HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA NÔNG HỌC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI :
“NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC,
SINH THÁI CỦA BỌ PHẤN TRẮNG BEMISIA
TABACI GENNADIUS HẠI TRÊN CÂY SẮN VÀ
MỘT SỐ LOẠI CÂY TRỒNG KHÁC Ở KHU VỰC
PHÍA BẮC NĂM 2019”
Người thực hiện
: LÊ XUÂN ĐOÀN
Mã SV
: 600100
Lớp
: K60-BVTVB
Người hướng dẫn
: ThS. NGUYỄN ĐỨC KHÁNH
TS. TRẦN THỊ THU PHƯƠNG
Bộ môn
: CÔN TRÙNG
HÀ NỘI – 2019
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài tốt nghiệp ngoài sự cố gắng của bản thân tôi đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô, bạn bè và
người thân.
Trước tiên, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy ThS
Nguyễn Đức Khánh và cô TS.Trấn Thị Thu Phương đã tận tình hướng dẫn
giúp đỡ và động viên tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài này.
Tôi xin được gửi lời chân thành cảm ơn tới các thầy cô giáo trong Khoa
Nông học, những người đã trực tiếp giảng dạy trang bị những kiến thức bổ
ích trong suốt thời gian học đại học.
Bên cạnh đó tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả người thân, bạn
bè những người luôn bên cạnh động viên giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
và thực hiện đề tài.
Hà Nội, ngày 31 tháng 7 năm 2019
Người thực hiện
Lê Xuân Đoàn
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cây sắn là cây lương thực có khả năng thích nghi cao tại Việt Nam, sắn
được trồng tập trung tại 5 vùng sinh thái chủ yếu là: Bắc Trung Bộ, Duyên hải
miền Trung, TâyNguyên, Đông Nam Bộ và Trung du miền núi phía Bắc.
Tổng diện tích sắn của 5 vùng 5sinh thái này chiếm khoảng 97% diện tích sắn
cả nước, tương đương 483 nghìn ha, sảnlượng tương ứng là 8.330 nghìn tấn,
chiếm 98% tổng sản lượng sắn toàn quốc. Sắn là cây lương thực quan trọng
đứng hàng thứ ba sau lúa và ngô. Cây sắn hiện nay đã chuyển đổi vai trò từ
cây lương, thực thực phẩm thành cây công nghiệp hàng hóa có lợi thế cạnh
tranh cao. Sắn đã được ưu tiên nghiên cứu phát triển trong tầm nhìnchiến lược
đến năm 2020 của Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn. Đặc biệt,nghiên
cứu và phát triển cây sắn theo hướng sử dụng đất nghèo dinh dưỡng, đất khó
khăn có hiệu quả và là hướng hỗ trợ chính cho việc thực hiện “Đề án phát
triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025” đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 177/2007/ QĐ-TT ngày 20 tháng
11 năm 2007.
Việc đẩy mạnh phát triển và mở rộng diện tích canh tác một loại cây
nào đó không tránh được kéo theo và xuất hiện dịch hại. Để ngăn chặn, bảo
vệ cây trồng, người nông dân sẽ dùng các biện pháp hạn chế sự gây hại của
sâu bệnh, nhưng chủ yếu và ưu tiên là các biện pháp thuốc bảo vệ thực vật, vì
đây là biện pháp dễ sử dụng, cho hiệu quả nhanh chóng, có giá thành rẻ. Tuy
nhiên, người nông dân hiện nay trong phòng trừ dịch hại đang sử dụng thuốc
một cách tràn lan, trên quy mô rộng, với nồng độ và số lần phun cao hơn rất
nhiều so với khuyến cáo. Điều này không chỉ làm giảm sự đa dạng quần thể
sinh quần, gây tổn hại đến quần thể thiên địch, ảnh hưởng trực tiếp tới sức
khỏe con người , gây ô nhiểm môi trường mà còn làm phát sinh tính kháng
thuốc của dịch hại, điều này gây ra khó khăn cho công tác phòng trừ cho các
vụ tiếp theo.
Bọ phấn (Hemiptera : Aleyrodidae) nói chung và bọ phấn trắng
Bemasia tabaci nói riêng trong khoảng 15 năm gần đây chúng trở thành loài
dịch hại chính trên nhiều loài cây công nghiệp và cây cảnh ở Châu Á, Châu
Phi, Châu Mỹ. Bọ phấn đang trở thành loại dịch hại nghiêm trọng trên thế
giới (Mushtaq Ahmad, 2001). Chúng thường xuyên chích hút dịch ở lá, ngọn
và phần thân non. Triệu chứng tác hại trực tiếp khó nhận biết, ở những chỗ có
bọ phấn gây hại thường phủ một lớp bụi màu trắng,trên lá và thân cây có thể
có màu đen dính. Tác hại lớn nhất của bọ phấn là làm môi giới truyền virus,
gây ảnh hưởng rất lớn tới năng suất, chất lượng nông sản ( Nguyễn Đức
Khiêm,2005) đặc biệt là tác nhân lan truyền bệnh khảm lá sắn . Bọ phấn trắng
B.tabaci có phạm vi ký chủ rất lớn, khoảng 600 loại cây trồng ở các họ thực
vật khác nhau: họ cà, họ bầu bí, khoai lang, thuốc lá…, chúng gây hại rộng
khắp trên các cây họ Cà được trồng làm thực phẩm ( Cà tím, Cà pháo, Cà
chua, Khoai tây), gia vị (Ớt), cây công nghiệp (Thuốc lá) hoặc cây thuốc
Nam, hoa kiểng từ rất lâu. Đối với cây cà pháo (Solanum macrocarpon L.),
một loại cây nhiệt đới lâu năm được trồng để sử dụng nó như một loại thực
phẩm, cây làm thuốc và cây cảnh, bọ phấn trắng được xác định là loài dịch
hại nguy hiểm, có ý nghĩa gây hại kinh tế rất cao và khó phòng trừ. Để phòng
trừ bọ phấn thường có nhiều biện pháp hiệu quả khác nhau, tuy nhiên biện
pháp hóa học sử dụng các thuốc Bảo vệ thực vật hiện vẫn đóng vai trò quan
trọng nhất.
Do tính chất gây hại nguy hiểm và quy mô lớn của bọ phấn trắng, các
biện pháp quản lý chúng một cách an toàn bền vững trở nên cần thiết và cấp
bách, nhằm đề ra biện pháp hạn chế sự lan tràn phát sinh bệnh khảm lá sắn
cũng như sự phát tán trên các cây trồng khác nhau của chúng, dưới sự hướng
dẫn của ThS Nguyễn Đức Khánh và TS.Trấn Thị Thu Phương, chúng tôi tiến
hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh thái của
Bọ phấn trắng Bemisia tabaci Gennadius hại trên cây sắn và một số loại
cây trồng khác ở khu vực phía Bắc năm 2019”
1.2. Mục đích và yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Trên cơ sở xác định đặc điểm sinh học, sinh thái của Bọ phấn trắng
B.tabaci Gennadius trên cây sắn và các cây trồng họ Cà ở một số khu vực
phía Bắc năm 2019 để xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học, đề xuất biện pháp
quản lý chúng hiệu quả.
1.2.2. Yêu cầu
Xác định đặc điểm sinh học, sinh thái của loài bọ phấn B.tabaci.
