TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
------- -------
KIM DIỆU LINH
VĂN HÓA NAM BỘ TRONG ĐẤT
RỪNG PHƯƠNG NAM CỦA ĐOÀN
GIỎI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục mầm non
HÀ NỘI – 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
------- -------
KIM DIỆU LINH
VĂN HÓA NAM BỘ
TRONG ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM
CỦA ĐOÀN GIỎI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục mầm non
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH
HÀ NỘI - 2018
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài, được sự giúp đỡ tận tình
của cô giáo – Tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Minh, tác giả khóa luận xin gửi lời
cảm ơn sâu sắc tới cô!
Tác giả khóa luận cũng xin cảm ơn chân thành các thầy, cô trong khoa
Giáo dục Mầm non – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện tốt
nhất cho tác giả hoàn thành khóa luận này.
Hà Nội, tháng 05 năm 2018
Sinh viên
Kim Diệu Linh
LỜI CAM ĐOAN
Để hoàn thành khóa luận này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi
đã
nhận được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo - Tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết
Minh.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả
nghiên cứu không trùng với kết quả nào khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2018
Sinh viên
Kim Diệu Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 3
4. Mục đích nghiên cứu..................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
6. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 4
7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 4
NỘI DUNG ....................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1. GIỚI THUYẾT CHUNG............................................................ 5
1.1. Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa ....................................................... 5
1.1.1. Khái niệm văn hóa ............................................................................... 5
1.1.2. Quan hệ giữa văn học và văn hóa ........................................................ 6
1.2. Tác giả Đoàn Giỏi và tiểu thuyết Đất rừng phương Nam ......................... 7
1.2.1. Cuộc đời và thân thế ............................................................................ 7
1.2.2. Sự nghiệp văn chương ......................................................................... 8
1.2.3. Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam...................................................... 9
CHƯƠNG 2. VĂN HÓA NAM BỘ TRONG ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM
- NHÌN TỪ NỘI DUNG PHẢN ÁNH............................................................ 13
2.1. Bức tranh thiên nhiên đặc trưng của Nam Bộ.......................................... 13
2.1.1. Thiên nhiên hoang sơ, dữ dội............................................................. 13
2.1.2. Thiên nhiên trù phú, hiền hòa ............................................................ 18
2.2. Con người Nam Bộ .................................................................................. 24
2.2.1. Những cư dân ở vùng đất mới ........................................................... 24
2.2.2. Những cư dân với phong cách đặc trưng Nam Bộ ............................ 28
CHƯƠNG 3. VĂN HÓA NAM BỘ TRONG ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM
- NHÌN TỪ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT .................................................... 40
3.1. Nghệ thuật kể chuyện............................................................................... 40
3.2. Ngôn ngữ đậm đà văn hóa Nam Bộ ......................................................... 42
3.3. Giọng điệu ................................................................................................ 45
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 51
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Là người con của Nam Bộ nói riêng, người con của mảnh đất hình chữ
“S” thân thương nói chung, khi nhắc tới văn chương Nam Bộ với lối văn mộc
mạc, gần gũi với đời sống thực tế, làm sống lại những hoài niệm về vùng sông
nước và con người chân chất, không ai không nhớ tới nhà văn Đoàn Giỏi.
Không chỉ ban tặng cho con người sự giàu có về tài nguyên, vùng đất phương
Nam còn đem đến cho các nhà văn nguồn chất liệu, đặc biệt là nguồn cảm
hứng dồi dào trong sáng tác. Văn học miền Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay đã
chứng kiến sự ra đời của nhiều cây bút, và Đoàn Giỏi là một trong số đó.
Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam là tác phẩm nổi bật nhất trong quá
trình sáng tác của Đoàn Giỏi. Bối cảnh câu chuyện rất đặc trưng của vùng Tây
Nam Bộ, với rừng tràm bạt ngàn, dòng sông mênh mông, con đò bập bềnh,
tôm cá đầy đàn, Đoàn Giỏi như gửi trọn vào tác phẩm của mình. Đất rừng
phương Nam đã mang đến người đọc nhiều thú vị về bối cảnh, con người, tập
tục văn hóa của vùng nông thôn Nam Bộ. Nhà văn mượn hình ảnh một cậu bé
bị lưu lạc trong thời kì kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ để giới thiệu đất
rừng phương Nam. Nơi đó, một vùng đất vô cùng giàu có, hào phóng và hùng
vĩ với những con người trung hậu, trí dũng, một lòng một dạ theo kháng chiến.
