi là Apu. Tùy theo loại rẫy mà họ lựa chọn cây trồng phù hợp
để thu hoạch dễ dàng, tránh thất thu.
Ngoài hoạt động kinh tế chính là nương rẫy, “ở một số địa phương,
đồng bào Raglai có canh tác lúa nước, nhưng năng suất thấp. Canh tác lúa
nước trong đồng bào Raglai có một số tập quán kiêng kỵ… không được giã
hai loại lúa: lúa ruộng và lúa nương trong một cối, không được nấu gạo lúa
nước và gạo lúa nương trong một nồi. Theo quan niệm của đồng bào sử dụng
lẫn lộn là làm đảo lộn trật tự vốn có của tạo hóa cho nên dẫn đến mầm mống
của các tai họa: ốm đau, điên loạn, cọp bắt. Từ quan niệm như vậy, cho nên
đồng bào Raglai chưa chú ý đến việc làm thủy lợi cho lúa nước lắm, mặc dù
họ rất sáng tạo trong việc dùng sức nước để làm giàn đá kêu giữ rẫy” [Hoàng
Nam, 2013, tr. 356].


×