HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC IV
BÀI THU HOẠCH
MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
BẢN CHẤT DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ VIỆC ĐỔI MỚI HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ, THỂ HIỆN DÂN CHỦ HÓA ĐỜI SỐNG Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
.
Cần Thơ 2018
LỜI NÓI ĐẦU
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta
luôn hướng tới, quyết tâm biến nó thành hiện thực. Đại hội XI của Đảng đã
khẳng định mục tiêu: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một
xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ...”. Trong đó có hai điểm mới quan trọng được bổ sung và phát triển so với
Nghị quyết Đại hội X của Đảng: Một là, đưa cụm từ dân chủ lên trước cụm
từ công bằng, văn minh. Điều đó cho thấy Đảng ta đã xác định rõ vị trí của dân
chủ và thực hành dân chủ trong quá trình phát triển xã hội. Để có xã hội dân
giàu, nước mạnh, trước hết phải bảo đảm trong xã hội có nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và phải thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa một cách thực chất, vì đó là
điều kiện tiên quyết, là cơ sở thiết yếu để xây dựng xã hội công bằng, văn
minh. Hai là, khẳng định đặc trưng quan trọng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do nhân dân làm chủ, thể hiện rõ bản chất
của chế độ xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Trong văn kiện Đại hội XII, sự nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa của việc phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được thể hiện ở chỗ, Đảng ta bổ sung
thêm cụm từ “dân chủ xã hội chủ nghĩa” vào tiêu đề Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội XII của Đảng.
NỘI DUNG
I. BẢN CHẤT, ĐẶC TRƯNG CỦA DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa
Vấn đề hệ thống chính trị và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một
trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trong lịch sử các cuộc cách mạng thì cách mạng xã hội chủ nghĩa là
cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhất. Cuộc cách mạng đó chỉ đạt
được thành tựu mong đợi khi mà cuộc cách mạng đó là kết quả hoạt động
sáng tạo của toàn thể nhân dân dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mácxít lêninnít, đồng thời kết quả đó phải thuộc về nhân dân. Một chế độ mới được
xác lập là chế độ nhân dân lao động làm chủ – đó là chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa hay gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta khẳng định: “dân chủ là quy luật hình thành, phát triển và tự
hoàn thiện của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nó vừa là một mục tiêu,
vừa là một động lực của công cuộc đổi mới xã hội ta”.
Vậy bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là gì? Và việc đổi mới hệ
thống chính trị, thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội ở nước ta hiện nay?.
2
Trước hết, ta tìm hiểu khái niệm về dân chủ và quá trình hình thành,
phát triển của dân chủ.
Dân chủ là một phạm trù chính trị, là sản phẩm của mối quan hệ giai
cấp, là một trong những hình thức tổ chức, bộ máy Nhà nước của xã hội, thực
thi quyền lực của giai cấp thống trị.
2. Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trước hết là thừa nhận nguyên tắc: thiểu số phục tùng đa số. Đây là
đặc trưng có tính nguyên tắc của nền dân chủ. Ngay từ khi xã hội có phân
chia giai cấp thì hình thức này đã xuất hiện. Khi Nhà nước ra đời nó trở thành
một nguyên tắc. Tuy nhiên không phải lúc nào số nhiều cũng đúng và số ít
cũng sai. Khi thực hiện nguyên tắc này, cần lưu ý việc lợi dụng đa số, lợi
dụng tập thể để mưu đồ cá nhân. Từ nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số dẫn
đến nguyên tắc cấp dưới phục tùng cấp trên; địa phương phục tùng trung
ương; cá nhân phục tùng tổ chức.
Đặc trưng thứ hai là: thừa nhận quyền bình đẳng giửa các công dân.
Sự bình đẳng ấy được thể hiện bằng sự bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi
trước pháp luật, không phân biệt giàu nghèo, chức vụ, dân tộc, tôn giáo khác
nhau hoặc người không có tôn giáo với người có tôn giáo, không phân biệt
giới tính...
Đặc trưng thứ 3 là: thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực.
Trong lịch sử xã hội loài người, khái niệm dân chủ đã xuất hiện từ thời
chiếm hữu nô lệ mà đại biểu là Nhà nước La Mã và Nhà nước Hy Lạp. Dân
chủ lúc này thuộc về giai cấp chủ nô, dân tự do và tầng lớp hiệp sĩ.