Có thể nói, Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi như một xã hội của miền
sông nước Tây Nam Bộ thu nhỏ. Bởi ở nơi đó, người đọc đã tìm thấy hình ảnh
người dân của vùng đất phương Nam từ sông Tiền, sông Hậu trải dài đến
Kiên Giang, Rạch Giá, rồi xuống tận rừng U Minh, sau đó dừng lại ở Năm
Căn, Cà Mau. Bối cảnh trong Đất rừng phương Nam là cả một đất trời thiên
nhiên ưu đãi, cánh đồng bát ngát mênh mông, sóng nước rì rầm, rừng rậm bạt
ngàn trù phú, thú rừng hoang dã muôn loài… Sự tài tình của Đoàn Giỏi là như
tái tạo lại bối cảnh sông nước, con người của thuở ông cha ta còn mang gươm
mở cõi.
1
Đoàn Giỏi đã biến Đất rừng phương Nam trở thành thân thuộc, đáng
yêu đối với độc giả, không chỉ là độc giả nhỏ tuổi. Những trang văn của ông
thấm
đượm hơi thở của sông nước, rừng cây, những câu chuyện cả thực, cả kỳ bí
của thiên nhiên Nam Bộ hoang sơ và truyền được hơi thở ấy cho độc giả. Có
được
điều đó không những là nhờ tình yêu đối với miền đất Nam Bộ quê hương, mà
còn ở óc quan sát tỉ mỉ, tinh tế, lối văn kể chuyện hấp dẫn trong tác phẩm của
nhà văn.
Bằng quá trình lao động nghệ thuật say mê, miệt mài, tác giả Đoàn Giỏi
đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà nói chung và nền văn
học thiếu nhi Việt Nam nói riêng. Có mảnh đất sinh ra những nhà văn, và
ngược lại, có nhà văn từ trang viết đã biến miền quê riêng của mình thành
miền quê chung, thân thuộc trong tâm tưởng bao người. Đoàn Giỏi đã đem
đến cho bạn đọc cả nước những hiểu biết và tình cảm về một vùng đất mà
trước đó xa ngái, hoang sơ trong hình dung của mọi người. Ông đã xây dựng
những nhân vật đầy nghĩa khí mà tinh tế và giàu chất văn hóa.
Đó là những lí do khiến chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài khóa luận
“Văn
hóa Nam Bộ trong Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi”.
2. Lịch sử vấn đề
Đoàn Giỏi để lại một khối lượng tác phẩm khá lớn và giá trị với vai trò
là một trong những tác giả tiên phong sáng tác cho thiếu nhi, một trong những
nhà văn lao động có trách nhiệm và hiệu quả để nuôi dưỡng tâm hồn thế hệ trẻ
của đất nước. Ông được đánh giá là cây bút xuất sắc trong văn học thiếu nhi
Việt Nam. Sáng tác của ông đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều bạn
đọc và nhà nghiên cứu, đặc biệt là tiểu thuyết Đất rừng phương Nam.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nói rằng, ông hai lần là bạn đọc của Ðất
rừng phương Nam. Lần đầu, lúc là cậu bé, Ðất rừng phương Nam đã gieo vào
tâm hồn trẻ thơ của ông một hạt tinh thần quan trọng và kỳ diệu, mở ra thế
2
giới kỳ lạ, kỳ bí, bí ẩn của thiên nhiên luôn gắn với số phận con người...
Còn với
3
lần đọc khi đã trưởng thành, Nguyễn Quang Thiều nói: “Cuốn sách đầu tiên
tôi viết cho thiếu nhi là bị ảnh hưởng của Ðất rừng phương Nam cũng như Dế
mèn phiêu lưu ký. Vì thế, tôi mang ơn nhà văn Ðoàn Giỏi vì ông đã gieo vào
tâm hồn tôi một hạt văn chương, một suy ngẫm về nghề: nếu không còn cảm
xúc, đắm mê trước vũ trụ trong đó có đời sống con người thì khó có thể có
được những trang văn làm rung cảm tâm hồn mọi thế hệ” [11].
Đánh giá về văn chương Đoàn Giỏi, nhà văn Anh Đức từng nhận định:
“Với một đời văn trên bốn mươi năm, nhà văn Đoàn Giỏi đã để lại cho đời
những dòng đẹp đẽ đậm sắc thái và đầy sinh thú về quê hương, đất nước, con
người ở vùng đất Nam Bộ thân yêu của Tổ quốc ta. Văn của Đoàn Giỏi vừa
mang chất trữ tình lại vừa lạ kỳ, sôi động” [12].