Đánh giá ảnh hưởng của cây ký chủ khác nhau đến khả năng sinh
trưởng, phát triển và đặc tính sinh sản của bọ phấn B. tabaci.
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
2.1. Tình hình sản xuất sắn và cà pháo trong và ngoài nước
2.1.2. Tình hình sản xuất cây sắn
Trên thế giới sắn là một loại cây trồng nhiệt đới, có nguồn gốc từ
Amazonia, rằng cung cấp thực phẩm chính cho khoảng 800 triệu người trên
toàn thế giới. Hầu như chỉ mình người nông dân có thu nhập thấp trồng với
quy mô nhỏ lẻ, nó là một trong số ít cây trồng chủ lực có thể được sản xuất
hiệu quả trên quy mô nhỏ, không cần cơ giới hóa hay đầu vào nghiêm ngặt
cũng như tại các khu vực cận biên với đất nghèo dinh dưỡng và lượng mưa
thất thường. Từ năm 2000, sản lượng sắn hàng năm của thế giới đã tăng lên
ước tính 100 triệu tấn, được thúc đẩy ở châu Á bởi nhu cầu sấy khô sắn và
tinh bột để sử dụng trong thức ăn chăn nuôi và các ứng dụng công nghiệp và
ở châu Phi bằng cách mở rộng thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm thực
phẩm về sắn. Có tiềm năng lớn để tăng sản lượng hơn nữa - dưới điều kiện tối
ưu, năng suất sắn có thể đạt 80 tấn / ha, so với năng suất trung bình thế giới
hiện nay chỉ là 12,8 tấn.(FAO, 2013)
Mức tiêu thụ sắn bình quân toàn thế giới khoảng 18 kg/người/năm. Sản
lượng sắn của thế giới được tiêu dùng trong nước khoảng 85% (lương thực
58%, thức ăn gia súc 28%, chế biến công nghiệp 3%, hao hụt 11 %), còn lại
15% (gần 30 triệu tấn) được xuất khẩu dưới dạng sắn lát khô, sắn viên và tinh
bột. Nhu cầu sắn làm thức ăn gia súc trên toàn cầu đang giữ mức độ ổn định
trong năm 2006 .
Hình 1. Diễn biến sản lượng sắn thế giới giai đoạn 2005-2010
Năm 2011, tổng sản lượng sắn thế giới đạt 250,2 triệu tấn củ tươi, tăng
6% so với năm trước. Sự gia tăng sản lượng mạnh mẽ này bởi ngành chế biến
công nghiệp nhiên liệu sinh học ethanol sử dụng sắn làm nguyên liệu đầu vào
tại các quốc gia Đông Nam Á cùng với nhu cầu lương thực tăng tại châu Phi.
Tổn thất do sâu bệnh hại trên sắn gây ra hàng năm rất to lớn. Theo tính
toán của các nhà khoa học , tại châu Phi vùng trồng sắn chính của thế giới,
mức thiệt hại do bệnh khảm sắn (SLCMV- Sri Lanka Casava Mosaic Virus)
bệnh lan truyền qua môi giới truyền bệnh là bọ phấn trắng (B.tabaci Genn.)
và bệnh bạc lá vi khuẩn (CBB-Cassava Bacterial Blight) khoảng 1 tỷ đô la
Mỹ mỗi năm.
Theo (Bellotti et al., 2012) 12 loài bọ phấn họ Aleyrodidae đã được
phát hiện hại trên sắn trong đó có 11 loài gây hại trên sắn tại châu Mỹ, châu
Phi và châu Á nhận 3 loài. Trong 12 loài đó thì Aleurodicus disperses và
B.tabaci là 2 loài bọ phấn gây hại xuất hiện ở cả 3 lục địa châu Mỹ, châu Phi
và châu Á.
Loài bọ phấn trắng B.tabaci, là một loài gây hại chính cho cây sắn,
đặc biệt là ở châu Phi, tại đây phải hứng chịu sự gây hại của chúng ở mật
độ cao lẫn sự truyền nhiễm của virus. Cho đến nay, chưa có biện pháp thiết
thực nào để chống lại vấn đề này, do những người nông dân không có khả
năng canh tác giống sắn kháng mới lẫn đầu tư thuốc bảo vệ thực vật.
(Omongo et al., 2012)
Tại Việt Nam, tầm nhìn chiến lược đến năm 2020 của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn ưu tiên phát triển triển ba loại cây trồng là lúa, ngô và
sắn. Cây sắn là nguồn nguyên liệu quan trọng sử dụng trong sản xuất tinh bột,
thức ăn gia súc, bột ngọt và Ethnol. Tổng kim ngạch xuất khẩu sắn và các sản
phẩm từ sắn đạt 1.08 tỷ USD vào năm 2016 và có thể đạt 2 tỷ USD vào những
năm tới.
Năm 2016, diện tích trồng sắn của nước ta ước tính gần 600 ngần ha
tập trung chủ yếu tại Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Duyên Hải miền Trung,
Bắc Trung Bộ và Trung du miền núi phía Bắc. Diện tích sắn của 5 vùng này
chiếm khoảng 97% diện tích sắn cả nước. Năng suất củ tươi bình quân
khoảng 19 tấn/ha, sản lượng ước tính khoảng trên 10 triệu đồng/năm. Sản
lượng xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn đạt 3.9 triệu tấn, với tổng giá trị kim
ngạch 1.08 tỷ USD và dự đoán có thể đạt 2 tỷ USD vào những năm tới.
2.2.1. Tình hình sản xuất cây cà pháo
Trên thế giới Cà pháo (danh pháp: Solanum macrocarpon) là một loại
cây rau ăn quả hàng năm, có chứa nhiều chất dinh dưỡng như: protein, chất
béo, chất xơ, canxi, kẽm, vitamin và các khoáng chất khác. Cà pháo được
trồng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới và Việt Nam để lấy lá và quả làm thực
phẩm, bên cạnh đó cà pháo còn là một phương thuốc chữa bệnh hiệu quả trong
cả Đông và Tây y. Cà pháo có nguồn gốc từ châu Phi và đã trở thành một loại
rau quan trọng đối với họ. Đặc điểm hình thái của 44 loại cà pháo đã được
nghiên cứu và đánh giá về sự đa dạng của các giống, để xác định đặc điểm, phân
loại. Sử dụng di truyền với các tính trạng cụ thể hoặc nhiều tính trạng tốt để lai
tại và sử dụng trong quá trình nhân giống (Adeniji et al., 2018).
Ở Việt Nam cà pháo đã được trồng phổ biết trên nhiều vùng miền, cà
pháo có thể trồng làm hai vụ: vụ sớm gieo hạt vào tháng 7-8, thu hoạch vào
tháng 11-12. Vụ chính gieo hạt vào tháng 11-12, thu hoạch váo tháng 3-5.
Hiện nay cà pháo được trồng rộng rãi trong nước ta, với các giống như : cà
pháo trắng F1 Np79, cà pháo tím F1 Np63, cà pháo lai F1 T130, cà pháo
Phương Lâm 597, cà pháo trắng Thuận Thành, cà pháo trắng F1 H&V, cà
pháo tím tím F1 H&V, cà pháo trắng Chánh Nông...
