Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Kết cấu của thể loại nhật ký văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.57 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
==  == NGUYỄN THỊ
QUỲNH

KẾT CẤU CỦA THỂ LOẠI
NHẬT KÝ VĂN HỌC
(Khảo sát qua các tác phẩm: Nhật ký Tài hoa ra trận của Hoàng
Thượng Lân, Nhật ký Thanh niên xung phong của Trần Văn
Thùy, Nhật ký Lê Anh Xuân, Nhật ký Dọc đường lưu diễn của
Nguyễn Ngọc Bạch, Nhật ký Vùng Cao của Tô Hoài)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

HÀ NỘI – 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀNỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
==  == NGUYỄN THỊ
QUỲNH

KẾT CẤU CỦA THỂ LOẠI
NHẬT KÝ VĂN HỌC
(Khảo sát qua các tác phẩm: Nhật ký Tài hoa ra trận của Hoàng
Thượng Lân, Nhật ký Thanh niên xung phong của Trần Văn
Thùy, Nhật ký Lê Anh Xuân, Nhật ký Dọc đường lưu diễn của
Nguyễn Ngọc Bạch, Nhật ký Vùng Cao của Tô Hoài)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Chuyên ngành: Lí luận văn học

Người hướng dẫn khoa học

ThS. HOÀNG THỊ DUYÊN

HÀ NỘI – 2018


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Trường Đại học Sư Phạm
Hà Nội 2, cùng toàn thể các thầy cô khoa Ngữ Văn đã tạo điều kiện cho em
được thực hiện khóa luận này.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc nhất đến cô ThS. Hoàng Thị Duyên
giảng viên Đại học Sư Phạm Hà Nội 2, người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn,
chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt thời gian làm khóa luận.
Để hoàn thành được khóa luận này em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình,
bạn bè đã luôn động viên, hỗ trợ em suốt trong quá trình nghiên cứu cũng như
hoàn thành khóa luận.
Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cô, gia
đình và bạn bè đã luôn động viên và giúp đỡ em.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Quỳnh


LỜI CAM ĐOAN
Em tên là Nguyễn Thị Quỳnh, sinh viên lớp K40D – Sư Phạm Ngữ Văn.
Em xin cam đoan nội dung mà em trình bày trong khóa luận tốt nghiệp này là

kết quả nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo. Và
khóa luận này cũng chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào.
Những lời cam đoan trên là đúng sự thật, nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên
Nguyễn Thị Quỳnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu........................................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................... 4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 5
7. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 6
NỘI DUNG ...................................................................................................... 7
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KẾT CẤU TRONG VĂN HỌC VÀ
THỂ LOẠI NHẬT KÝ...................................................................................... 7
1.1. Vấn đề kết cấu trong văn học..................................................................... 7
1.2. Những vấn đề chung của thể loại nhật ký.................................................. 9
1.2.1. Quan niệm về nhật ký văn học................................................................ 9
1.2.2. Đặc điểm của thể loại nhật ký văn học ................................................. 11
1.2.2.1. Sự thật là vấn đề cốt lõi của nhật ký .................................................. 11
1.2.2.2. Nhật ký là thể loại mang tính chất cá nhân riêng tư .......................... 16
1.2.2.3. Tính chất biên niên của thể loại nhật ký ............................................ 18
1.2.3. Phân loại nhật ký................................................................................... 20
1.2.3.1. Nhật ký ngoài văn học ....................................................................... 20

1.2.3.2. Nhật ký văn học ................................................................................. 22
Chương 2: TÍNH LINH HOẠT, MỀM DẺO TRONG KẾT CẤU CỦA
NHẬT KÝ ....................................................................................................... 23
2.1. Tính thường nhật và sự linh hoạt trong kết cấu nhật ký .......................... 23
2.1.1. Tính thường nhật của kết cấu nhật ký................................................... 23
2.1.2. Sự linh hoạt trong kết cấu của nhật ký.................................................. 24
2.2. Tính biên niên và sự ngắt quãng trong kết cấu nhật ký ........................... 27
2.2.1. Tính biên niên trong kết cấu nhật ký..................................................... 27


2.2.2. Sự ngắt quãng trong nhật ký ................................................................. 28
2.3. Sự ngẫu hứng của người viết và tính mềm dẻo trong kết cấu ................. 31
2.3.1. Sự ngẫu hứng của người viết ................................................................ 31
2.3.2. Tính mềm dẻo trong kết cấu ................................................................. 33
2.4. Một số kiểu kết cấu trong nhật ký chiến tranh......................................... 36
2.4.1. Kết cấu thời gian ................................................................................... 36
2.4.1.1. Thời gian tuyến tính ........................................................................... 36
2.4.1.2. Thời gian phi tuyến tính ..................................................................... 37
2.4.2. Kết cấu không gian................................................................................ 38
2.4.2.1. Không gian thực ................................................................................. 38
2.4.2.2. Không gian ảo .................................................................................... 40
Chương 3: TÍNH TỰ DO TRONG KẾT CẤU CỦA NHẬT KÝ .................. 43
VĂN HỌC....................................................................................................... 43
3.1. Cơ chế tạo khoái cảm và sự tự do của kết cấu nhật ký ............................ 43
3.1.1. Cơ chế tạo khoái cảm ............................................................................ 43
3.1.2. Sự tự do trong kết cấu nhật ký .............................................................. 45
3.2. Tính cá nhân và sự độc đáo từ kết cấu nhật ký ........................................ 49
3.2.1. Tính cá nhân .......................................................................................... 49
3.2.2. Sự độc đáo của nhật ký ......................................................................... 51
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 53

TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi tác phẩm văn học là một hiện tượng thẩm mĩ có tính chỉnh thể và
toàn vẹn. Trong đó kết cấu là một trong những nhân tố không thể thiếu
trong tác phẩm văn học. Kết cấu vừa giúp nhà văn truyền tải thông điệp
đến người đọc theo đúng ý tưởng, vừa cho thấy trình độ của họ trong việc
triển khai, tổ chức tác phẩm. Ở một phạm vi rộng hơn, quan sát kết cấu của
một hệ thống tác phẩm trong một giai đoạn nhất định sẽ cho ta thấy được
phần nào lí tưởng thẩm mĩ, quan niệm sáng tác của nhà văn và cả thị hiếu
của độc giả thời đại đó cũng như sự vận động của các thể loại trong lịch sử
văn học.
Kết cấu là một trong những phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ
thuật, nó ra đời với ý đồ nghệ thuật của tác phẩm, cụ thể hóa với sự phát
triển của hình tượng. Kết cấu có nhiều bình diện và cấp độ khác nhau, và
mang những đặc điểm riêng không giống với các thể loại khác.
Chiến tranh đã đi qua từ rất lâu, nhưng dư âm của hai cuộc kháng
chiến vĩ đại của dân tộc vẫn còn in đậm dấu ấn trong tiềm thức của mỗi
con người. Qua hai cuộc chiến tranh vĩ đại của lịch sử dân tộc, những cuốn
tiểu thuyết, hay những mẩu chuyện ngắn đã kịp thời ghi lại được những
chi tiết đầy sức ám ảnh, hay tinh thần lạc quan của người chiến sĩ cách
mạng. Tác giả Tôn Phương Lan có một nhận định độc đáo “Chiến tranh
đã đi qua hơn ba mươi năm. Nhiều bức màn bí ẩn đã được vén lên cho
thấy chiều kích cuộc chiến đấu một thời cụ thể hơn. Vẫn biết sáng tác văn
chương của chúng ta chưa thật sự xứng tầm với những hy sinh của nhân
dân ta và qua nhật ký chiến tranh chúng ta thấy rõ điều đó. Đến bây giờ
chẳng ai còn ngủ trong hào quang chiến trận. Nhưng hãy nhìn vào những
gì dân tộc ta trải qua để đốt lên trong lòng mỗi người ngọn lửa yêu nước,


1


để đưa dân tộc ta vượt qua đói nghèo là việc rất cần làm. Trên ý nghĩa đó,
nhật ký chiến tranh sẽ là cơ sở để cho hậu thế viết lại lịch sử bằng văn.
Sâu xa hơn, đó có thể là bài học kinh nghiệm trong cuộc hội nhập hôm
nay”[9]. Qua lời nhận định đó cho ta những trang viết chân thực nhất về
những hy sinh, mất mát của người chiến sĩ trong suốt những năm kháng
chiến đầy gian khổ. Cùng với sự phong phú và đa dạng về thể loại, dòng
văn học viết về chiến tranh đã cho chúng ta thấy được hiện thực đầy khốc
liệt của những cuộc chiến tranh trên khắp dải đất hình chữ S cũng như giúp
ta thấy được tinh thần chiến đấu kiên cường của quân và dân Việt Nam.
Nhắc đến “chiến tranh” ta không thể không liên tưởng tới cuộc đấu
tranh giành độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam với những mất mát, đau
thương của biết bao chiến sĩ đã nằm xuống để bảo vệ Tổ quốc. Dường như
những hy sinh, mất mát đó khó có thể phai nhòa trong tiềm thức của mỗi
người dân Việt Nam, nhưng những đề tài viết về chiến tranh không nhiều
khiến cho giới trẻ ngày nay quên đi những trang lịch sử, với những mốc
son chói lọi của dân tộc ta. Ngày nay nhật ký chiến tranh có vai trò vô
cùng quan trọng và không thể thiếu trong văn chương Việt Nam. Vì vậy
lựa chọn đề tài “Kết cấu của thể loại nhật ký văn học (khảo sát qua các
tác phẩm: Nhật ký Tài hoa ra trận của Hoàng Thượng Lân, Nhật Ký
Thanh niên xung phong của Trần Văn Thùy, Nhật ký Lê Anh Xuân,
Nhật ký Dọc đường lưu diễn của Nguyễn Ngọc Bạch, Nhật Ký Vùng
Cao của Tô Hoài)”, chúng tôi muốn cung cấp thêm một số tư liệu trong
việc tìm hiểu về những đặc trưng của thể loại nhật ký và đặc biệt là kết
cấu.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nhật ký là thể loại mang tính chất riêng tư, có thể nói trước đây thì số

lượng những cuốn nhật ký chiến tranh rất ít và chưa thu hút được sự quan


tâm của người đọc cũng như của giới nghiên cứu. Nhưng với sự xuất hiện
của những cuốn nhật ký chiến tranh đầu những năm 2000 đã tạo ra một nét
riêng độc đáo, tạo nên sự hấp dẫn của thể loại nhật ký, những tâm sự giấu
kín, những nỗi lòng của những người chiến sĩ ở nơi khốc liệt nhất của
chiến trường, là nơi cận kề giữ sự sống và cái chết, nhưng ở họ lòng dũng
cảm, yêu đời, lạc quan chiến đấu không chịu khuất phục trước kẻ thù hay
những tấm gương anh hùng xả thân vì nước đã trở thành dấu ấn in đậm
trong mỗi người dân Việt Nam, từ khi xuất hiện một số cuốn nhật ký viết
về đề tài chiến tranh một phần nào đó đã thu hút được sự chú ý của bạn
đọc, cũng như giới nghiên cứu văn học. Đã có không ít bài viết được công
bố trên những phương tiện truyền thông tuy nhiên những bài nghiên cứu
chuyên sâu về thể loại nhật ký còn bị hạn chế.
Chúng ta có thể biết đến những bài nghiên cứu như Nguồn tư liệu
đáng quý qua nhật ký chiến tranh của tác giả Tôn Phương Lan, hay Dấu
ấn chiến tranh qua Nhật ký chiến trường của Dương Thị Xuân Qúy của tác
giả Nguyễn Thị Việt Nga… Những bài viết chuyên sâu này hầu như chỉ đề
cập đến những vất vả, khó khăn, nguy hiểm và gian lao của người chiến sĩ
nơi chiến trường, đồng thời cũng là nguồn tư liệu phong phú cho giới
nghiên cứu. Các bài nghiên cứu chỉ mới chạm đến một số vấn đề cơ bản
của tác phẩm tiêu biểu như: Thể loại nhật ký trong đời sống xã hội và văn
học của Giáo sư Trần Đình Sử, hay những bài nghiên cứu của Ngô Thảo,
Nguyễn Huy Thắng về Nguyễn Huy Tưởng cho ra mắt cuốn sách những
chân dung song hành.
Một số bài báo giới thiệu về nhật ký văn học như: Văn học với nhật
ký văn học của thầy Tạ Hiếu đăng trên báo Bắc Giang, Cơn sốt nhật ký
chiến tranh của nhà sử học Dương Trung Quốc. Đặc biệt với sự xuất hiện
của hai cuốn nhật ký: Nhật ký Đặng Thùy Trâm và Mãi mãi tuổi hai mươi