Nhà thơ Chế Lan Viên cho rằng: “Văn của Đoàn Giỏi luôn ngồn ngộn
nguồn tư liệu và vốn sống mà tác giả chắt lọc. Là một nhà văn chịu khó tìm
tòi nghiên cứu mọi chuyện một cách ngọn ngành, nên trang viết của ông
thường rất góc cạnh, gồ ghề nhưng cũng đậm đặc chân tình như quê hương
ông, miền đất hoang sơ và hào phóng miền Tây Nam Bộ. Đoàn Giỏi là một
trong những người đầu tiên truyền bá ngôn ngữ Nam Bộ hiện đại qua những
tác phẩm của mình” [12].
Ngoài ra, một số khóa luận, luận văn cũng tìm hiểu về tác phẩm của
Đoàn Giỏi, song chưa có công trình nào đi sâu tìm hiểu Văn hóa Nam Bộ
trong Đất rừng phương Nam. Đây là khoảng trống để chúng tôi nghiên cứu đề
tài. Chúng tôi xem những ý kiến của các công trình đi trước là những gợi ý
quan trọng để tiếp tục nghiên cứu về Đất rừng phương Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, khóa luận khảo sát tiểu thuyết Đất rừng
phương Nam của Đoàn Giỏi, Nxb Văn học, Hà Nội, 2012.
Về phạm vi nghiên cứu, khóa luận đi sâu tìm hiểu Văn hóa Nam Bộ
trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi.
4
4. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận hướng tới tìm hiểu Văn hóa Nam Bộ trong tiểu thuyết Đất
rừng phương Nam, qua đó, chúng tôi mong muốn góp phần bé nhỏ vào việc
giáo dục cho học sinh nhỏ tuổi bài học về nhận thức, tình cảm, đạo đức như
yêu quê hương, đất nước, yêu vùng quê Nam Bộ của Tổ quốc. Đồng thời,
khóa luận giúp người viết nâng cao năng lực nghề nghiệp, giúp cho việc giảng
dạy trẻ em lứa tuổi Mầm non sau này.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu loại hình
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp liên ngành
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
6. Đóng góp của khóa luận
Thông qua khóa luận, chúng tôi mong muốn góp một phần bé nhỏ vào
việc giáo dục cho trẻ Mầm non.
Khóa luận tiếp tục khẳng định đóng góp của nhà văn Đoàn Giỏi đối với
nền Văn học thiếu nhi Việt Nam.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phẩn Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung của khóa
luận được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Giới thuyết chung
Chương 2: Văn hóa Nam Bộ trong Đất rừng phương Nam – nhìn từ nội
dung phản ánh
Chương 3: Văn hóa Nam Bộ trong Đất rừng phương Nam – nhìn từ hình
thức nghệ thuật
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Đó là trình độ hiểu biết
về những giá trị tinh thần thuộc về một thời kì lịch sử nhất định. Theo Trần
Ngọc Thêm, từ “văn hoá” có nhiều nghĩa, được dùng để chỉ những khái niệm
có nội hàm hết sức khác nhau. Tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau,
nhưng suy cho cùng, khái niệm “văn hoá” bao giờ cũng có thể quy về hai cách
hiểu chính: nghĩa hẹp và nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều
rộng, theo không gian hoặc theo thời gian. Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa
được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ
thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị
trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…). Giới hạn theo
không gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng
(văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá
được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn
hoá Đông Sơn…).
Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì
do con người sáng tạo ra. Năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết:“Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương
thức sử
6
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của
sự sinh tồn” [15].
1.1.2. Quan hệ giữa văn học và văn hóa
Giữa văn học và văn hoá có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau.
Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong
tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá
thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học
là hoạt động lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất. Để có được
những thành quả quả đó, văn hoá của một dân tộc cũng như của toàn thể nhân
loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh và sáng
tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể hiện con đường
tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã hình thành. Cũng có thể
nói, văn học là văn hoá lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật. Để đi sâu vào mối
quan hệ giữa văn hóa và văn học, cần cụ thể hóa các thành tố cơ bản của
chúng, đó là: những thành tố cơ bản của văn hóa có vai trò quyết định tới sự
chuyển đổi những thành tố cơ bản của văn học tương ứng.