Việc mở rộng diện tích gieo trồng cà pháo, đẩy mạnh nghiên cứu các
giải pháp khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng vầ sản
lượng cà chua là một yêu cầu cấp thiết trong các dự án phát triên rau, hoa, quả
hiện nay ở trên giới cũng như ở Việt Nam. Cây cà pháo có thể luân canh với
cây lúa nước, cây rau họ thập tự và nhiều cây trồng khác. Việc đưa cây cà
pháo vào trồng quanh năm vẫn có thể trồng được giá sản phẩm cao nhưng gặp
nhiều kho khăn rủi ro như úng ngập, sâu bệnh hại, có thể làm giảm năng suât
hoặc gây thất thu và làm hạn chế việc mở rộng diện tích gieo trồng.
Trong số các sâu hại thì bọ phấn trắng B.tabaci Genadius là loài côn
trùng gây hại chính và phổ biến trên cà pháo, chúng không chỉ chích hút còn
là mô giới truyền bệnh virus, bọ trĩ (Frankliniella schultzei) chích hút ở các
phần trồi non gây xoăn, không phát triển làm giảm năng suất, Ruồi hại lá
(Liriomyza spp.).
2.2. Tình hình nghiên cứu bọ phấn trên thế giới
2.2.1. Phân loại
Bọ phấn trắng lần đầu tiên được miêu tả vào năm 1889 như một loài
dịch hại trên cây thuốc lá ở Hy Lạp với cái tên là Aleurodes tabaci trước đó
nó được miêu tả dưới nhiều cái tên khác nhau (Gennadius 1889). Bọ phấn
trắng thuộc Bộ Cánh nửa (Hemiptera), tuy nhiên thông tin phân loại chủ yếu
sử dụng các nguồn trước đây ghi nhận bọ phấn trắng B.tabaci Gennadius,
thuộc bộ cánh đều (Homoptera) họ rầy phấn (Aleyrodidae). Theo (Mound
L.A. & Halsey S.H, 1978) bọ phấn trắng B.tabaci có nguồn gốc từ Ấn Độ và
được mô tả dưới nhiều tên gọi trước khi sự biến đổi hình thái được công nhận
là loại côn trùng có kích thước nhỏ bé, chúng chích hút , làm giảm năng suất
cây trồng.
2.2.2. Phân bố, phạm vi ký chủ
Phân bố:
Mound & Halsey (1963) đã xác định được giống Bemisia bao gồm 37
loài được cho là có nguồn gốc từ châu Á, trong đó B.tabaci có thể có nguồn gốc
từ Ấn Độ. Sự phân loại bọ phấn trắng B. tabaci luôn gặp nhiều khó khăn và gây
tranh cãi vì tính đa hình của loài này trên các cây kí chủ khác nhau (Mound,
1963). Sự khác nhau về phổ kí chủ, khả năng truyền virus, khả năng đẻ trứng, sự
phát triển giữa các quần thể bọ phấn trắng B. tabaci đã được ghi nhận bởi nhiều
tác giả khác nhau (Adeniji et al., 2018; Coudriet et al., 1985; Dan Gerling,
1986; Mound, 1963)
Quần thể bọ phấn trắng B. tabaci xuất hiện gây hại ở nhiều nước nhiệt
đới và cận nhiệt trong nhiều năm. Những dòng địa phương này có thể có sự
phân chia địa lý trong một thời gian dài và thường gây hại trên một số ký chủ
nhất định. Mặc dù B.tabaci có thể truyền tới 60 loại virus nhưng những dòng
địa phương chỉ có thể truyền vài loại do phạm vi ký chủ hạn chế (Markham et
al., 1994)
Phạm vi ký chủ:
B.tabaci (Gennadius) có phổ kí chủ rất rộng, có khoảng 800 loài và 90
họ thực vật bị gây hại. Chúng bao gồm các cây trồng ở vùng nhiệt đới và
vùng tiểu nhiệt đới (sắn, bông, khoai lang, thuốc lá, cà chua…) và rau trồng
dưới nhà kính ở Châu Âu (dưa leo, cà tím, cà chua..) và hoa cây cảnh (Chris
Malumphy el al, 2012)
Chúng thích nghi rất nhanh với các loài cây kí chủ mới trên các lục địa
mới trừ Nam Cực. Trong thập kỉ qua, việc vận chuyển thực phẩm, con người
đã góp phần cho sự phát tán của loài này, B.tabaci đã được ghi nhận từ hơn
600 loài thực vật, còn có nhiều kí chủ bổ sung chưa được ghi chép chính thức.
Biotype đã được xác định trên các khu vực khác nhau trên thế giới cho thấy
B.tabaci là một phức hệ loài đang trải qua sự tiến hóa (Oliveira et al., 2001)
Theo (Bellows et al., 1994) cho biết sự biến động về gen của bọ phấn
trắng đã hình thành nên dạng sinh học B( B-biotype) và hình thành nên loài
mới. Loài này đã được công bố và chấp nhận dưới tên mới là Bemisia
argentifolii. Một số dạng sinh học cũng được tìm thấy như N- biotype, Qbiotype ở Israel, Ai Cập nhưng đó chỉ là sự tổ hợp giữa các loài và chưa có
những nét cơ bản để trở thành loài mới. Cho đến nay trên thế giới chỉ có 2
loài bọ phấn được công nhận đó là B. tabaci và B. Argentifolii
2.3.3. Đặc điểm hình thái của bọ phấn trắng Bemasia tabaci
Bọ phấn trắng B.tabaci lần đầu tiên được miêu tả vào năm với cái tên là
Aleurodes tabaci (Gennadius 1889), theo (Simmons, 1994) hình thái bọ phấn
trắng trải qua 3 pha phát dục là Trứng, Ấu trùng và Bọ phấn trắng trưởng
thành
Pha trứng: trứng bọ phấn trắng có hình bầu dục, có cuống ngắn đính
vào bề mặt lá cây. Kích thước dài khoảng 0,18 – 0,20 mm (không kể phần
cuống). Trứng mới đẻ có màu vàng trong, sau chuyển dần sang màu trắng
đục, vàng nhạt rồi vàng nâu.
Pha ấu trùng: ấu trùng bọ phấn trắng có màu vàng nhạt, hình oval hoặc
elip thường hơi nhọn phía đuôi, hình dạng thay đổi phụ thuộc vào cây kí chủ.
Có thể chia ấu trùng bọ phấn trắng làm 4 tuổi
+ Tuổi 1: có kích thước dài 0,27 mm rộng 0,15 mm khi mới nở ấu trùng
tuổi 1 có chân và di chuyển chậm, thời gian phát dục từ 2 – 4 ngày.
+ Tuổi 2: có kích thước dài 0,36 mm rộng 0,22 mm thời gian phát dục
từ 2 – 3 ngày. Sau khi lột xác sang tuổi 2 ấu trùng không còn chân và cố định
luôn một chỗ.
+ Tuổi 3: kích thước dài 0,7 – 0,9 mm rộng 0,4 – 0,6mm thời gian phát
dục từ 2 -3 ngày.
+ Ấu trùng tuổi 4 hay còn gọi là nhộng giả vì ở tuổi này bọ phấn trắng
chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn đầu tuổi 4 bọ phấn trắng vẫn chích hút dịch
cây, giai đoạn sau mới hóa nhộng. Nhộng hình bầu dục không đều có màu
sáng, các túm lông ở 2 bên sườn lưng. Số đôi lông cứng của bọ phấn trắng tùy
thuộc vào kí chủ.