đã tạo được tiếng vang lớn thu hút được sự quan tâm của bạn đọc và giới
nghiên cứu, trở thành hiện tượng nổi bật trong xã hội nói chung và trong
văn học nói riêng. Những dòng tâm sự, nỗi lòng của con người vật lộn với
những khó khăn, nguy hiểm, mưa bom bão đạn nhưng họ vẫn toát lên vẻ
đẹp nhân cách với lí tưởng cao đẹp của mình.
Vì chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về thể loại nhật
ký, với khóa luận này chúng tôi muốn cung cấp một nguồn tư liệu mới về
đặc trưng của kết cấu nhật ký.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mỗi thể loại trong văn học đều có những đặc điểm chung và đặc điểm
riêng biệt. Thể loại nhật ký cũng không ngoại lệ, khác với các thể loại khác
đó là nhật ký viết cho chính bản thân người viết, chứ không nhằm mục
đích xuất bản, và qua những trang nhật ký đã cho ta thấy được bức tranh
hiện thực nơi chiến trường với vô vàn những khó khăn, nguy hiểm phía
trước đồng thời giúp cho bạn đọc có cái nhìn toàn diện hơn về con người
cũng như xã hội thời đó, qua những trang nhật ký con người như được
chiêm nghiệm lại những điều trong quá khứ mình đã trải qua với những
cảm xúc, tình cảm thật của chính mình. Ngoài ra, với những giá trị tinh
thần mà nhật ký chiến tranh để lại sẽ phần nào giúp thế hệ thanh niên Việt
Nam cũng như các bạn trẻ có thêm những hiểu biết về những trang sử
vàng của nước nhà, những lý tưởng cao đẹp của cha anh, của những thế hệ
đi trước… Từ đó hình thành một lý tưởng sống cao đẹp để tưởng nhớ sự
hy sinh của những thế hệ đi trước họ đã hy sinh cả tuổi đời để làm nên
mốc son chói lọi cho đất nước, với đề tài nghiên cứu này một phần có thể
giúp bạn đọc nhận thức và có cái nhìn chân thực, rõ nét hơn về những gì
cuộc chiến đã đi qua và ý nghĩa của những trang nhật ký đem lại.



4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Kết cấu của thể loại nhật ký văn học.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do nhật ký viết ra cho chính bản thân người viết chứ không nhằm
mục đích công bố cho nhiều người xem nên số lượng sách được xuất bản
không nhiều, đồng thời do giới hạn về thời gian, nên chúng tôi tập trung
khai thác đề tài trong phạm vi một số tác phẩm nhật ký đã được xuất bản
như: Tài hoa ra trận của Hoàng Thượng Lân, Nhật ký thanh niên xung
phong của Trần Văn Thùy, Nhật ký Dọc đường lưu diễn của Nguyễn Ngọc
Bạch, Nhật ký Lê Xuân Anh, Nhật ký vùng cao của Tô Hoài…Ngoài
những cuốn nhật ký trên, chúng tôi còn tham khảo thêm một vài cuốn nhật
ký cùng thời để làm nổi bật ý nghĩa thể loại cũng như ý nghĩa xã hội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp khảo sát, thống kê: Với phương pháp này chúng tôi có thể
cung cấp đến bạn đọc những số liệu, hay sự kiện mang tính khái quát nhất
trong nhật ký văn học.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Cho ta cái nhìn chân thực nhất với những
điều mà người viết được chứng kiến.
Phương pháp so sánh: So sánh với một số cuốn nhật ký cùng thời để thấy
được những đặc trưng riêng biệt của từng cuốn nhật ký.
6. Đóng góp của khóa luận
Với đề tài “Kết cấu của thể loại nhật ký văn học (khảo sát qua các
tác phẩm: Nhật ký Tài hoa ra trận của Hoàng Thượng Lân, Nhật Ký


Thanh niên xung phong của Trần Văn Thùy, Nhật ký Lê Anh Xuân,
Nhật ký Dọc đường lưu diễn của Nguyễn Ngọc Bạch, Nhật Ký Vùng
Cao của Tô Hoài)” chúng tôi muốn đóng góp thêm một nguồn tư liệu mới

góp phần làm đa dạng và phong phú về thể loại nhật ký văn học.
7. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận gồm ba phần: phần Mở đầu, phần Nội dung và phần Kết
luận. Trong đó phần nội dung khóa luận tập trung giải quyết những vấn đề
sau:
Chương 1. Khái quát chung về kết cấu trong văn học và thể loại nhật

Chương 2. Tính linh hoạt, mềm dẻo trong kết cấu của nhật ký
Chương 3. Tính tự do trong kết cấu của nhật ký văn học


NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KẾT CẤU TRONG VĂN HỌC
VÀ THỂ LOẠI NHẬT KÝ
1.1. Vấn đề kết cấu trong văn học
Kết cấu là phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật, khi xây dựng tác
phẩm, xây dựng cốt truyện, xây dựng nhân vật, xây dựng cấu tứ trong thơ, thì
đã xem tác phẩm như một công trình kiến trúc. Kết cấu trong tác phẩm văn
học cũng vậy, nó nhằm tạo ra một công trình hợp mục đích tối đa, để tạo nên
một kết cấu hoàn chỉnh và thống nhất thì nhà văn phải biết lựa chọn và sắp
xếp xem cái gì tả trước, cái gì tả sau, chi tiết tô đậm ra sao… cách tổ chức,
sắp xếp này được gọi là kết cấu của tác phẩm văn học.
Theo tác giả giáo trình lí luận văn học tập 2 có thể hiểu kết cấu tác
phẩm “Là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm
vụ nghệ thuật cụ thể do nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu tác phẩm không
bao giờ tách rời nội dung trong cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm” [16,
tr.152].
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về kết cấu, tác giả Từ điển thuật ngữ
văn học đưa ra khái niệm như sau: kết cấu tác phẩm “Là toàn bộ tổ chức phức
tạp sinh động của tác phẩm…Tổ chức tác phẩm không chỉ được giới hạn ở sự

tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài, giữa các bộ phận, chương,
đoạn mà còn bao hàm cả sự liên kết bên trong và nghệ thuật kiến trúc, nội
dung cụ thể của tác phẩm…”; “Bất cứ tác phẩm nào cũng có kết cấu nhất
định. Kết cấu đảm nhận nhiều chức năng đa dạng bộc lộ tốt chủ đề và tư
tưởng của tác phẩm, triển khai trình bày hấp dẫn cốt truyện, cấu trúc hợp lí,
hệ thống tính cách, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả, tạo ra tính cách
toàn vẹn của tác phẩm như một hiện tượng thẩm mĩ” [5, tr.156-157].