Từ quy luật vận động của văn hóa nói chung, và của văn hóa Việt Nam
nói riêng, chúng tôi nhận thấy sự biến đổi của hệ thống văn hóa phải được xác
định từ sự biến đổi của ba thành tố cơ bản dưới đây:
- Thành tố cơ sở văn minh của văn hóa (xác định cơ sở kinh tế, chính
trị, xã hội của văn hóa).
- Thành tố hệ tư tưởng của văn hóa (tức khuynh hướng phát triển của xã
hội về mặt tinh thần).
- Thành tố tâm lý xã hội (xác định vị trí con người được biểu hiện thành
ý nguyện, khát vọng, sở thích…).
7
Như vậy, dựa trên ba thành tố cơ bản của văn hóa đưa đến việc xác định
ba thành tố cơ bản của văn học tương ứng:
- Thành tố đối tượng thẩm mỹ (hình thành do thay đổi văn minh và
thay đổi quan hệ cơ bản giữa người với người).
- Thành tố tư tưởng sáng tạo nghệ thuật thời đại (hình thành do sự thay
đổi hệ tư tưởng và lý tưởng thẩm mỹ).
- Thành tố các nguyên tắc xây dựng nhân vật thời đại. Thành tố này là
kết quả của sự thay đổi tâm lý xã hội, dẫn tới khát vọng muốn có mẫu người
lý
tưởng của thời đại mình.
Xác định được cấu trúc của văn hóa (qua các thành tố cơ bản của nó)
mới có thể thấy hết vai trò quyết định của văn hóa đối với văn học. Ngược lại,
xác định cấu trúc của văn học (qua các thành tố cơ bản của nó) mới thấy được
tính chất văn học (cũng như nghệ thuật) là “một bộ phận trọng yếu của văn
hóa”.
1.2. Tác giả Đoàn Giỏi và tiểu thuyết Đất rừng phương Nam
1.2.1. Cuộc đời và thân thế
Đoàn Giỏi tên thật là Đoàn Văn Giỏi, sinh ngày 17/5/1925 tại xã Tân
Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Cuộc đời và thân thế của nhà văn
Đoàn Giỏi là câu chuyện đầy cảm động và anh dũng của người chiến sĩ – nghệ
sĩ tự nguyện đi theo tiếng gọi của đất nước trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ hào hùng của dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, Đoàn Giỏi công tác trong ngành An ninh, rồi làm công tác thông tin,
văn nghệ, từng giữ chức Phó trưởng Ty thông tin Rạch Giá. Ông công tác tại
Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, viết bài cho tạp chí Lá lúa, rồi tạp chí Văn nghệ
miền Nam từ năm 1949-1954. Sau 1954, ông tập kết ra Bắc, đến năm 1955,
ông chuyển sang sáng tác và biên tập sách báo, công tác tại Đài tiếng nói Việt
8
Nam, rồi Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà
văn Việt Nam các khóa I, II, III. Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
9
Đoàn Giỏi mất ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Bệnh viện Thống nhất
thành phố Hồ Chí Minh bởi chứng bệnh xơ gan hiểm nghèo. Ông ra đi trong
sự nuối tiếc, nhớ thương của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp, cả với sự dở
dang của tiểu thuyết Núi cả cây ngàn mới còn là tập bản thảo. Để tưởng nhớ
ông, ngày
7 tháng 4 năm 2000, Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định
lấy tên Đoàn Giỏi đặt tên cho một phố thuộc quận Tân Phú.
1.2.2. Sự nghiệp văn chương
Sự nghiệp văn chương của Đoàn Giỏi gắn liền với những thăng trầm
của lịch sử và thời đại, với những cương vị và công việc ông đã từng tham
gia. Ngoài cái tên Đoàn Giỏi quen thuộc, trong nền văn học nước nhà, ông còn
được bạn đọc biết đến với những bút danh khác như Nguyễn Hoài, Nguyễn
Phú Lễ, Nguyễn Thị Huyền Tư.
Đoàn Giỏi bắt đầu sự nghiệp sáng tác năm 1943 với truyện ngắn Nhớ
cố hương. Ông “bắt đầu viết đều và khỏe” kể từ khi tập kết ra Bắc. Những
sáng tác của ông thuộc nhiều lĩnh vực và thể loại khác nhau như: truyện ngắn,
thơ, ký, tùy bút, tiểu thuyết, ký sự lịch sử. Dưới đây là những tác phẩm chính
trong sự nghiệp văn chương của Đoàn Giỏi:
- Tiểu thuyết: Đường về gia hương (1948), Cá bống mú (1956), Đất
rừng
phương Nam (1957), Cuộc truy tầm kho vũ khí (1962).
