Tiểu luận: Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại đối với các
tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được quy định như thế nào
trong BLHS 2015? Tại sao lại quy định như vậy?
MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, từ lâu trách nhiệm pháp lý của pháp nhân đã được quy định
trong lĩnh vực pháp luật dân sự, kinh tế và hành chính. Tuy nhiên trong lĩnh vực
hình sự, cả hai lần pháp điển hóa với việc ban hành BLHS năm 1985 và năm
1999, và nhất là khi soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm
1999 (Luật này đã được thông qua và có hiệu lực ngày 01/01/2010) nhà làm luật
vẫn chỉ chung thủy với nguyên tắc truyền thống – nguyên tắc TNHS của cá
nhân, mặc dù mỗi khi tiến hành pháp điển hóa hoặc sửa đổi, bổ sung BLHS, vấn
đề TNHS của pháp nhân đều được đưa ra thảo luận nhưng sau đó nhà làm luật
vẫn quyết định để lại để tiếp tục nghiên cứu.
Trước những đòi hỏi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước nói chung
và của tiến trình cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết
số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra, việc nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt
khoa học những vấn đề lý luận cơ bản về TNHS nói chung và TNHS của pháp
nhân nói riêng không chỉ có ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý, mà còn có ý
nghĩa khoa học thực tiễn quan trọng. Nó thiết thực góp phần tiếp tục hoàn thiện
BLHS, đảm bảo việc xử lý về hình sự triệt để hơn, công bằng hơn, hiệu quả hơn,
đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm của Nhà nước ta.
Trong quá trình pháp điển hóa BLHS năm 2015 vừa qua, có hai luồng quan
điểm trái chiều về TNHS của pháp nhân. Một hướng là ủng hộ việc ghi nhận
TNHS của pháp nhân trong BLHS 2015 và hướng còn lại là phản đối kịch liệt
việc ghi nhận TNHS của pháp nhân trong BLHS 2015. Nhưng với sự chứng
minh thực tiễn cùng những công trình nghiên cứu khoa học đậm chất lý luận,
các chuyên gia nghiên cứu Luật hình sự Việt Nam nói chung và các Thầy đầu
ngành trong lĩnh vực giảng dạy, nghiên cứu bộ môn Luật Hình sự của Khoa Luật
– Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng đã thuyết phục được nhà làm luật Việt
Nam, lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự
nước ta, BLHS và BLTTHS năm 2015 đã ban hành những quy định về TNHS
của pháp nhân. Tuy nhiên những quy định về TNHS của pháp nhân trong BLHS
2015 chỉ áp dụng đối với pháp nhân thương mại và trong một phạm vi nhất định,
theo một nhận xét hài hước và cũng rất sát với tình hình pháp luật của nước ta
hiện nay, PGS.TS.Trịnh Quốc Toản cho rằng: “việc đưa được một “chân” về
TNHS của pháp nhân vào trong BLHS 2015 đã là một thành công lớn rồi, còn
việc hoàn thiện và phát triển những quy định này cần cả một quá trình lâu dài”.
Thực tế, tình hình vi phạm pháp luật do pháp nhân thực hiện diễn ra phức
tạp và ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là các hành vi gây ô nhiễm môi trường,
buôn lậu, trốn thuế, sản xuất, vận chuyển, buôn bán hàng giả, hàng cấm, sản
xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm, trốn đóng
bảo hiểm cho người lao động, các hành vi vi phạm trong lĩnh vực tài chính, ngân
hàng. Trong khi đó, để xử lý các hành vi này chỉ có xử phạt vi phạm hành chính
cao nhất là đến 2 tỷ VNĐ. Như vậy, với hình thức xử phạt này chưa tương xứng
với những thiệt hại do pháp nhân gây ra. Hơn nữa muốn được bồi thường thì
việc chứng minh thiệt hại là rất khó khăn.
Việc quy định TNHS của pháp nhân thương mại trong BLHS2015 nhằm
phát huy hơn nữa vai trò của Bộ luật với tư cách là công cụ pháp lý sắc bén, hữu
hiệu trong đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh
của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa phát triển
đúng hướng, đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả, bảo đảm trật tự, an toàn
xã hội, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh, cho
mọi người dân đồng thời đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế của đất
nước.Quy định TNHS đối với pháp nhân chính là việc “nội luật hóa” các Công
ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên.Hiện nay trên thế giới có 120 nước quy
định TNHS đối với pháp nhân. Việc nước ta quy định TNHS đối với pháp nhân
là tạo ra sự bình đẳng giữa doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài đầu tư với
doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam đầu tư.