Trưởng thành: bọ phấn trắng có chiều dài khoảng 1,3 mm, sải cánh 1,7
– 2,0 mm. Râu đầu của trưởng thành gồm 6 đốt, 2 đốt đầu hơi tròn, những đốt
còn lại dài và nhỏ, mắt kép màu đỏ. Cơ thể trưởng thành màu vàng nhạt, bụng
có 9 đốt, đốt thứ nhất hơi thót lại làm cơ thể có dạng ong, bên ngoài phủ một
lớp bột màu trắng giống như phấn. Chân dài và mảnh, bàn chân có 2 đốt. Các
pha phát dục của bọ phấn trắng hoàn toàn ở mặt sau lá cây, gây hại ở pha ấu
trùng và trưởng thành. Chính vì vậy, Bọ phấn trắng không chỉ gây hại trực
tiếp cho cây trồng bằng chích hút nhựa cây mà còn là môi giới truyền bệnh
nguy hiểm cho cây trồng, đặc biệt là một số bệnh virus do khả năng phát tán
rộng của trưởng thành.
2.3.3.Đặc điểm sinh học, sinh thái của bọ phấn trắng
Bọ phấn trắng trưởng thành thường đẻ trứng ở mặt dưới của lá non và
lá bánh tẻ thành từng cụm 4-6 quả, cuống trứng được đính vào lá theo chiều
vuông góc với mặt phẳng của lá. Một trưởng thành cái có thể đẻ 150 trứng .
Thời gian phát dục các pha của bọ phấn trắng phụ thuộc chặt chẽ vào nhiệt
độ, ẩm độ, ánh sáng, cây ký chủ...(John, 2001).
Trên các cây ký chủ khác nhau tỷ lệ đẻ trứng cũng khác nhau, theo
(Bethke et al., 1991) một con cái đẻ trung bình 51 trứng đối với cây bông còn
tỷ lệ đẻ trứng trên cây trạng nguyên trung bình là 85 trứng trên một con
cái.Theo tài liệu của United States Department of Agriculture (1994) thời gian
sống trung bình của bọ phấn trắng trưởng thành trên cây trạng nguyên là 30,1
ngày; 22,4 ngày và 15,5 ngày tương ứng với các nhiệt độ 16ºC; 22ºC và 28ºC.
Khi nghiên cứu sự lựa chọn ký chủ của bọ phấn trắng tại Pakistan thông qua
khả năng đẻ trứng, vòng đời và khả năng sống sót, Attahom (1986) thấy: bọ
phấn trắng thích đẻ trứng trên những bộ phận già của cây họ cà đặc biệt là cà
tím nhưng phát triển tốt nhất trên cây dưa bở với sự sống sót cao nhất, vòng
đời trung bình đạt 18,5-22,5 ngày.
Theo Sanchez (1997) khi nghiên cứu sinh thái học của bọ phấn B.
tabaci trên 5 loại cây trồng khác nhau (đậu xanh, cà chua, bông, hoa hồng,
cây cúc) cho biết: không có sự khác nhau về thời gian phát dục của trứng thời
gian phát triển của ấu trùng và nhộng, tuổi thọ trưởng thành, tỷ lệ sống sót, tỷ
lệ đực cái trên các cây trồng. Nhưng quan trọng nhất là khả năng đẻ trứng của
trưởng thành cái của bọ phấn trắng cao nhất trên cà chua với sự lựa chọn vị
trí đẻ trứng trên các lá bánh tẻ và lá già, sức tăng quần thể của bọ phấn trắng
lớn nhất cũng là trên cà chua.
Trên khoai lang ở Texas (Mỹ) bọ phấn trắng trưởng thành cái thường
bắt đầu đẻ trứng 2-5 ngày sau khi vũ hoá, đẻ trung bình 5 quả trứng trong một
ngày, một trưởng thành cái đẻ được tới 50-100 quả trứng, trường hợp cá biệt
có thể đẻ được tới 300 quả trứng (John, 2001).
Theo nghiên cứu của tác giả Salas, J. và Mendoza, O.(2001) thì ở nhiệt
độ 25ºC và độ ẩm 65% thì thời gian phát dục các pha như trứng là 7,3 ± 0,5
ngày, tuổi 1 là 4 ± 1 ngày, tuổi 2 là 2,7 ± 1,1 ngày, tuổi 3 là 2,5 ± 0,7 ngày,
nhộng là 5,8 ± 0,3 ngày, trưởng thành là 2 – 7 ngày, vòng đời là 22,3 ngày, đối
với con cái thì vòng đời là 19 ± 3,3 ngày, đối với con đực là 19,4 ± 5,8 ngày.
Cũng với điều kiện như trên thì con cái đẻ khoảng 194,5 ± 5,91 quả với tỷ lệ
nở là 80,5%. Đối với các cây kí chủ khác nhau thì vòng đời của bọ phấn
trắngcũng khác nhau. Cũng theo tác giả này thì trên cà rốt vòng đời của bọ
phấn trắng là 29,8 ngày, trên cải xanh là 29,7 ngày, trên cà chua là 27,3 ngày,
trên hạt tiêu là 23,4 ngày, trên cà tím là 20,9 ngày, trên dưa chuột là 20,6 ngày.
Theo nghiên cứu của Husain (1932) thì tỷ lệ đực cái của trưởng thành cũng
phụ thuộc vào nhiệt độ, ở 25ºC thì tỷ lệ đực/cái là 1/1,8 , ở nhiệt độ 14ºC là
1/3.1. Các loài bọ phấn trắng khác nhau thì ảnh hưởng của nhiệt độ tới vòng
đời cũng khác nhau. Bọ phấn B. argentifolii thì ở nhiệt độ 16ºC có vòng đời
tương ứng là 50,8 ± 3,9 ngày; ở nhiệt độ 22ºC là 21,8 ± 0,6 ngày; ở 280C là
16 ± 0,8 ngày, Trialeurodes vaporarorium ở nhiệt độ là 15ºC có vòng đời
tương ứng là 50,5 ngày; ở 21ºC là 28,5 ngày.
Ẩm độ có ảnh hưởng lớn đến mật độ bọ phấn trắng, mô hình hồi quy
dân số và tuyến tính giải thích 78 đến 85% trong mật độ bọ phấn trắng đang
phát triển. Có mối tương quan nghịch, tức là ẩm độ thì mật độ bọ phấn
trắng giảm. Ẩm độ có thể ảnh hưởng tới 85% mật phát triển của bọ phấn
trắng. Về lượng mưa thì không có ảnh hưởng đáng kể đến bọ phấn trắng.
(Zeshan et al., 2015)
2.2.4.Gây hại
Bọ phấn trắng B.tabaci là loài côn trùng có kiểu miệng chuyên hoá cho
việc chích hút, cả giai đoạn ấu trùng và trưởng thành sống quần tụ trên lá và
gây hại chủ yếu ở phần phiến lá gần gân chính và gân phụ của lá. Khi mật độ
quần thể bọ phấn trắng cao ở những nơi bọ phấn trắng chích hút làm xuất hiện
trên lá những vết nhỏ màu trắng bạc, biến màu. Bọ phấn trắng trưởng thành
tập trung chích hút mạnh trên lá non và ngọn. Những chồi bị hại nặng sẽ làm
cho lá non bị xoăn lại, chồi không phát triển được, kết quả dẫn tới cây ký chủ
nhanh chóng bị lụi chết.