Theo Từ điển thuật ngữ văn học bộ mới, kết cấu được định nghĩa là
“Toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm”, thuật ngữ này được
phân biệt với khái niệm bố cục, nó không chỉ là bố cục của tác phẩm, mà nó
còn bao gồm cả liên kết bên trong và nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của
tác phẩm [6, tr.131].
Trong 150 Thuật ngữ văn học, tác giả Lại Nguyên Ân đưa ra khái niệm
như sau: “Kết cấu là sự sắp xếp, phân bố các tác phẩm, hình thức nghệ thuật,
tùy theo nội dung và đề tài. Kết cấu gắn với các yếu tố hình thức và phối
thuộc chúng với tư tưởng” [1, tr.167].
Soạn giả người Pháp Etienne Souriau trong cuốn Vocabulaire
d’esthétique (Từ điển mĩ học) đã đưa ra khái niệm kết cấu như sau: “Trong
nghĩa bao quát, thuật ngữ kết cấu chỉ trật tự, tỉ lệ và mối liên hệ giữa các bộ
phận trong một tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là trật tự và mối liên hệ được
tạo nên bởi một dụng ý quan trọng nào đó của nghệ sĩ. Thuật ngữ này cũng
được dùng để thể hiện thao tác mà nhờ nó người nghệ sĩ hiện thực hóa được
các liên hệ đó” [21]. Như vậy theo khái niệm này thì kết cấu gồm hai phương
diện chính: đầu tiên đó là sự tổ chức sắp xếp, bố trí các yếu tố theo một trật tự
và một nguyên tắc thống nhất; thứ hai đó sự thống nhất giữa nội dung và hình
thức, là sự liên kết giữa các yếu tố, các bộ phận với nhau, với tư tưởng chủ đề
trong tác phẩm để tạo nên tính chỉnh thể và tính toàn vẹn của tác phẩm. Trong
thi pháp học hiện đại cũng đề cao kết cấu của tác phẩm văn học, cũng như

ngôn từ nghệ thuật và đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố tạo nên phong cách
riêng của từng tác giả.
Trên đây là những quan niệm khác nhau về khái niệm kết cấu nhưng tựu
chung đều cho rằng kết cấu chính là sự tổ chức, sắp xếp và có sự thống nhất
giữa nội dung và hình thức.


1.2. Những vấn đề chung của thể loại nhật ký
1.2.1. Quan niệm về nhật ký văn học
Nhật ký được hiểu là ghi chép lại những sự việc, sự kiện diễn ra hằng
ngày, nhìn chung ngày nay nhật ký cũng đã thu hút được sự quan tâm của
nhiều bạn đọc, nhiều nhà nghiên cứu và phê bình. Hiện nay có nhiều quan
niệm khác nhau về nhật ký. Tuy nhiên, xét một cách tổng quát, hiện có hai
quan niệm trái chiều nhau.
Quan niệm thứ nhất cho rằng: nhật ký là một thể ngoài văn học. Quan
niệm này chỉ xem nhật ký là những ghi chép cá nhân phục vụ cho chính bản
thân người viết, trong đó họ có thể tự do bộc lộ tình cảm hay những tâm sự
riêng tư của mình, điều này là một trong những nét đặc trưng tiêu biểu làm
nên diện mạo riêng của thể loại nhật ký.
Quan niệm thứ hai lại cho rằng nhật ký với tư cách là một thể loại trong
văn học. Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của tác giả Lê Bá Hán – Trần Đình
Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) cho rằng ký với tư cách là “Một thể
loại thuộc loại hình ký” [5, tr.237]. Nhật ký xuất hiện muộn hơn so với các
thể loại khác như tiểu thuyết, thơ… đến thế kỷ XVIII khi xuất hiện nhu cầu tự
bộc bạch, tự quan sát thì nhật ký mới có sự gia tăng, thu hút của bạn đọc và
giới nghiên cứu và thể loại này phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XIX ở Châu
Âu.
Từ điển thuật ngữ văn học (bộ mới) định nghĩa nhật ký “Là loại ghi
chép thường ngày. Trong văn học, nhật ký là hình thức trần thuật từ ngôi thứ
nhất số ít, dưới dạng những ghi chép hằng ngày có đánh số ngày tháng ghi lại

những gì đã xảy ra, những gì đã nếm trải và thử nghiệm: nó ít có hồi cố, được
viết ra chỉ cho bản thân người ghi chứ không tính đến việc được công chúng
đón nhận” [6, tr.1257].