Trong phạm vi bài tiểu luận, em xin đi sâu vào trình bày những quy định về
TNHS của pháp nhân thương mại đối với các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế trong BLHS năm 2015 và lý giải một số lý do vì sao các nhà làm luật
Việt Nam lại quy định như vậy.
NỘI DUNG
Để làm rõ những quy định mới hoàn toàn trong BLHS năm 2015 về TNHS
đối với pháp nhân thương mại nói chung và TNHS của pháp nhân xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế nói riêng, trước hết chúng ta cần hiểu rõ về khái niệm của
TNHS đối với pháp nhân, theo đó:
TNHS là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi
về hành vi phạm tội của mình, bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt
động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp tư pháp và mang án tích.
TNHS của pháp nhân không vượt ra khỏi nội hàm của khái niệm TNHS, chỉ
khác ở điểm, thay vì trước đây TNHS chỉ áp dụng cho cá nhân người phạm tội
thì nay có thể áp dụng cho pháp nhân. Như vậy, TNHS của pháp nhân trong
khoa học pháp luật hình sự có thể hiểu là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội
phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân do Luật
hình sự quy định.
Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 quy định khái niệm tội phạm, trong đó bổ
sung chủ thể là pháp nhân thương mại, theo đó khi pháp nhân thương mại thực
hiện hành vi bị coi là tội phạm, xâm hại đến các giá trị quan hệ xã hội được Luật
hình sự bảo vệ thì pháp nhân sẽ phải chịu TNHS – hậu quả pháp lý bất lợi, được
biểu hiện cụ thể ở những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước
áp dụng, tước bỏ hoặc hạn chế các quyền và lợi ích của pháp nhân mà không bị
bất kì sự cản trở nào. Pháp nhân phải tự mình gánh chịu TNHS, không thể ủy
thác hoặc chuyển cho một pháp nhân khác như cơ quan quản lý cấp trên hay cho
một pháp nhân con chịu thay được.
TNHS của pháp nhân sẽ được áp dụng thông qua môt trình tự thủ tục chặt
chẽ do Pháp luật quy định để đảm bảo tính khách quan, trung thực trong hoạt
động tố tụng. TNHS của pháp nhân cũng phải được thể hiện rõ ràng trong bản
án hay quyết định của Tòa án và một pháp nhân cũng chỉ bị coi là có tội khi bị
kết án bằng bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Bản án là cơ sở pháp lý
khẳng định một pháp nhân có tội hay không , quy định các hình thức TNHS mà
pháp nhân phạm tội phải gánh chịu. Bản án hay quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật sẽ được đưa ra để thi hành và có hiệu lực bắt buộc đối với các
cơ quan Nhà nước cũng như cá nhân. Như vậy, TNHS đối với pháp nhân sẽ
được bảo đảm thi hành trên thực tế.
Đáp ứng nhu cầu thực tiễn, những hành vi vi phạm pháp luật diễn biến
ngày càng phức tạp, tinh vi của pháp nhân nói chung và pháp nhân thương mại
nói riêng trong bối cảnh nước ta đang trên đà hội nhập mạnh mẽ về nhiều lĩnh
vực, mà chủ yếu là kinh tế. BLHS năm 2015 đã quy định TNHS đối với pháp
nhân thương mại xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế ở chương XVIII. Theo đó
định nghĩa về pháp nhân thương mại được ghi nhận tại Điều 75 BLDS năm 2015
quy định như sau:
1, Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi
nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.
2, Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế
khác.
3, Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực
hiện theo quy định của BLDS năm 2015, Luật doanh nghiệp và quy định khác
của pháp luật có liên quan.
Không phải mọi pháp nhân đều là chủ thể của tội phạm mà chỉ có pháp
nhân thương mại mới là chủ thể của tội phạm và được quy định trong BLHS
năm 2015.Mặt khác những pháp nhân thương mại chỉ phải chịu TNHS về những
tội được quy định tại Điều 76 của BLHS năm 2015.