Ngoài việc gây hại trực tiếp với cây trồng bằng việc chích hút nhựa cây
làm giảm chất lượng sản phẩm bọ phấn trắng còn nguy hiểm hơn vì chúng
còn là véc tơ truyền nhiều loại virus cho cây trồng. Theo tác giả John (2001)
bọ phấn trắng là véc tơ truyền hơn 100 loại virus thực vật, điển hình là các
giống virus Begomovirus thuộc nòi Gemeniviridae, giống Crinivirus thuộc
nòi Clostero- viridae và giống Carlavirus hoặc Ipomovirus thuộc nòi
Potyviridae. Virus Begomovirus là loại virus gây nên hiện tượng xoăn vàng
trên lá cà chua và có thể làm thiệt hại từ 20-100% năng suất (Brown, 1992).
Bọ phấn B. tabaci đã gây thiệt hại kinh tế trong sản xuất bông tại
Arizona, California và Texas từ năm 1991. Diện tích bông bị nhiễm ở Hoa Kì
năm 1993,1994 ước tính là 282-345 nghìn ha với thiệt hại khoảng 3,6-7,7
triệu kg (Steven E. et al., 1996)
2.3.4.Biện pháp phòng trừ
Trên thế giới đã nghiên cứu biện pháp canh tác, thủ công cơ giới (cày
sâu, tiêu hủy tàn dư, trồng xen, bẫy dính màu vàng,...), dùng giống kháng BP,
biện pháp sinh học (nhân thả ký sinh Encasia và Eretmocerus, bọ xít bắt
mồi N. tenuis, bọ mắt vàng,...), thuốc hóa học để phòng trừ BP.
Biện pháp canh tác:
Ngoài những biện pháp trên thì biện pháp canh tác cũng được sử dụng
khác rộng rãi. Việc luân canh giữa cây là ký chủ của bọ phấn trắng với cây
không phải ký chủ của chúng, tránh hiện tượng trồng cùng một loại cây trên
cùng một ruộng trong một thời gian dài, việc xen canh giữa các loại cây trồng
cũng làm giảm mật độ bọ phấn trắng do chúng không có thức ăn.
Biện pháp sinh học:
Hiện nay trên thế giới, nhất là các nước có nền nông nghiệp phát triển
thì họ đang sử dụng biện pháp sinh học như là một biện pháp chủ yếu để diệt
bọ phấn trắng. Theo nghiên cứu năm 1986 của Mars.S.H. Đại học Carlifornia
thì trong tự nhiên có 3 loài thiên địch chính của bọ phấn trắng. Bọ rùa đen
Delphatus pusillus (Coleoptera: Coccinellidae), trưởng thành và ấu trùng của
loài này chích hút qua lớp biểu bì của bọ phấn trắng. Ngoài ra chúng còn kí
sinh trên tất cả các giai đoạn của bọ phấn trắng, đặc biệt trên loài B.
argentifolii. Loài thứ 2 là Chysoperla (Neurotepra: Chrysopidae) trong đó có
2 loài là C. carnea và C. rufilabis trong giai đoạn phát triển của chúng, đặc
biệt là ấu trùng tuổi 3 kí sinh trên B. tabaci và T. vaporarorium. Loài thứ 3 là
ong kí sinh Encarsia formosa (Hymenoptera: Aphelinidae) kí sinh trên B.
argentifolii và T. vaporarorium. Đối với T. vaporariorum thì kí sinh ở giai
đoạn ấu trùng tuổi 2 gây chết 41,6% cá thể, còn với B. argentifolii thì kí sinh
trên ấu trùng, nhộng gây chết 55,9% cá thể. Nhưng các tác nhân sinh học này
cũng bị ảnh hưởng bởi thuốc bảo vệ thực vật giống như bọ phấn trắng. Vì vậy
sử dụng kí sinh để phòng trừ sinh học bọ phấn trắng là một vấn đề khó khăn
hiện nay khi việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật một cách tràn lan. Theo
Hoddle et.al.(1998) loài ong Encarsia formosa là loài ong được sử dụng rộng
rãi ở trên thế giới để phòng trừ bọ phấn trắng trong điều kiện nhà lưới
Các loài Nhện bắt mồi thuộc họ Phytoseiidae cũng được biết đến là
nhóm thiên địch bắt mồi bọ phấn trắng trong trồng trọt, đặc biệt là bọ phấn
B.tabaci Gennadius. (Nomikou et al., 2001) đã thu thập được những con
Nhện bắt mồi được tìm thấy cùng với bọ phấn trắng ở khu vực Trung Đông
đây là bước đầu tiên trong việc nghiên cứu, đánh giá các loài này là tác nhân
kiểm soát dịch hại sinh học.
Những tiến bộ khoa học gần đây trong sản xuất và ứng dụng nấm gây
bệnh cho côn trùng đã đưa đến những bước tiến mới trong ứng dụng chế
phẩm sinh học từ lâu nay, nấm Verticillium lecanii, Paecilomyces
fumosoroseus và Beauveria bassiana. Những sản phẩm này có khả năng ngăn
chặn và kiểm soát tốt các loài bọ phấn trắng trên đồng ruộng và ngay cả trong
nhà lưới (Faria & Wraight, 2001)
Biện pháp hóa học:
Vào những năm 1990 thì loại thuốc phòng trừ bọ phấn trắng có hiệu
quả nhất là Applaud, Pegasus, Admir, Sumilarv, đặc biệt là Admir trừ ấu trùng
bọ phấn trắng tuổi 3 và tuổi 4 rất hiệu quả .
Theo nghiên cứu của IRAC (2000) thì cả hai loài bọ phấn là B. tabaci
và T. vaporariorum đều đã xuất hiện tính kháng với thuốc trừ sâu. Bọ phấn
trắng kháng với thuốc trừ sâu có gốc Neonicotinoid bao gồm các hoạt chất
Imidacloprid, Acetamiprid, Thiamethoxam, là các loại thuốc trừ sâu gây tổn
hại tới thần kinh của bọ phấn trắng. Bọ phấn trắng kháng với thuốc có chất
điều hòa sinh trưởng (IGRs) bao gồm những hỗn hợp hình thành nên vỏ kitin,
hormone trẻ. Nhóm thuốc trừ sâu này có tác dụng ngăn chặn sự tổng hợp ATP
và ngăn ngừa cung cấp thức ăn cho côn trùng. Horowitz et al.,( 2005) theo dõi
và đánh giá tính kháng đối với quần thể bọ phấn trắng trên đồng ruộng đối với
pyriproxyfen, trong các năm từ 1996 đến 2003 trên các cánh đồng bông ở
Israel (Thung lũng Ayalon (miền trung Israel) và Bờ biển Carmel (tây bắc
Israel). Mặc dù việc sử dụng pyriproxyfen đã chấm dứt ở những khu vực này
vào năm 1996-199, mức độ kháng với pyriproxyfen đã giảm xuống một mức
nào đó trong thời gian nhưng vẫn khá ổn định và độ mẫn cảm vẫn chưa được
phục hồi hoàn toàn. Hai chủng B.tabaci thu được từ Thung lũng Ayalon vào
cuối mùa bông 1999 và 2002 đã được thử nghiệm về tính mẫn cảm với
pyriproxyfen ở F1 và sau đó một dòng của mỗi chủng được giữ trong điều
kiện kiểm ổn định mà không được tiếp xúc với thuốc trừ sâu . Sau khi duy trì
hơn 20 thế hệ trong điều kiện phòng thí nghiệm, khả năng kháng pyriproxyfen
ở các chủng này đã giảm đáng kể (Horowitz et al., 2005).