Trong chế độ phong kiến, tư tưởng dân chủ và biểu hiện của dân chủ
thì có xuất hiện, nhưng là các Nhà nước chuyên chế nên Nhà nước phong kiến
không có ban hành chế độ dân chủ, mà thi hành chính sách bóc lột bằng thế
quyền và thần quyền.
Cuộc cách mạng dân chủ tư sản với khẩu hiệu "tự do, bình đẳng, bác
ái" là ngọn cờ tập hợp nhân dân lao động lật đổ chế độ phong kiến thống trị,
xây dựng nền dân chủ tư sản. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, quyền
công dân, quyền con người được ghi vào pháp luật. Tuy nhiên bản chất dân
chủ tư sản vẫn là thiểu số bóc lột đa số.
Sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền bằng cuộc cách
mạng vô sản, cùng với việc xây dựng xã hội mới, giai cấp công nhân còn xây
dựng chế độ dân chủ mới, đó là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa ra đời như là kết quả tất yếu của lịch sử đấu tranh lâu dài của nhân
dân lao động vì sự nghiệp giải phóng toàn thể nhân dân lao động. Lần đầu tiên
trong lịch sử, nền dân chủ cho đại đa số nhân dân lao động đã được hình thành.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời là sự thay đổi về chất của dân chủ, là một sự
3
phát triển thay thế dân chủ tư sản hợp với quy luật. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
ngày càng đầy đủ, hoàn thiện, thì nó cũng là quá trình tự tiêu vong.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mà trong đó mọi quyền lực
thuộc về nhân dân, trước hết là nhân dân lao động: xã hội được quản lý bởi
nhân dân và vì nhân dân thông qua Nhà nước xã hội chủ nghĩa do chính nhân
dân lập ra; mọi người đều được bảo đảm trên thực tế quyền tự do, bình đẳng
và các quyền cơ bản khác.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, thực
thi đường lối dân chủ của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời lại mang tính
nhân dân sâu sắc và rộng lớn. Tính giai cấp và tính nhân dân trong dân chủ xã
hội chủ nghĩa là thống nhất vì xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là xoá bóc lột, giải phóng con người; lợi ích cơ bản và lâu dài của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động là thống nhất với nhau, do quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa biểu hiện trước hết ở chổ lần đầu
tiên trong lịch sử, dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ cho đại bộ phận nhân
dân, dân chủ của dân, do dân và vì dân. Nhân dân lao động làm chủ trên tất cả
lĩnh vực đời sống xã hội, làm chủ về kinh tế chính trị, văn hoá và xã hội.
Quyền làm chủ của nhân dân được biểu hiện và bảo đảm bằng pháp
luật, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trên cơ sở luật pháp. dân
chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện cùng với quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
Biểu hiện thứ hai của dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ xã hội chủ
nghĩa có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dân chủ có trật tự, kỷ cương, dân
chủ đi liền với chuyên chính. Dân chủ đối với nhân dân lao động và chuyên
chính với mọi hành vi vi phạm lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc và của chế
độ. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là biểu hiện một cách rỏ ràng nhất, sâu
sắc nhất bản chất giai cấp của dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Biểu hiện thứ ba là dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự bảo đảm quyền bình
đẳng giửa các công dân. Sự bảo đảm ấy không chỉ trên văn bản luật pháp mà còn
được thực thi đầy đủ trong cuộc sống. Dân chủ xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện cho
công dân tham gia ngày càng đông đảo vào công việc quản lý Nhà nước.
Biểu hiện thứ tư là dân chủ xã hội chủ nghĩa không thừa nhận đa nguyên
chính trị và đa đảng đối lập. Không có đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là
tiêu chí, là đỉnh cao của dân chủ. Thực chất của đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập là biểu hiện sự so sánh tương quan lực lượng trong mối quan hệ giửa các giai
cấp trong xã hội. Còn dân chủ nhiều hay ít, tiến bộ hay không tiến bộ phụ thuộc
vào việc quyền lợi và lợi ích có thuộc về nhân dân hay không.