Theo giáo trình lí luận văn học phần Tác phẩm và thể loại thì nhật ký
“Là thể loại ký mang tính chất riêng tư, đời thường nhiều nhất” [16, tr.379].
Cuốn văn học Việt Nam thế kỷ XX, tác giả Phan Cự Đệ cũng xem thể loại nhật
ký với tư cách như một tiểu loại thuộc thể ký. “Nhật ký ghi chép những sự
việc và cảm nghĩ về bản thân, về cuộc đời diễn biến thời gian, ngày tháng.
Nhật ký thiên về tâm tình hơn là sự kiện. Mỗi tập nhật ký có nghĩa văn học khi
nó thể hiện được một thế giới tâm hồn, qua sự việc về tâm trạng cá nhân toát
lên những vấn đề xã hội rộng lớn” [4, tr.432].
Ở Nhật Bản, nikki (nhật ký) xuất hiện vào thế kỷ X thời Heian, nó được
dùng để ghi chép các sự việc, sự kiện hàng ngày và được ghi lại bằng chữ
Hán. Đối tượng viết loại nhật ký này thường là vua, quan, họ viết nhật ký
thường xuyên để ghi chép lại những sự việc đã xảy ra trước đó. Nhật ký lúc
này cũng được xem là thể loại mang tính chất văn chương, một trong những
tác phẩm tiêu biểu nhất phải kể đến đó là tác phẩm niki của Kino Tsurayuki,
Tosa niki vào năm 934, tác phẩm này được viết bằng chữ kana và nó mang
đậm dấu ấn cá nhân của tác giả kể về chuyến du hành của Tsurayuki từ Tosa
trở về kinh đô Kyoto sau thời kì mãn nhiệm, với chuyến du hành kéo dài 55
ngày đêm, Tsurayuki đã ghi lại những diễn biến tâm trạng mệt mỏi và những
điều lo lắng trong cuộc hành trình đó, cùng với sự thương xót và nỗi nhớ
người con đã mất ở Tosa. Qua việc dùng quốc âm kana làm phương tiện ngôn
ngữ, tác giả dễ dàng bày tỏ quan điểm, thái độ và ý kiến cá nhân của mình về
xã hội đương thời lúc bấy giờ với những cảm xúc và tâm trạng thật của mình,
với tác phẩm này nó đã mở ra một hướng đi mới cho văn học nhật ký thời
Heian lúc bấy giờ, cùng với sự du nhập của thể loại nhật ký của Trung Hoa
vào Nhật Bản đã góp phần làm phong phú và đa dạng hơn thể loại nhật ký ở

Trung Hoa nói chung và ở Nhật Bản nói riêng.


Ở Việt Nam thể ký ra đời muộn hơn, đánh dấu cho sự xuất hiện của thể
loại này là tác phẩm: Vũ trung tùy bút và Thượng kinh kí sự thời Lý – Trần,
cũng giống như ở các quốc gia khác, thể ký ở Việt Nam được xem là thể loại
mở đường cho sự phát triển mạnh mẽ cho trào lưu chủ nghĩa hiện thực trong
văn học nghệ thuật. Trải qua những giai đoạn lịch sử khác nhau, thể ký cũng
có những thay đổi nhất định để phù hợp với xu thế phát triển của xã hội cũng
như của văn học. Có thể thấy rằng nhật ký được xem như một biến thể của ký
hiện đại như hồi ký, tùy bút, tản văn, phóng sự…
Theo khảo sát của chúng tôi thì nhật ký là một thể loại văn học có nghĩa
là đã thừa nhận nhật ký mang trong nó những quy luật đặc thù của thể loại
làm nên diện mạo riêng của nó. Bởi thể loại tác phẩm văn học là một hiện
tượng loại hình của sáng tác và giao tiếp văn học, hình thành trên cơ sở lặp lại
có quy luật của các yếu tố tác phẩm.
Như vậy có thể thấy rằng nhật ký là những ghi chép thường nhật nhất
của cá nhân về những sự kiện, những cảm xúc và những công việc nổi bật
trong ngày, những ghi chép trong nhật ký có tính chân thực rất cao và không
có sự hư cấu tưởng tượng như trong các thể loại khác.
1.2.2. Đặc điểm của thể loại nhật ký văn học
1.2.2.1. Sự thật là vấn đề cốt lõi của nhật ký
Với thể loại nhật ký văn học, để có thể đại diện cho những vấn đề có ý nghĩa
lớn thì việc ghi chép phải mang tính chân thực, không có hư cấu hay tưởng
tượng thì mới có sức thu hút đối với độc giả.
Nhắc đến từ “chiến trường” chúng ta đã thấy hiện lên những gì khó khăn
nhất, nguy hiểm nhất, nơi mà ranh giới giữa sự sống và cái chết dường như
không có sự ngăn cách, cái chết có thể đột ngột ập đến một cách bất ngờ,
nhưng đó cũng là nơi ấm áp tình người, tình đồng đội đồng chí. Những thể
loại khác như truyện ngắn hay tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cũng đã cho



chúng ta thấy rất rõ điều đó, trong bài Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến
Duật, ta có thể thấy những nguy hiểm và thiếu thốn của những anh lính lái xe
trên đường Trường Sơn, “xe không kính” là một biểu tượng cho sự khó khăn,
thiếu thốn của những người lính thời chiến hay những cô gái thanh niên xung
phong trong Khoảng trời – hố bom của Lâm Thị Mỹ Dạ đã cho ta thấy được
lòng dũng cảm, hiên ngang, bất khuất của mười cô thanh niên xung phong khi
làm nhiệm vụ, các chị đã chìm vào trong giấc ngủ ngàn thu để bảo vệ Tổ
quốc; hay ta cũng bắt gặp tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân
dân được miêu tả trong Hòn Đất của Anh Đức, những trận chiến sinh tử qua
các tiểu thuyết của Chu Lai như Nắng đồng bằng, Ăn mày dĩ vãng…hay trong
những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh cũng cho ta thấy những
chi tiết ám ảnh về thời chiến. Đặc biệt trong những cuốn nhật ký viết về chiến
tranh ta có thể tìm thấy những chi tiết, hình ảnh sống động với độ chân thực
cao nhất và có thể coi nhật ký chiến tranh là nguồn tư liệu đáng trân trọng
nhất và vô cùng đáng quý về chiến tranh.
Nhật ký với tư cách là một tiểu loại nhỏ của ký, nhật ký cũng có những
nét chung nhất của ký, bên cạnh những nét chung đó nó lại có những điểm
riêng biệt để làm nên tính độc đáo của thể loại. Trong văn học đối tượng phản
ánh là hiện thực cuộc sống, tuy nhiên mức độ chân thực trong đó không cao,
nhà văn có thể hư cấu, tô đậm hay phóng đại sự thật, hiện thực được phản ánh
trong mỗi thể loại là khác nhau. Truyện thường lấy sự thật làm chất liệu, sự
thật cũng có thể hư cấu, tưởng tượng để biểu hiện một tư tưởng hay một quan
niệm nghệ thuật nào đó của nhà văn, trong truyện sự thật chỉ chiếm 2% trong
khi đó hư cấu chiếm tới 98%, minh chứng cho điều đó ta có thể thấy trong
truyện ngắn Chí Phèo, nhân vật Bá Kiến vốn được xây dựng dựa trên nguyên
mẫu có thật ngoài đời là Bá Bính, cả hai đều cùng nham hiểm, độc ác, chỉ
khác là Bá Bính không bị Chí Phèo đâm chết, mà y mất tích sau kháng chiến