2.4. Tình hình nghiên cứu trong nước
2.4.1. Phân bố, phạm vi ký chủ
Tổng hợp các kết quả đã công bố cho thấy đến nay ở nước ta đã phát
hiện được 39 loài bọ phấn (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2010; Nguyễn Thị Thu
Cúc, 2000; Đàm Ngọc Hân, 2012; Lê Quang Khải và cs. 2008; Viện Bảo vệ
thực vật, 1976, 1999,…). Một số loài bọ phấn (như bọ phấn lúa, bọ phấn mía,
bọ phấn thuốc lá,…) đã gây ra thiệt hại đáng kể cho sản xuất nông nghiệp .
Các công trình nghiên cứu trong nước cũng đưa ra các kết quả về thành
phần kí chủ của bọ phấn B.tabaci. Theo Đàm Ngọc Hân (2012) đã phát hiện
bọ phấn có trên 55 loài cây kí chủ. Công trình nghiên cứu thành phần bọ phấn
của Lê Thị Tuyết Nhung đã thu thập được bọ phấn trên 76 loài cây kí chủ,
riêng loài B.tabaci đã nghi nhận được trên 48 loài cây kí chủ.
2.4.3. Đặc điểm sinh học, sinh thái của bọ phấn trắng
Ở Việt Nam, đến nay có một số nghiên cứu về đặc điểm sinh vật học,
sinh thái học của các loài bọ phấn Aleurocanthus spiniferus Quaintance,
Aleurocanthus woglumi Ashby, Aleurocybotussp và B.tabaci ( Đàm Ngọc
Hân, 2012; Lê Lân, 2013). Trưởng thành bọ phấn B.tabaci có thân màu vàng
nhạt, hai đôi cánh dài bằng nhau, khi đậu cánh xếp gọn dưới cánh trước và
nhô ra khỏi cánh trước. Mắt kép đỏ sẫm có một rãnh ngang chia hai phần
giống hình số 8. Râu đầu 7 đót, bụng có 9 đốt, đốt thứ nhất thắt lại làm cơ thể
có dạng hình ong. Con đực bé hơn con cái, đốt bụng cuối có dạng hình kẹp.
Đàm Ngọc Hân (2012)
Quy luật phát sinh của bọ phấn trắng phụ thuộc rất nhiều vào nhiều yếu
tố ngoại cảnh. Nhiệt độ thích hợp cho bọ phấn trắng là 18-33ºC. Trong điều
kiện nhiệt độ 18ºC-19ºC và ẩm không khí 90%, vòng đời bọ phấn từ 35-54
ngày. Ở 25ºC, vòng đời là 22-23 ngày. Mùa hè nhiệt độ trung bình từ 34ºC trở
lên làm cho ấu trùng bọ phấn chết rất nhiều và ảnh hưởng tới hoạt động của
trưởng thành (Nguyễn Đức Khiêm, 2005).
Hà Quang Hùng và Nguyễn Thị Kim Oanh (2007) ghi nhận thời gian
phát dục của B.tabici như sau: pha trứng là 5,6 ± 0,27 ngày, ấu trùng tuổi 1 là
4,8 ± 0,25 ngày, ấu trùng tuổi 2 là 2,8 ± 0,14 ngày, ấu trùng tuổi 3 là 2.76 ±
0,15 ngày, nhộng giả là 4.27 ± 0,18 ngày, trưởng thành là 6,87 ± 0,32 ngày.
Vòng đời bọ phấn trắng là 23,17 ± 0,92 ngày ở điều kiện nhiệt độ 25,3 – 26,6
oC và ẩm độ 20,3 – 76,7%, số trứng của một con cái đẻ trung bình 72,26 quả.
Kết quả nghiên cứu bọ phấn trắng B.tabaci của Lê Thị Tuyết Nhung
(2014) cho biết rằng một trưởng thành cái bọ phấn thuốc lá trung bình đẻ
67,6-111,4 trứng. Khởi điểm phát dục thích hợp nhất trên cây su hào là 12,25
C, còn trên cây cà chua là 12,37 C. Nhiệt độ ảnh hưởng rõ đến vòng đời và tỷ
lệ chết của các pha phát dục. Ở 17 C vòng đời của bọ phấn trắng khoảng
61,7-63,91 ngày kéo dài hơn so với ở mức nhiệt 24 C vòng đời chỉ 23,7-25
ngày. Tỷ lệ chết của các pha trước trưởng thành ở 17 C là 21,63-24,18% lớn
hơn so với ở mức nhiệt 24 C,tỷ lệ đó là 11,2-16,4%..
Về đặc điểm sinh thái , bọ phấn trắng trưởng thành ban ngày hoạt động
ở mặt dưới lá, linh hoạt tập trung chủ yếu ở phần lá non và lá ngọn. Bọ phấn
trắng không ưa ánh sáng trực xạ, những ngày nắng to thì chúng nấp ở những
nơi rậm rạp. Sự sinh trưởng và phát triển của bọ phấn trắng phụ thuộc chặt
chẽ vào nhiệt độ, độ ẩm, cây kí chủ và giới tính. Nghiên cứu của Đàm Ngọc
Hân và cộng sự (2012) về thời gian phát dục và sức sinh sản của bọ phấn
trắng B. tabaci biotype B trên đậu tương ở nhiệt độ từ 17oC đến 33oC, ẩm độ
80%. Kết quả chỉ ra rằng thời gian phát dục từ trứng đến trưởng thành dài
nhất là ở 170C (62,3± 0,48 ngày), ngắn hơn khi nhiệt độ tăng lên, (19,1±0,27
ngày ở 29oC, 18,4±0,34 ngày ở 33oC. Trưởng thành cái đẻ nhiều nhất ở 26oC
và ít nhất ở 33oC). Tỷ lệ trưởng thành đực/cái khi nuôi trên đậu tương là 1/1,2
do trưởng thành cái có thời gian sống kéo dài hơn trưởng thành đực. Sức sống
của trứng và nhộng trên các ký chủ khác nhau là khác nhau. Tỷ lệ chết trung
bình của trứng cao nhất khi nuôi trên đậu tương (7,5 ± 0,21%) và thấp nhất
khi nuôi trên cà chua (2,8 ± 0,09%).
Khi theo dõi biến động số lượng bọ phấn trắng trên các giống cà chua
khác nhau tại Vân Nội, Đông Anh, nhóm nghiên cứu của Trần Đình Phả và
cộng sự (2007) đã chỉ ra rằng trên giống cà chua Đông Anh và giống cà chua
Savior (F1 Hybrid Tomato) có số lượng trưởng thành bọ phấn trắng ít hơn
trên giống cà chua VL-2200F1. Nguyên nhân được tác giả đưa ra là có thể
giống VL-2200F1 có tán lá rậm rạp, phân cành rộng rất thích hợp cho bọ phấn
trắng phát triển.