Nền dân chủ nàu cũng được thực hiện thông qua một thiết chế tổ chức và
cơ chế vận hành nhất định. Đó là hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị là một
4
phạm trù dùng để chỉ một chính thể các đảng phái, các đoàn thể các tổ chức
chính trị - xã hội nhằm và phát triển xã hội đó. Là một cơ chế bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Hệ thống
chính trị trong chủ nghĩa xã hội là tổng hợp các tổ chức: Nhà nước xã hội chủ
nghĩa và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân mà thông qua đó dưới sự
lãnh đạo của chính đảng Mácxít - lêninnít nhân dân thực hiện được quyền lực
của mình trong việc quản lý sự phát triển kinh tế - xã hội nhằm xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội. Hệ thống chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa gồm ba bộ
phận cấu thành: Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, các tổ chức chính
trị - xã hội của nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhưng hiện nay còn ở trình độ thấp về cả nhu cầu và nếp sống dân chủ, về
tính phong phú và tính nguyên tắc của dân chủ, về năng lực thực hiện dân chủ.
Cơ chế vận hành thực hiện dân chủ ở nước ta chưa đồng bộ và hoàn thiện cả về
tổ chức, bộ máy và năng lực vận hành. Song trong quá trình thực hiện đường lối
đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu bước đầu đáng kể trong thực
hiện dân chủ. Đại hội VII của Đảng đã đánh giá: "một trong những thành tựu
của công cuộc đổi mới là bước đầu thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các
lĩnh vực đời sống xã hội... ". Tuy nhiên Đại hội VII cũng đã chỉ rỏ hạn chế,
khuyết điểm trên lĩnh vực nà còn nhiều: "quyền làm chủ của nhân dân chưa
được tôn trọng và phát huy đầy đủ. Trong xã hội còn không ít hiện tượng mất
dân chủ, dân chủ hình thức, có nơi rất nghiêm trọng. Bệnh quan liêu, tư tưởng
phong kiến, gia trưởng còn nặng. Đòng thời cũng xuất hiện khuynh hướng dân
chủ cực đoan, dân chủ không đi liền với thực hiện kỷ luật và pháp luật. Cơ chế
và pháp luật bảo đảm thực hiện dân chủ chưa được cụ thể hóa đầy đủ". Tình
trạng ấy đòi hỏi phải có sự đổi mới hệ thống chính trị, dân chủ hoá đời sống xã
hội, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu trong quá trình đổi
mới kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
Đề cập mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta, cương lĩnh chính
trị xây dựng đất nước (1991) của Đảng chỉ rõ: "thực chất của đổi mới hệ thống
chính trị là xây dựng và từng bước hoàn thiện nèn dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân. "
II. NỘI DUNG ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ DÂN CHỦ
HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Nội dung đổi mới hệ thống chính trị và dân chủ hoá ở nước ta hiện nay
thể hiện ở những vấn đề căn bản sau:
Thứ nhất: Thực hiện dân chủ hoá trong xã hội, dân chủ hóa ngay trong
hệ thống chính trị để tạo ra mối quan hệ biện chứng giửa dân chủ hoá với việc
xây dựng và kiện toàn hệ thống chính trị. trước hết Đảng phải tự đổi mới chỉnh
đốn để nâng cao năng lực của mình. Phải được xây dựng vững mạnh về cả ba
mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức.
5
Văn kiện Đại hội IX của Đảng xác định: "Trong những năm tới, toàn
Đảng tiếp tục thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là nghị quyết
Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII... " (VKĐ lần IX, trang 139).
Tập trung làm tốt những công tác quan trọng sau đây: Một là tăng cường công
tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân. Hai là tiếp tục đổi mới công tác cán bộ. Ba là xây dựng củng cố các tổ chức cơ
sở Đảng. Bốn là kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Nhà nước được nhân dân giao cho quyền lực và trách nhiệm quản lý mọi
mặt đời sống xã hội, nên mọi chủ trương chính sách, kế hoạch của Nhà nước là
thể hiện ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Để đẩy mạnh cải cách tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước cần thực hiện những việc sau đây: một
là phải gắn liền với xây dựng chỉnh đốn Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước. Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức
Đảng và đảng viên trong các cơ quan Nhà nước; Hai là cải cách thể chế và
phương thức hoạt động của Nhà nước, của Quốc hội, của Chính phủ, của các cơ
quan Tư pháp; Ba là phát huy dân chủ, giử vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường
pháp chế; Bốn là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch có năng lực;
Năm là tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Các tổ chức chính trị - xã hội của quần chúng phải được tổ chức trên cơ
sở pháp luật và phù hợp với trình độ của các thành viên, thực hiện dân chủ hoá
trong hoạt động, lấy việc bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên làm
nhiệm vụ chủ yếu.