chống Pháp. Khác biệt hoàn toàn so với truyện ngắn hay tiểu thuyết, thì ở
nhật ký sự thật chính là hạt nhân cốt lõi, trong truyện hay tiểu thuyết yếu tố
hư cấu là một điều không thể thiếu, thì trong nhật ký sự thật đóng vai trò là
nhân tố quan trọng, khi viết người viết phải viết đúng sự thật không được tự
ý thêm vào trong đó các tình tiết, sự kiện hay những câu chuyện không có thật
trong cuộc sống. Nhật ký luôn đề cao sự chân thật của người viết với những
thông tin mang tính xác thực được ghi chép lại. Nếu như trong thơ trữ tình,
tiểu thuyết hay truyện ngắn được viết ra nhằm đem đến cho người đọc những
thông tin mang tính thẩm mỹ thì với sự ra đời của nhật ký đã cung cấp cho
con người thông tin mang tính xác thực nhất đó là những điều mà họ được
chứng kiến, chiêm nghiệm trong cuộc sống, khi viết nhật ký người viết luôn
lấy sự thật làm tôn chỉ, nói đến tính xác thực của nhật ký, Giáo sư Trần Đình
Sử đã đánh giá: “Nhật ký là thể loại ghi chép những sự việc, suy nghĩ cảm xúc
hằng ngày của chính người viết (…). Gía trị quan trọng nhất của nhật ký là
tính chân thực do ghi chép sự việc đang diễn ra” [16, tr.261]. Như vậy sự thật
chính là yếu tố quan trọng nhất để khẳng định giá trị của nhật ký.
Trong nhật ký bản chất của nó là coi trọng sự thật bởi nhật ký là những
ghi chép chân thực nhất về sự việc, sự kiện hay cảm xúc của cá nhân người
viết. Nhật ký cá nhân được viết ra cho bản thân người ghi nhớ chứ không tính
đến việc được công chúng tiếp nhận, nó thường nói về các sự kiện đời tư của
con người trong cuộc sống và cũng mang tính chất xác thực riêng của nó. Bên
cạnh đó người viết cũng bày tỏ quan điểm, ý kiến về những sự việc, sự kiện
xảy ra trong cuộc sống. Nhật ký viết ra cho chính mình chứ không nhằm công
bố đến bạn đọc.
Tính chân thật trong nhật ký được biểu hiện rõ nét qua từng trang nhật
ký của người viết. Cuốn nhật ký của Hoàng Thượng Lân chính “là những ghi
chép chân thực và sinh động bởi nhiều chi tiết trung thực đến 100% với tất cả



những gì anh nhìn thấy, nghe và cảm nhận” [8, tr.28]. Trong lời giới thiệu
Nhật ký chiến tranh, nhà thơ Bùi Minh Quốc đã viết “Tất cả những gì ta đọc
được ở đây đều là sự thật, cái sự thật tươi ròng và sống động nhất” [11,
tr.32]. Những con người thật, những địa chỉ thật, những sự việc thật, những
tâm trạng thật. Toàn bộ những cảm xúc hay suy nghĩ của bản thân mình cũng
được Nguyễn Văn Thạc ghi lại một cách chân thực trong cuốn nhật ký Mãi
mãi tuổi hai mươi, qua cuốn nhật ký của Nguyễn Văn Thạc, bạn đọc thấy
được nhiều sự thật về lịch sử kháng chiến chống Mỹ của dân tộc. Trong cuốn
Tài hoa ra trận của Hoàng Thượng Lân anh đã lột tả chân thực sự nguy hiểm
của những trận chiến sinh tử nơi chiến trường, nơi mà cái chết có thể đến bất
chợt… “Bom đạn làm rung chuyển mặt đất, cát bụi mù mịt phủ lên người. mắt
không mở được. Tưởng chết rồi nhưng qua được một lúc, qua cơn choáng
vang rung động lại thấy là mình chưa chết. Mình không có chủ ý bắn đại tô
màu nhưng sự thật là như thế. Sự thật ở đay, mình vẫn chưa đủ lời để diễn tả
cho người ta hiểu cái khốc liệt, cái dũng cảm quyết tử của mỗi con người
sống bám lấy mảnh đất chiến đấu này! Mình tôn trọng sự thật. Gỉa dụ một
nhà văn có khả năng hư cấu thì đến đây, anh ta cũng khó lòng mà hư cấu hơn
được nữa. Bởi vì thực tế đã thần kỳ, đã vĩ đại quá rồi! [8, tr.71]. “Con đường
dài cả đời người trông dĩ vắng dằng dặc đau khổ trước kia, con đường thồ
ngựa, tải súng và dầu lửa lên các đồn ải đế quốc trên biên giới. Những người
phu đuổi ngựa chạy cung cúc bên cạnh chân ngựa? Những cô hồn tháng 7
của Nguyễn Du lướt thướt kéo đi ròng rã năm này sang năm khác trong mưa
dầm cao nguyên” [17, tr.49]. “Anh từng chứng kiến tận mắt cái chết của các
đồng chí mình, một cái chết cũng mấp mé với bản thân anh “Máy bay B52
dập tại cơ quan. Nhà sân khấu thành một cái đìa. Bốn người sập hầm. Moi
lên Hiến thấy bàn tay của Ngọc Cung, rồi Hai Phương, Bảy Thạch, Bảy lũy
làm hô hấp nhân tạo. Cuối cùng phải khiêng xuống nhà GN. Bốn người nằm


chết sống soài. Tiếng đóng hòm chát chúa. Một ngày căng thẳng nặng nề.