Kết quả điều tra ở Đặng Xá, Gia Lâm, Hà Nội cho thấy mật độ bọ phấn
trắng cao nhất trên dưa chuột thấp hơn ở súp lơ và xu hào (Hà Quang Hùng,
Nguyễn Thị Kim Oanh, 2007).
Theo kết quả nghiên cứu của Lê Thị Tuyết Nhung, Phạm Văn Lầm (2014),
2 loại cây kí chủ là cà chua giống Savior và su hào giống CH41 có ảnh hưởng rõ
rệt đến khả năng đẻ trứng của trưởng thành cái : trên cây su hào, trưởng thành cái
có thể đẻ 42-251 trứng/trưởng thành cái, cao hơn và biến động hơn so với sức đẻ
của bọ phấn trắng trên cà chua 33-117 trứng/trưởng thành cái.
2.4.4. Tác hại
Bọ phấn trắng là loài đa thực gây hại khắp trên cả nước, tấn công nhiều
họ thực vật khác nhau nên việc phòng trừ là rất khó khăn. Tuy là loài côn
trùng phá hoại nghiêm trọng như vậy nhưng những công trình nghiên cứu về
bọ phấn trắng lại rất ít. Hiện nay chỉ có một số tác giả nghiên cứu về đặc điểm
sinh học, mức độ gây hại của bọ phấn trắng như Hồ Khắc Tín (2004) Trần
Đình Chiến và Lê Thị Liễu (2004).
2.4.2. Biện pháp phòng trừ
Có thể dùng bẫy dính màu vàng vừa để thu bắt một phần trưởng thành
bọ phấn trắng thuốc lá vừa để theo dõi xu thế phát triển của quần thể bọ phấn
trắng thuốc lá trên đồng ruộng. Trên cơ sở đó để chỉ đạo phòng trừ bọ phấn
trắng thuốc lá đạt hiệu quả cao (Lê Thị Tuyết Nhung, 2014)
Nguyễn Đức Khiêm (2005) đề xuất một số biện pháp canh tác như sau
luân canh cây cà chua, dưa chuột với các cây không phải kí chủ của bọ phấn
trắng. Diệt sạch cỏ dại xung quanh ruộng (những cây là kí chủ phụ của bọ
phấn trắng) Phân vùng trồng cà chua, dưa chuột để dễ tổ chức phòng chống.
Biện pháp sinh học thì trong các thiên địch của bọ phấn trắng thuốc lá
chỉ có loài bọ xít mù thuốc lá Nesidiocoris tenui xuất hiện với độ bắt gặp ở
mức trung bình trên ruộng cà chua ít sử dụng thuốc trừ sâu. Bọ xít mù
thuốc lá có khả năng khá cao trong tiêu diệt ấu trùng bọ phấn trắng thuốc
lá: một trường thành có thể tiêu diệt được 13,69-23,57 ấu trùng/ngày.
Nhưng nhiều nghiên cứu ở trên thế giới cho rằng tiềm năng gây hại của loài
côn trùng này cho cây cà chua là rất thấp. Ở vùng Hà Nội, sự xuất hiện của
bọ xít mù thuốc lá thường trùng với thời điểm bọ phấn trắng thuốc lá phát
sinh cao trên đồng ruộng. Cần nghiên cứu lợi dụng vai trò thiên địch của bọ
xít mù thuốc lá trong phòng chống bọ phấn trắng thuốc lá hại cây trồng.
(Lê Thị Tuyết Nhung, 2014).
Theo Hồ Khắc Tín thì có thể dùng các loại thuốc như: Confidor,
Trebon, Padan, Pegasus … phun với liều lượng thích hợp, đúng thời điểm
thì sẽ phòng trừ được bọ phấn trắng. Tác giả còn nêu ra một số biện pháp
khác như phân vùng trồng các cây là kí chủ chính của bọ phấn trắng như cà
chua, khoai tây để dễ phòng chống. Thực hiện việc luân canh các cây trồng
khác nhau, coi trọng vệ sinh đồng ruộng … thì sẽ hạn chế được sự phát
triển của bọ phấn trắng.
Lê Thị Liễu, Trần Đình Chiến (2004) đã kết luận thuốc Pegasus 500SC
và dầu khoáng SKEN 99 nồng độ 0,1% và 0,2% đề trừ được bọ phấn trắng ở
thời kỳ ấu trùng, nhộng và trưởng thành.
Theo Nguyễn Đình Thông (2006) thuốc Selecron 500EC, Confidor
100SL, phòng trừ bọ phấn trắng cho hiệu quả khá cao. Thuốc Padan 95SP,
Apolo 10WP và Sherpa 25EC cho hiệu lực thấp hơn.
Hà Quang Hùng và Nguyễn Thị Kim Oanh (2007) cho biết hỗn hợp
thuốc Conphai và Sokupi có hiệu lực cao nhất là 64,73% ( 1 ngày sau phun)
sau đó là Sherpa, Pegasus. Các loại thuốc sinh học có hiệu lực thấp nhưng
thời gian thuốc có tác dụng kéo dài.
Theo Lê Thị Tuyết Nhung (2011) ngoài đồng ruộng có thể sử dụng một
số loại thuốc như Elsin 10EC , Tập Kì 1.8EC , Elincon 12ME , Penalty 40WP
có tác dụng diệt bọ phấn trắng ở giai đoạn ấu trùng. Trong đó, Elsin 10EC và
Tập Kì 1.8EC đạt hiệu quả tăng dần, đạt cao nhất vào 14 ngày sau phun.
Thuốc Penalty 40 WP đạt hiệu lực cao nhất, đạt vào ngày thứ 7 sau phun.
PHẦN 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng và vật liệu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : bọ phấn trắng B.tabaci
Vật liệu nghiên cứu :
- Cây kí chủ : Giống sắn trắng bản địa (lấy tại địa bàn xã Định Tăng,
Yên Định, Thanh Hóa) và cây cà pháo trắng
- Dụng cụ thu mẫu: túi nilon đựng mẫu, hộp nhựa đựng mẫu loại lớn
(20×20×10) cm, lọ đựng mẫu, bút lông,dao, kéo.
- Dụng cụ nuôi sinh học : kính lúp, kính lúp soi nổi, lồng nuôi sâu 40×
40×80 cm, lồng mica 20*50 cm, chậu trồng cây kí chủ, đất, kẹp .
- Tủ lạnh, tủ định ôn, máy đo nhiệt độ, ẩm độ trong phòng
- Hóa chất : cồn 70ºC,.
3.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2019
- Địa điểm: Bộ môn côn trùng, Học Viện Nông nghiệp Việt Nam
3.3 Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Chuẩn bị cây kí chủ
Giống Cà pháo và Giống sắn trắng bản địa sạch sâu bệnh.
-Đất trồng cây (), phân bón NPK , chậu trồng cây ,dao ,cưa ,lồng lưới,
hóa chất cồn hoặc và vôi
Trồng cây kí chủ:
Các bước tiến hành trồng cây sắn được thực hiện theo “Quy trình kỹ
thuật nhân giống sắn của Viện cây lương thực và cây thực phẩm Trung Tâm
Nghiên Cứu và phát triển cây có củ”.