Nội dung thứ hai là xây dựng Nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng
pháp luật, nhằm từng bước tạo ra xã hội công dân xã hội chủ nghĩa và người công
dân xã hội chủ nghĩa, coi đó là nhiệm vụ quan trọng có tính cấp bách hiện nay.
Dân chủ đời sống xã hội là quá trình đưa các giá trị dân chủ vào cuộc
sống, làm cho nó trở thành hiện thực và phổ biến trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Thực chất của vấn đề dân chủ hóa đời sống xã hội là làm cho nhân
dân thực hiện được trên thực tế quyền làm chủ và phát huy đự năng lực làm chủ
của mình trên mọi bình diện của đời sống xã hội. Dân chủ hoá đời sống xã hội ở
nước ta có nội dung toàn diện, trong đó dân chủ hoá lĩnh vực kinh tế quan trọng
và mang tính quyết định. Dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế là thực hiện tự do
bình đẳng về kinh tế, là trả lại cho nền kinh tế tính năng động vốn có của nó,
giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khẳng
định quyền sản xuất kinh doanh của các cá nhân và tập thể phù hợp với các
quyết định của pháp luật và lợi ích chung của xã hội.
Dân chủ hoá trong lĩnh vực chính trị là thực hiện những quyền tự do, dân
chủ trong sinh hoạt chính trị, bảo đảm cho người dân được làm chủ xã hội về
chính trị. Trước hết là dân chủ trong bầu cử, thực hiện dân chủ đại diện tốt nhất
qua bầu cử và tăng cường dân chủ trực tiếp của nhân dân trong các tổ chức xã
hội, đoàn thể... Bảo đảm cho nhân dân được tham gia thực sự vào công việc
6
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội theo phương châm: "Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra".
Dân chủ hoá trong lĩnh vực kinh tế và chính trị vừa đặt ra đòi hỏi, vừa là
điều kiện của dân chủ hóa trong lĩnh vực tinh thần cho tương ứng. Nó bao hàm
các hoạt động giáo dục, tuyên truyền, nghiên cứu khoa học, các hoạt động văn
hoá nghệ thuật, các lĩnh vực thông tin, báo chí, xuất bản.
IV. KẾT QUẢ THỰC HÀNH, PHÁT HUY DÂN CHỦ TRONG
NHỮNG NĂM QUA
1. Thành tựu thực hành, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XII của Đảng nhận định: qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội
XI của Đảng dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối
của Đảng mà còn được thể chế hóa và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp và
hệ thống pháp luật của Nhà nước. Trên phương diện xây dựng, hoàn thiện thể chế,
chính sách, pháp luật về thực hiện dân chủ, Đại hội XII đánh giá: “Đảng và Nhà
nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong
Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi.
Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội”. Minh
chứng sống động cho đánh giá trên của Đảng là những nguyên tắc hiến định về
thực hành, phát huy dân chủ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, như: “1.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân...” (Điều 2); “Nhà
nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo
vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3)... Quyền dân chủ của nhân
dân còn được ghi nhận tại Chương II Hiến pháp năm 2013 (quy định về quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) cũng như trong nhiều văn bản quy
phạm pháp luật khác.
Từ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
thực hành, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đến việc hiện thực hóa chúng trong
thực tế xã hội phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của nhân dân về các quyền dân chủ
của mình. Chẳng hạn, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định
và bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền được biết các nội dung liên quan đến đời
sống kinh tế - xã hội của mình ở cơ sở, quyền được bàn và quyết định, quyền được
7
tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và quyền được giám
sát. Trong những năm qua, nhân dân ở cơ sở đã thực hiện, phát huy tốt các quyền đó,
bởi họ có nhận thức khá đầy đủ về những quyền dân chủ. Đó cũng là cơ sở thực tiễn
để Đảng ta nhận định: “Ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ,
tham gia quản lý xã hội của nhân dân, ý thức về dân chủ trong xã hội được nâng lên.
Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn có tiến bộ”.
Việc thực hành dân chủ đã và đang tạo động lực thúc đẩy, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra,
giám sát các hoạt động của Nhà nước nói chung, của các cấp chính quyền nói
riêng; khắc phục tệ nạn quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, xa rời quần chúng
nhân dân của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước; đóng góp tích cực vào
việc cải cách hành chính; góp phần xây dựng bộ máy chính quyền các cấp trong
sạch, vững mạnh; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân;
đóng góp tích cực vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.