- Truyện ngắn: Hoa hướng dương (1960).
- Truyện ký: Ngọn tầm vông (1956), Trần Văn Ơn (1955), Từ đất Tiền
Giang, Người thủy thủ già trên hòn đảo lưu đày, Đèn tôi bay về Lục Hồ Chí
Minh.
- Ký: Khí hùng đất nước (1948), Những dòng chữ máu Nam Kỳ 1940
(1948), Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, Cây đước Cà Mau, Tết Nguyên Đán ở
Nam Bộ
10
- Kịch thơ: Người Nam thà chết không hàng (1947), Chiến sĩ Tháp Mười
(1949).
- Thơ: Bến nước mười hai, Truyện thằng Cồi, Giữ vững niềm tin (1954).
- Biên khảo: Những chuyện lạ về cá (1981), Tê giác giữa ngàn xanh
(1982).
Nhìn nhận toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Đoàn Giỏi, có thể thấy, ông
đặt bút trên nhiều thể loại, nhưng mảnh đất làm nên tên tuổi, đồng thời đánh
dấu nhiều thành công nhất của ông chính là văn xuôi với các tác phẩm truyện
và ký.
Bằng sự say mê sáng tạo, thái độ làm việc nghiêm túc trong sự lao động
không ngừng, Đoàn Giỏi đã thể hiện mình với tư cách một cây bút xuất sắc
của văn học Việt Nam, của quê hương Nam Bộ, như nhà văn Nguyễn Mạnh
Tuấn từng nhận định, ông “là con đẻ và là kết tinh của văn hóa phương
Nam”, là “một trong những nhà văn Nam Bộ nhiều tính cách Nam Bộ nhất
mà tôi không thể nào quên” [14].
1.2.3. Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam
1.2.3.1. Hoàn cảnh sáng tác và sức sống của tác phẩm
Đất rừng phương Nam ra đời vào khoảng đầu năm 1957, khi đó Đoàn
Giỏi đang làm việc tại Đài tiếng nói Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng
khi ấy đang phụ trách việc chuẩn bị thành lập NXB Kim Đồng tìm đến gặp
Đoàn Giỏi đề nghị viết một tác phẩm về thiếu nhi Nam Bộ. Chỉ còn 4 tháng là
đến thời điểm khai sinh NXB Kim Đồng, vì thế, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng
đặt hàng nhà văn Đoàn Giỏi viết trong thời gian 4 tháng. Ông nhận lời, nhưng
gần 4 tháng trôi qua, vẫn chưa động bút. Cho đến tháng 5, khi nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng gặp lại, nhấn mạnh rằng cuốn sách đó sẽ in đúng vào thời
điểm ra đời của NXB Kim Đồng là tháng 6-1957. Đến lúc này, Đoàn Giỏi bắt
đầu viết. Ông viết trong nỗi nhớ quê hương da diết, vì thế, chỉ sau một tháng,
ông đã kịp hoàn
11
thành Đất rừng phương Nam để “trả nợ”. Đây là tác phẩm đầu tay Đoàn Giỏi
viết cho thiếu nhi và đã được đông đảo bạn đọc đón nhận nhiệt tình.
Trong lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Đoàn Giỏi do NXB Kim
Đồng và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức hôm 26-5, nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ
tịch Liên hiệp các hội Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn
Việt Nam đã không giấu được nỗi xúc động. Là người may mắn tiếp xúc với
tác giả Đất rừng phương Nam nhiều lần, nhà thơ Hữu Thỉnh kể lại nhiều kỷ
niệm nhưng ông cũng không quên khẳng định tài năng, cốt cách của Đoàn
Giỏi: “Người ta nói rằng những nhà văn thực sự tài năng là những nhà văn
có khả năng bước qua đề tài, thể loại và đơn đặt hàng. Đoàn Giỏi chính là
một nhà văn như thế” [13].