Bước 1. Chuẩn bị hom giống và xử lý hom
Chọn hom phải được lấy từ những cây khỏe mạnh không sâu bệnh gây
hại. Theo dõi ngay từ khi cây bắt đầu nảy mầm đến khi thu hoạch để dễ dàng
loại bỏ các cây có triệu trứng bệnh gây hại, đặc biệt là bệnh do virus, vi khuẩn
gây ra. Khi cắt hom cần phải dùng cưa sắc để tránh dập. Vệ sinh cưa trước
khi cắt để đảm bảo tránh lây bệnh cho hom giống. họn đoạn giữa thân để chặt
hom giống, loại bỏ những cây giống bị khô, bị trầy xước.
Bước 2. Chuẩn bị giá thể và giâm hom
Giá thể dùng để giâm hom gồm: 1/3 đất + 1/3 tro trấu + 1/3 sơ dừa
được trộn đều và đóng vào bịch có kích thước 5 x 10 cm có đục lỗ thoát nước.
Khi cắm hoặc hom chú ý phần mắt ngủ quay lên trên tránh cắm ngược
Giâm hom vào bầu:
+ Đặt hom nằm ngang sau đó lấp giá thể 2-3 cm
+ Cắm hom vào bầu theo phương thẳng đứng
Mục đích của công đoạn này làm tăng tỷ lệ nẩy mầm của hom giống, do
có thể điều chỉnh ẩm độ bằng cách tưới ngày 1 lần.
Tiến hành trồng liên tục 5 đợt, mỗi đợt 30-50 cây/ giống, cách nhau 15
ngày, nhằm đảm bảo số lượng cây con nuôi bọ phấn liên tục.
3.3.2 Nhân nguồn bọ phấn trắng
Thu bắt nguồn:
-Trưởng thành của bọ phấn trắng trên các cây trồng ngoài đồng ruộng
như cà pháo và sắn trắng được tiến hành thu liên tục theo thời gian mùa vụ
trên các cây trồng, mẫu sống thu được được cho vào túi nylon có khóa, đem
về phòng thí nghiệm để tạo nguồn bọ phấn trắng ban đầu.
-Mẫu bọ phấn trắng trưởng thành thu được ngoài đồng ruộng được bố
trí đưa vào lồng nuôi có sẵn cây kí chủ để bọ phấn trắng tiếp tục phát triển
đến ghép cặp và sinh sản.
Nhân nguồn:
- Trưởng thành từ nguồn thu ngoài đồng khi vũ hóa sẽ được ghép cặp
vào các lồng chụp mica và lồng lưới nuôi côn trùng cỡ lớn (1mx1mx1m) có
sẵn cây thức ăn, tiến hành kiểm tra, theo dõi lượng trứng trứng đẻ trên các cây
nguồn để duy trì nguồn bọ phấn trắng nghiên cứu. Định kỳ 15 ngày thu bắt bổ
sung lượng bọ phấn trắng ngoài đồng ruộng để tăng cường số lượng cá thể
trong các lồng nhân nuôi.
3.3.3 Nghiên cứu đặc điểm sinh thái, sinh học của bọ phấn trắng Bemasia
tabaci
Phương pháp nuôi sinh học :
Bọ phấn trắng B.tabaci là loài côn trùng có kiểu miệng chuyên hoá cho
việc chích hút, cả giai đoạn ấu trùng và trưởng thành sống quần tụ trên lá và
gây hại chủ yếu ở phần phiến lá gần gân chính và gân phụ của lá. Theo John
(2001) . Bọ phấn trắng trưởng thành thường đẻ trứng ở mặt dưới của lá non và lá
bánh tẻ thành từng cụm 4-6 quả, cuống trứng được đính vào lá theo chiều vuông
góc với mặt phẳng của lá. Một trưởng thành cái đẻ khoảng 150 trứng trong thời
gian 5-9 ngày. Ta áp dụng những đặc điểm này vào quá trình nuôi sinh học bọ
phấn trắng.
Tiến hành:
- Đưa cây kí chủ được 3-5 lá vào lồng nuôi sâu 40× 40×80 cm , sau đó
thả trưởng thành đã vũ hóa vào lồng trong thời gian 24h để bọ phấn trắng
ghép cặp và sinh sản, mục đích này để có ta thu được 1 lượng trứng bọ phấn
trắng tương đối đồng đều về độ tuổi. Các cây ký chủ sau khi tiếp xúc với
trưởng thành bọ phấn trắng được đưa ra lồng mica 20*50 cm để cách ly riêng
. Kiểm tra đánh dấu vị trí trứng đẻ trên cây nào , đánh dấu ghi ngày.
- Sau khi bọ phấn trắng sinh sản đánh dấu phân loại trứng cùng lứa tuổi
với số lượng n=15-20 quả. Áp dụng phương pháp nuôi cá thể trên từng lá của
mỗi hom giống khác nhau để làm thí nghiệm, chuyển sang lồng mica 20*50
cm để cách li, nuôi đến khi bọ phấn trắng chết sinh lý, với các điều kiện nhiệt
độ 25 ,30 20 ánh sáng 14/10 và ẩm độ là 80%
Phương pháp đánh giá đặc điểm hình thái và sinh học
Với các các giống sắn và các điều kiện nuôi khác ta quan sát số trứng đã
được cách ly, nuôi tới khi trưởng thành và chết sinh lý. Từ đó theo dõi
được,thời gian, tỷ lệ trứng nở, thời gian phát dục của các pha, tỷ lệ sống sót
của ấu trùng.
Về hình thái:
- Kích thước :
Ở pha trứng , ấu trùng tuổi 2, tuổi 3 không di chuyển ta có thể đo kích
thước cơ thể trực tiếp trên lá bằng kính lúp soi nổi có gắn trắc vi độ phóng đại
10X-30X.
Ở ấu trùng tuổi 1 hay trưởng thành chúng thường di chuyển và bay, sử
dụng bút lông thấm nước để bắt và di chuyển mẫu vào đĩa petri để tiện đo
kích thước hình thái.
Tính toán kích thước trung bình ấu trùng ở các tuổi (mm) theo công
thức:
X=
(mm)
Trong đó X: kích thước trung bình của từng pha phát dục
Xi : kích thước của cá thể thứ i
Ni : số cá thể có cùng kích thước với cá thể thứ i
N : tổng số cá thể theo dõi
- Mô tả hình dạng các pha: Quan sát mô tả đánh giá đặc biệt là pha
nhộng giả: màu sắc, hình dạng, cấu trúc đặc biệt như râu, lông, gai ....
Về sinh học:
-Đánh giá chỉ tiêu vòng đời: Vòng đời Bọ phấn trắng được tính từ lúc
Trứng được đẻ ra đến khi Trưởng thành vũ hóa và đẻ quả trứng đầu tiên. Chọn
tách riêng 60 quả trứng cùng ngày tuổi của các cặp trưởng thành khác nhau để
tiến hành nuôi sinh học cá thể, sử dụng phương pháp nuôi trên đĩa petri chứa
lá với thức ăn là lá cà pháo và lá sắn trắng đã chuẩn bị sẵn. Hàng ngày tiến
hành theo dõi đặc điểm các pha phát dục của Bọ phấn trắng, ghi chép thời
gian trứng nở, thời gian lột xác của ấu trùng các tuổi, thời gian nhộng giả, thời