Đưa đám” [17, tr.17].“Pháo địch từ các nơi bắn về. Nổ chính xác vào đội
hình của chúng con. Anh em bị thương, lui ra sau hết. Hai trực thăng vũ trang
phành phạch bay đến, nhè vào chỗ chúng con ẩn nấp bắn không nghỉ. Đạn
cắm chíu xuống quanh con, nghe lạnh cả xương sống. Hầm hố không có, nên
ai cũng cố gắng thu người lại cho thật nhỏ” [8, tr.104]. Bên cạnh đó, những
cuốn nhật ký còn để lại một khối tư liệu quý báu về cuộc chiến tranh nhân dân
trên khắp các địa phương của cả nước. Đó là cuộc đấu tranh ở những thôn
xóm nhỏ, ở nơi đối đầu trực tiếp giữa người dân mộc mạc, bình dị nhất, họ
không được trang bị bất cứ tư trang gì phục vụ cho việc chiến đấu với kẻ thù
được trang bị chu đáo đến tận răng hay cuộc vật lộn dai dẳng mà tất cả những
sống chết đói no, tiếng khóc – tiếng cười đã trở thành chuyện bình thường.
Như vậy hạt nhân cốt lõi của nhật ký chính là sự thật, điều này làm nên
tính hấp dẫn riêng của nhật ký, những sự việc, sự kiện được ghi lại trong mỗi
cuốn nhật ký đều là sự thật, không có sự hư cấu, với hạt nhân cốt lõi là sự thật
nó là thươc đo khẳng định giá trị của thể loại, đem lại cho con người những
hiểu biết về cuộc sống, tạo ra sức thuyết phục và niềm tin đối với người đọc.
Đồng thời, với thể loại nhật ký này nó cũng để lại những giá trị không nhỏ về
việc cung cấp tư liệu thời chiến, đã có không ít cuốn nhật ký viết trong thời
chiến được đánh giá như thước phim quay chậm về những nơi trận địa và nhờ
tính chân thật đó mà nó trở thành nguồn tư liệu phong phú giúp thế hệ sau có
những hiểu biết thêm về cuộc sống nơi chiến trường và hiện thực khốc liệt.
Đọc bất kỳ cuốn nhật ký nào ta cũng sẽ thấy được những khó khăn, thiếu thốn
hay những nguy hiểm luôn rình rập họ hiện ra một cách chân thực nhất. Đặc
điểm này chính là đặc điểm riêng biệt của thể loại nhật ký và cũng là đặc
điểm để phân biệt với các thể loại khác trong văn học.


1.2.2.2. Nhật ký là thể loại mang tính chất cá nhân riêng tư
Đặc trưng thứ hai làm nên nét riêng, độc đáo của thể loại nhật ký là tính
chất cá nhân riêng tư .Trong giáo trình Lí luận văn học phần Tác phẩm và thể

loại văn học Giáo sư Trần Đình Sử đã khẳng định: “Nhật ký là thể loại mang
tính chất riêng tư, đời thường nhiều nhất. Nếu mục đích của bài viết là để
giao lưu với người khác, thì nhật ký chỉ để giao lưu với chính mình, mình viết
để cho mình và nói với mình. Riêng tư chính là lí do tồn tại của nhật ký. Tính
riêng tư cũng là đặc trưng hấp dẫn của nhật ký, vì nó liên quan đến bí mật
của người khác, nhất là những nhân vật được xã hội quan tâm” [16, tr.379].
Nhật ký chính là những lời tâm sự, thổ lộ của tác giả hay nhân vật những
lúc họ mệt mỏi cô đơn, muốn tự mình chiêm nghiệm lại những điều đã xảy ra.
Vì thế tính chất riêng tư và tính chân thật, rất đời thường cũng là đặc trưng
không thể thiếu trong nhật ký, nó “Với tư cách là những ghi chép cá nhân,
trong nhật ký người viết có thể tự do trình bày suy nghĩ, quan điểm, tình cảm
và thái độ của mình trước một sự thật” [6, tr.11]. Do bị chi phối bởi tính cá
nhân riêng tư này mà nhật ký cá nhân thường không được công bố mà được
giữ kín với những lời tâm sự, những suy ngẫm “sống để bụng, chết mang
theo” của cá nhân người viết mà người khác không có quyền xâm phạm đến
những bí mật riêng tư của họ. Khi viết nhật ký, Nguyễn Văn Thạc tâm sự
ngay trong chính những trang nhật ký của anh: “Mình đã đọc nhật ký của
nhiều người. Mình cảm thấy rằng nếu như người viết nhật ký là viết cho mình,
cho riêng mình đọc thì cuốn nhật ký đó sẽ là chân thực nhất, sẽ bộn bề và sầm
uất nhất. Người ta sẽ mạnh dạn ghi cả vào đấy những suy nghĩ tồi tệ nhất mà
họ đang có trong đầu mình. Nhưng nếu nhật ký mà có thể có người xem nữa


thì nó sẽ khác và khác rất nhiều. Họ không dám nói thật, nói đúng bản chất
sự kiện xảy ra trong ngày, không dám nói hết và đúng suy nghĩ đã nảy nở
trong lòng họ. Mà đó chính là điều tối kỵ khi viết nhật ký. Nó sẽ dạy cho
người viết tự lừa dối ngòi bút của mình, tự lừa dối lương tâm của mình” [15,
tr.226-227].
Tính chất cá nhân riêng tư là yếu tố tạo nên tính riêng biệt và độc đáo
của thể loại nhật ký và đây cũng là điểm khác biệt của thể loại nhật ký so với

các thể loại khác trong văn học, ở các thể loại khác tính chất cá nhân riêng tư
có thể tồn tại và nó tùy thuộc vào phong cách của mỗi tác giả, trong đó khi
viết tác giả luôn xác định rõ ràng mục đích sáng tác, đối tượng tiếp nhận và
thông thường nghệ sĩ sau khi hoàn thành sáng tác họ thường không giữ tác
phẩm cho riêng mình mà luôn hướng đến bạn đọc nhằm gửi đến bạn đọc
những thông điệp muốn truyền tải gửi gắm qua tác phẩm. Nam Cao viết
truyện ngắn Chí Phèo không phải cho bản thân ông, tác phẩm được viết ra
nhằm mục đích lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến lúc bấy giờ, đẩy người
nông dân lương thiện vào bước đường cùng mất cả nhân hình lẫn nhân tính,
nhà văn đã kết án đanh thép xã hội tàn bạo đó, đồng thời khẳng định bản chất
lương thiện của họ ngay trong khi họ bị vùi dập. Bởi vậy ngay sau khi hoàn
thành, truyện ngắn Chí Phèo đã được Nam Cao công bố trước đông đảo bạn
đọc.
Như vậy khác với các thể loại trong văn học, trong nhật ký người viết
viết cho chính mình với những bí mật của bản thân nên họ không có ý định sẽ
công bố hay xuất bản mà sẽ giữ làm của riêng, còn đối với thơ, truyện, hay
tiểu thuyết thì tác giả sau khi sáng tác sẽ không giữ tác phẩm cho riêng mình
mà thường hướng đến công chúng nhằm gửi gắm những thông điệp, tư tưởng
hay quan điểm sáng tác của mình với bạn đọc.