Đất rừng phương Nam làm thay đổi một nhận thức vốn là định kiến
trong giới rằng, một tác phẩm viết theo đơn đặt hàng thì bị gò bó, trói buộc cả
đề tài và cảm xúc. Nhưng tác phẩm này lại vượt qua những ràng buộc đó,
Đoàn Giỏi hoàn toàn tự do với đơn đặt hàng và trở thành một trong những tên
tuổi viết cho thiếu nhi hay nhất Việt Nam. Đất rừng phương Nam ra đời như
một bông hoa đẹp đã đáp ứng sách viết cho thiếu nhi và có ngay một vị trí
quan trọng trong nền văn học nước nhà. Hiện nay, tác phẩm này đã được dịch
ra nhiều thứ tiếng
nước ngoài.
Đất rừng phương Nam là một tác phẩm viết cho thiếu nhi mà lại làm
say lòng cả người lớn và Đoàn Giỏi là một trong những nhà văn để lại ấn
tượng sâu sắc nhất trong lòng các thế hệ bạn đọc ở nước ta. Ông là ví dụ đẹp
đẽ cho câu nói:“Ai yêu tuổi thơ, người đó có cả thế giới”.
1.2.3.2. Tóm tắt tác phẩm
Đất rừng phương Nam viết về cuộc đời phiêu bạt của cậu bé tên An.
Bối cảnh của tiểu thuyết là miền Tây Nam Bộ Việt Nam vào những năm sau
12
khi thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Nam Bộ. Pháp mở những trận đánh
khiến
13
cho những người dân sống tại thành thị phải di tản. An và ba mẹ cũng phải bỏ
nhà bỏ cửa để chạy giặc. Theo cha mẹ chạy hết từ vùng này tới vùng khác của
miền Tây Nam Bộ, An kết bạn cùng với những đứa trẻ cùng trang lứa và có
cuộc sống tuổi thơ vùng nông thôn đầy êm đềm. Nhưng cứ vừa ổn định được
mấy bữa thì giặc đánh tới nơi và lại phải chạy. Trong một lần mải chơi, giặc
đánh đến và An đã lạc mất gia đình. Cậu trở thành đứa trẻ lang thang. Ở nơi
chợ búa này, cậu gặp những người đầu tiên cứu mạng mình. Dì Tư Béo bảo
cậu về làm giúp cho quán ăn của dì. Thế là từ đó, cậu có nơi nương tựa, không
còn phải chịu cảnh đói khổ qua ngày. Tại quán ăn dì Tư Béo, An có cơ hội
tiếp xúc với nhiều người: anh Sáu tuyên truyền, những anh bộ đội, những kẻ
Việt gian bán nước như vợ chồng Tư Mắm, những người nông dân chân chất
như lão Ba Ngù. Vợ chồng Tư Mắm làm nghề bán mắm dọc các con kênh
rạch. Vợ Tư Mắm là người đàn bà xinh đẹp, muốn mua chuộc An làm tay sai.
Một buổi tối, An vô tình đọc được những dòng chữ tiếng Pháp viết trong cuốn
sổ của vợ chồng Tư Mắm. An biết rằng bọn họ là Việt gian. Khi họ hỏi thì An
đối đáp rất thông minh rằng, mình thấy nó đẹp mà chả hiểu gì. Nhưng dì Tư
sau đó lại bảo rằng An biết tiếng Pháp. Vì thế, An chạy trốn, hai vợ chồng Tư
Mắm đốt cháy quán dì Tư rồi bỏ đi. Dì Tư Béo định dẫn An lên Thới Bình
sinh sống nhưng An đã quyết định ở lại và tiếp tục cuộc sống không nơi
nương tựa. Sau đó An gặp lại cha con ông lão bán rắn và Võ Tòng. An đã đi
theo họ và trở thành con nuôi của ông Hai rắn, anh em của thằng Cò. Tuy
nghèo khó vất vả nhưng tía má nuôi rất thương An, coi cậu như con ruột của
mình. An còn được tía và thằng Cò dắt đi câu rắn, đi ăn ong và học được
nhiều kinh nghiệm, thấy nhiều
điều mới lạ mà An chưa từng biết. Tía nuôi dắt An đi tới thăm chú Võ Tòng.
Võ Tòng sau này đòi đi giết Việt gian vì địch mua chuộc ông Ba Ngù. Trong
lần phục kích giặc trên cây, Võ Tòng đã giết chết tên Việt gian và một tên lính
ngụy. Nhưng cuối cùng Võ Tòng đã bị mụ Tư Mắm chỉ điểm rồi bị tên tướng
14
bắn chết. Ông Ba Ngù kêu An chỉ mụ Tư Mắm và biết được thói quen là
thường đi tắm vào buổi chiều, nên ông đã núp dưới đám bèo và dùng nỏ bắn
chết mụ. Thời gian sau bọn giặc phải lao đao nhiều lần vì ông. U Minh thượng
đã bị giặc đóng chiếm, gia đình tía nuôi và An rời đi U Minh hạ sinh
sống, gia nhập
phường săn cá sấu, sau đó tới Sróc Miên, chợ Mặt Trời, Năm Căn. Tại đây An
gặp lại dì Tư Béo và rồi An theo các anh du kích hoạt động cách mạng.