Đại hội XII của Đảng đánh giá: Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt
hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền
đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng các loại ý
kiến khác nhau.
2. Hạn chế, yếu kém
Bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, Đại hội XII của Đảng cũng
thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong thực hành, phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm qua: Nhận thức về dân chủ trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Tình trạng tách rời, thậm
chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi. “Quyền
làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có
nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng
lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.
V. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP PHÁT HUY DÂN
CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Về phương hướng.
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đại hội XII của Đảng đã khẳng
định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng
của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy
đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân
dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan
đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh
8
luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp
luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”.
2. Về các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể.
Thứ nhất, “Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện
dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện”. Dân chủ trực tiếp là hình thức mọi công
dân trực tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình một cách bình đẳng, không
phân biệt giới tính, lứa tuổi, thành phần xuất thân, địa vị xã hội... Đây là hình
thức hữu hiệu tạo cho nhân dân, với tính cách là chủ thể tối cao và duy nhất của
quyền lực nhà nước, khả năng tham gia một cách tích cực và chủ động vào các
hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đại
hội XII của Đảng khẳng định: Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phải luôn đặt
trong mối liên hệ và gắn liền với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với
trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội.
Thứ hai, “Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”. Muốn để “dân biết”, điều cốt yếu đầu tiên là phải cung
cấp thông tin cho nhân dân; việc cung cấp thông tin phải chân thực, kịp thời và
công khai. Có công khai thì mới có dân chủ, vì công khai là một trong những
điều kiện tiên quyết để thực hành dân chủ. Bản chất của Nhà nước ta là nhà
nước dân chủ, nên công khai là một đòi hỏi tất yếu, khách quan, là một biểu hiện
quan trọng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
“Dân bàn” là xu hướng tất yếu sau khi nhân dân đã được cung cấp thông
tin đầy đủ, công khai. Với tinh thần “lấy dân làm gốc”, các cơ quan nhà nước và
chính quyền các cấp phải biết lắng nghe các ý kiến của quần chúng nhân dân,
nắm bắt dư luận xã hội trong nhân dân một cách nghiêm túc, phân tích nội dung
các ý kiến của nhân dân một cách khoa học để nắm bắt chính xác, kịp thời tâm
trạng, tình cảm, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.
“Dân làm” cần được hiểu chủ yếu theo nghĩa “Dân làm” là hiện thân của
sự chuyển hóa từ “tư tưởng đã thông suốt” thành những hành động, việc làm cụ
thể của nhân dân. Từ chỗ được cung cấp thông tin một cách công khai, trung
thực, kịp thời, thông qua bàn bạc, trao đổi ý kiến để tìm ra tiếng nói chung,
người dân sẽ tự giác tuân thủ, thực hành các quyền dân chủ theo quy định của
pháp luật. Bên cạnh đó, phải thực hiện tốt cơ chế “dân kiểm tra” đòi hỏi Nhà
nước phải tiếp tục xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách phù hợp để nhân
dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát đối với các mặt hoạt động của chính
quyền cấp xã ở tất cả các địa phương, của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo
quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã; chất vấn những cán bộ,
công chức có thẩm quyền về những vấn đề người dân quan tâm và quyền nghe
trả lời những chất vấn đó, đặc biệt là những vấn đề về đất đai, xây dựng, quy
hoạch và quản lý đô thị, nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng,...
9
Thứ ba, “Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát
huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội”.
Thứ tư, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đi liền với việc đề
cao trách nhiệm công dân và bảo đảm giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội, không
được tách rời, đối lập giữa thực hành dân chủ và kỷ cương, pháp luật. Nhân dân
không nên tụ tập đông người, khiếu kiện vượt cấp, gây mất an ninh, trật tự và
chống đối người thi hành công vụ trong khi các kiến nghị đang được xem xét,
giải quyết theo quy định của pháp luật.
KẾT LUẬN
Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Phát huy dân chủ phải đi liền với
tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương
và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ
hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và
quyền làm chủ của nhân dân”. Điều đó khẳng định bản chất dân chủ thực sự của
Nhà nước ta./.
10