Tính cá nhân, riêng tư của thể loại nhật ký còn được thể hiện ở phong
cách của mỗi tác giả, nó mang phong cách riêng, dấu ấn cá nhân riêng của
người viết. Nét hay và độc đáo của mỗi cuốn nhật ký cũng phụ thuộc nhiều
vào đời sống nội tâm cũng như cảm xúc cá nhân của người viết. Tính riêng tư
của nhật ký chính là lời tâm sự thầm kín của cá nhân người viết với chính bản
thân mình, do đó chỉ có người trong cuộc mới biết được nội dung trong cuốn
nhật ký đó viết về vấn đề gì nếu như không được công bố. Qua những cuốn
nhật ký, ta sẽ ít nhiều hiểu được đời sống nội tâm của người viết. Trong nhật
ký tính cá nhân riêng tư còn được thể hiện bằng những kí hiệu khác biệt và

chỉ có người viết mới có thể hiểu nếu không có sự chú giải của tác giả thì
không ai có thể hiểu được. Đây là điểm khác biệt của thể loại nhật ký với các
thể loại khác và chính vì đặc trưng này mà nó tạo nên sức hấp dẫn của thể loại
nhật ký.
1.2.2.3. Tính chất biên niên của thể loại nhật ký
Tính chất biên niên cũng là một đặc trưng không thể thiếu trong nhật ký,
người viết nhật ký thường ghi theo thời gian tuyến tính với một trình tự nhất
định về ngày tháng năm và bao giờ cũng được ghi rất rõ: ngày… tháng…
năm… (bằng số). Người viết nhật ký bao giờ cũng tôn trọng tính biên niên
của sự việc được ghi “31.12.1964, Dạy lúc 3g30 sáng đi bấm đèn pin. Giăng
võng ngủ trưa dưới rừng tre. Sang năm mới, H. nhớ XL nhiều. Không biết em
đang làm gì” [17, tr.27], “27.8.1968, Đi Vĩnh Nam, Nắng, khát nước và đói.
Ghé vào một nhà bên cạnh đường nghỉ ngơi. Hai ông bà già và một em bé tàn
tật đang ngồi ở sân niềm nở tiếp mình… [8, tr.130], “24,25.4.1955 Diễn tại
Gò Trạm, tấn công vụ vi phạm hiệp định của đối phương, cho máy bay rải
truyền đơn” [2, tr.23]. Sự việc hay sự kiện được ghi lại trong nhật ký được
sắp xếp theo đúng trình tự về thời gian không có sự đảo ngược, những sự việc
hay sự kiện đó là do người viết lần lượt được chứng kiến hay tham gia. Theo


Giáo sư Trần Đình Sử: “Nhật ký ghi chép sự việc, suy nghĩ, cảm xúc theo
ngày tháng, có thể liên tục nhưng cũng có thể ngắt quãng” [16, tr.379], họ có
thể viết theo đúng thứ tự của từng ngày nhưng cũng có thể bị ngắt quãng do
những bộn bề của công việc hay không có thời gian ghi chép, điều đó có
nghĩa là thứ tự ngày tháng vẫn theo đúng thứ tự liên tục như 1, 2, 3, 4…
nhưng cũng có thể ngắt quãng nhưng vẫn phải tuân theo thứ tự trước sau 1, 2,
5, 6, 7… Ta có thể thấy rõ điều này trong nhiều cuốn nhật ký. Ví dụ Nhật ký
thanh niên xung phong “10.5.1966”, “11.5.1966”, 12.5.1966”, “13.5.1966”,
“17.5.1966” [13, tr.82 – 83], hay trong cuốn Nhật ký Dọc đường lưu diễn tuy
cũng bị ngắt quãng nhưng vẫn theo một thứ tự nhất định “18.3.1955, có thể

quyết nghị cho đồng chí Thới đi nước ngoài. Mình cũng muốn đi: Thứ nhất,
đó là một dịp đi học vì có lẽ mình không còn dịp đi học nữa. Thứ hai lúc này
đi cũng giúp cho mình một phần nhẹ nhàng về tình cảm …”, “22.3.1955, Hai
ngày nay Đoàn Văn công Nam bộ được lịch chuẩn bị lên đường phục vụ khu
tập kết liên khu 5…” [2, tr.12] Sự ngắt quãng này xuất hiện tương đối nhiều
trong các cuốn nhật ký thời chiến. Đây là điều khác biệt của những cuốn nhật
ký chiến tranh so với những cuốn nhật ký thông thường khác.
Trong nhiều cuốn nhật ký, ngoài ngày… tháng… năm người viết còn ghi
chi tiết cả nơi viết, giờ viết nhật ký. Trong cuốn Nhật ký tài hoa ra trận “ngày
5 tháng 3 năm 1968, Bị thương lần đầu tại Cam Lộ, Quảng Trị lúc 16h tại
xóm Đại Độ, xã Cam Giang, huyện Cam Lộ” [8, tr.83], “12.1.1965, đi lúc
3g30 sáng. Qua một vùng cao nguyên bằng phẳng có thông đẹp. Đường đất
đỏ. Nghe chim kêu vượn hú…”[17, tr.31].Việc ghi chép cẩn thận như vậy cho
thấy người ghi nhật ký rất coi trọng công việc ghi chép của mình đồng thời
làm cho nhật ký có tính trung thực cao, đảm bảo tính chính xác về sự kiện mà
mình ghi lại trong nhật ký.


×