15
CHƯƠNG 2
VĂN HÓA NAM BỘ TRONG ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM - NHÌN TỪ
NỘI DUNG PHẢN ÁNH
2.1. Bức tranh thiên nhiên đặc trưng của Nam Bộ
2.1.1. Thiên nhiên hoang sơ, dữ dội
Nói về Đoàn Giỏi, nhà văn Huỳnh Mẫn Chi đã thâu tóm tất cả sự hoang
sơ, trầm tịch của vùng đất phương Nam vào tính cách giản dị và mộc mạc của
chính Đoàn Giỏi như sau: “Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi như một xã
hội của miền sông nước Tây Nam Bộ thu nhỏ. Bởi ở nơi đó, người đọc đã tìm
thấy hình ảnh người dân của vùng đất phương Nam từ sông Tiền, sông Hậu
trải dài đến Kiên Giang - Rạch Giá, rồi xuống tận rừng U Minh, sau đó dừng
lại ở Năm Căn, Cà Mau. Bối cảnh trong Đất rừng phương Nam là cả một đất
trời thiên nhiên ưu đãi, cánh đồng bát ngát mênh mông, sóng nước rì rầm,
rừng rậm bạt ngàn trù phú, thú rừng hoang dã muôn loài. Sự tài tình của
Đoàn Giỏi đã tái tạo lại bối cảnh sông nước, con người của thuở ông cha ta
còn mang gươm mở cõi” [1].
Đoàn Giỏi rất am hiểu về vùng quê cha đất mẹ và làm thiên nhiên sống
lại bằng ngòi bút điêu luyện của mình. Đó là một thiên nhiên với thời tiết khắc
nghiệt, cùng một thế giới động vật đa dạng, phong phú và hung dữ.
2.1.1.1. Thiên nhiên với thời tiết khắc nghiệt
Vì am hiểu thiên nhiên nơi đây nên những trang văn Đoàn Giỏi viết về
sự khắc nghiệt của thời tiết Nam Bộ vô cùng chân thực. Đây là khung cảnh dữ
dội của thời tiết: “Lâu lâu, trời lại chớp lên một cái. Mặt nước dòng kênh sáng
rực lên trong ánh chớp. Những đầu ngọn cây tràm và chiếc xuồng không đang
buộc bên kia bờ hiện lên xanh biếc, dường như trời đất cỏ cây và những gợn
16
sóng lăn tăn không ngớt vỗ nhẹ đôi bờ kia thảy đều rung rung trong sắc xanh
kì ảo, mắt người chưa kịp trông rõ đã biến mất vào bóng tối” [3, tr.36].
Đây là cảnh thời tiết nặng nề từ cuối mùa khô để chuẩn bị cho mùa
mưa: “Những ngày đầu mùa mưa năm 1946 cứ ì ạch nặng nề lê đi từng bước
khó khăn như người đàn bà sắp ở cữ cứ trở dạ mãi mà vẫn chưa đẻ được. Ở
cái vùng nước mặn miền Tây Nam Bộ này, người ta mong mưa như bọn trẻ
con chúng tôi mong mẹ về chợ. Mưa có nước ngọt uống, có nước cầy bừa,
nhưng
điều quan trọng nhất trước mắt, là mưa có thể làm chậm bước của địch trong
các cuộc tấn công, gây trở ngại cho chúng trên các nẻo đường hành quân vì
trơn trượt, sình lầy. Trời càng sắp mưa thì càng oi bức khó chịu, ban ngày
mặt trời đổ nắng chang chang, nóng như giội lửa. Chỉ khi đêm đến mới có đôi
chút gió lao xao từ hướng Vịnh Thái Lan thổi tới” [3, tr.19].
Thời tiết Nam Bộ có thể ví như một cô nàng đỏng đảnh. Trời vừa nắng
to, rồi vài cơn gió bắt đầu thổi nghe man mát là cơn giông đã ùn ùn tới: “Mây
ở đâu từ dưới rừng xa, lúc nãy còn không trông thấy, giờ đã đùn đùn lên đen
sì như núi, bao trùm gần kín khắp bầu trời. Từng cuộn mây khói đen là là hạ
thấp xuống mặt kênh làm tối sầm những ngọn sóng đang bắt đầu gào thét,
chồm chồm tung bọt trắng xóa. Từng đàn cò bay vùn vụt theo mây, ngửa mặt
trông theo gần như không trông kịp. Xóm chợ Ngã Ba kênh dường như bé lại
thu mình cúi rạp xuống mặt đất. Mấy chiếc xuồng ba lá, mấy chiếc tam bản
của người trên phố buộc dưới chân cầu nước trồi lên hụp xuống theo lượn
sóng nhào, dựng mũi ngóc lên như ngựa muốn bứt dây cương” [3, tr.51].
Chứng kiến thời tiết khắc nghiệt nơi đây mới thấy hết nỗi nhọc nhằn của người
nông dân Nam Bộ. Hình ảnh con cò
tượng trưng cho những người nông dân làm lụng vất vả không kể ngày đêm
hay bão táp mưa giông. Thiên nhiên nơi đây luôn tiềm ẩn những nguy hiểm
17
đối với con người, nhưng vì cuộc sống mưu sinh họ vẫn hàng ngày đối mặt
với nó như một quy luật tất yếu.
18
Đây là khung cảnh thiên nhiên khi trời sắp chuyển mưa: “Gió thổi ầm
ầm ù ù, như có hàng nghìn chiếc cối xay lúa khổng lồ đang quay thẳng cánh
trên trời. Bên kia chỗ tôi đứng trống huếch trống hoác không một lùm cây bụi
cỏ. Nhiều lúc, tôi có cảm giác như gió sắp nhấc bổng tôi lên, thổi tung đi. Dãy
phố ngó mặt ra kênh chuyển mình nghe răng rắc, cột gỗ hàng hiên lay lay như
đưa theo một chiếc võng vô hình. Ngói bị cuốn tung lên, bay khua lảng cảng
trên nóc nhà nhiều nghe đến phát sợ” [3, tr.51]. Trời đất nổi giận và hung dữ,
thách thức bản lĩnh con người: “Trời đất mỗi lúc một tối sầm lại. Vũ trụ quay
cuồng trong cơn gió mãnh liệt. Những tia chớp xé rạch bầu trời đen kịt phát
ra những tiếng nổ kinh thiên động địa chung quanh ngôi miếu” [3, tr.52].
Thiên nhiên phương Nam thử thách con người bởi sự khắc nghiệt ngay
từ những buổi đầu khai hoang để bắt đầu cuộc sống mới. Sự hoang dã, khắc
nghiệt nơi đây hiện lên trên từng trang viết, khiến người đọc kinh ngạc: “Xa
lắm, ánh lửa còn bừng lên nhiều chỗ. Có chỗ trông rõ cả ngọn lửa bốc cháy
trên đầu ngọn cây. Một vùng chân trời rực đỏ. Xa xa có những đàn chim lượn
vòng trên cao, kêu líu ríu. Có lẽ chúng đang ngơ ngác không tìm về được nơi
rừng xưa tổ cũ, nên cứ lượn mãi giữa trời kêu bi thiết đấy chăng?” [3, tr.154].
Một hệ sinh thái gần như đã bị cái nóng thiêu cháy: “Những con rùa, con cần
đước bò qua trảng cỏ trốn chạy không kịp, bị lửa đốt cháy còn trơ lại những
cái mai như nồi đất úp lổm ngổm trên tro tàn. Một khối than khổng lồ còn giữ
nguyên hình gốc cây, đang âm ỉ bốc khói bên cạnh chỗ chúng tôi giấu xuồng.
Lục bình, rau mác dưới lung bị lửa táp cháy rụi lớp lá bên trên, phần chìm
dưới
nước thì bị nước nóng luộc chín cả. Xác cá, tôm, xác rắn trương phình trên
mặt
nước phủ đầy tàn tro, bốc lên một mùi thối khắm nhức cả óc” [3, tr.159].
Mùa mưa ì ạch nặng nề, hung dữ bao nhiêu thì mùa nắng gắt gỏng, khắc
nghiệt bấy nhiêu: “Hơi nóng rừng rực từ giồng cát bốc lên làm hoa cả mắt.
Nắng đốt vàng ngọn cỏ, thiêu vàng lá tre. Lâu lâu có một luồng gió từ xa chạy
19