Tìm hiểu về TNHS của pháp nhân thương mại đối với các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế trong BLHS năm 2015 trước hết cần phải có cái nhìn khái
quát về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Thứ nhất về khái niệm
Nếu chương XVI BLHS năm 1999 quy định các tội xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế là hành vi nguy hiểm cho xã hội , do người có năng lực TNHS thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm hại trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước đối
với hoạt động sản xuất kinh doanh, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi
ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân, thì dến chương XVII BLHS năm 2015 quy
định các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, do người có năng lực TNHS hoặc do pháp nhân thương mại thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý xâm hại trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp
pháp của tổ chức và cá nhân. Thể hiện đúng theo tinh thần của BLHS năm 2015
thì pháp nhân thương mại là chủ thể của một số tội phạm thuộc chương XVIII
các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Thứ hai về điều kiện truy cứu TNHS của pháp nhân(cơ sở truy cứu
TNHS)
Cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân (Điều 75):
Dựa trên dấu hiệu hành vi của cá nhân:
- Hành vi phạm tội đó thực hiện mang danh nghĩa của pháp nhân;
- Hành vi phạm tội mang lại lợi ích cho pháp nhân;
- Hành vi phạm tội thực hiện theo sự chỉ đạo hoặc chấp thuận của pháp
nhân;
- Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS.
Những quan điểm phản đối việc quy định TNHS của pháp nhân cho rằng
chỉ duy nhất là các các cá nhân mới có năng lực biểu lộ ý muốn của chính mình,
chỉ có cá nhân cụ thể thực hiện tội phạm mới phải cjiuj TNHS và rằng các pháp
nhân chỉ là những trừu tượng pháp lý, ngày nay đã không còn được chấp nhận,
không còn phù hợp với thực tế tồn tại của các pháp nhân với tư cách là “đại diện
cho các sức mạnh của thời đại” như Đại hội liên minh quốc tế về Luật hình sự ở
Bucarest năm 1928 đã nhận định1
Các học thuyết pháp lý và thực tiễn xét xử của Tòa án nhiều nước đã thoát
khỏi quan niệm trên và hình thành nên nhận thức mới về vị trí, vai trò của pháp
nhân trong xã hội cùng với việc từ bỏ quan niệm thuần túy là chỉ có cá nhân mới
phải chịu TNHS.
Pháp nhân không phải là một trừu tượng pháp lý thuần túy, ngược lại nó
chiếm hữu một đặc tính không đổi, có sự tồn tại thực tế của nó trong sự phân
biệt đối với các thành viên của pháp nhân.Về thực tế, pháp luật đã ghi nhận và tổ
chức nó trên phương diện pháp lý. Pháp nhân hưởng ý chí độc lập chứ không
phải chỉ là con số cộng các ý chí tâm lý của các cá nhân thành viên pháp nhân,
tập đoàn được pháp nhân hóa, nó có thể tự quyết định một cách tự do và theo
đuổi những mục tiêu cụ thể của mình và độc lập với những lợi ích của các cá
nhân tạo nên pháp nhân đó. Hay nói cách khác, các pháp nhân của cá nhân được
hình thành bởi những lợi ích chung thống nhất và được tổ chức thông qua các
cấu trúc pháp lý. Trong các pháp nhân, những định hướng chủ đạo thể hiện
những mục tiêu của chính mỗi tập thể được đưa ra không chỉ hoàn toàn giới hạn
bởi tổng số các ý chí riêng của các thành viên pháp nhân.Pháp nhân hoàn toàn
có ý chí của riêng mình, bởi vì nó sinh ra, sống và tồn tại bằng sự gặp gỡ với
những ý chí cá nhân của các thành viên của mình.
Pháp nhân không phải là một người “nhân” mà là một tổ chức – tập hợp
của nhiều người – được pháp luật trao cho tư cách của một người trong các quan
hệ pháp luật. Hoạt động của một người (cá nhân) có thể bị chi phối bởi lý do
tình cảm, lý trí, nhưng hoạt động của pháp nhân thì không, pháp nhân chỉ theo
đuổi những mục tiêu đặt ra trong văn kiện sáng lập ra nó.
Có thể nói ngắn gọn, pháp nhân không phải là một chủ thể giả tưởng mà là
“một thực thể xã hội độc lập, pháp nhân cũng sinh ra, cũng trưởng thành, cũng
tử như cá nhân, cũng hoạt động như cá nhân”.Pháp nhân có thể, với nhiều danh
nghĩa, “được so sánh với con người. Nó có bộ não, có hệ thần kinh trung ương
kiểm tra những gì nó làm . Nó cũng có tay để cầm công cụ và hành động theo
các mệnh lệnh của hệ thần kinh trung ương”. Như vậy, pháp nhân rõ ràng là một
thực thể có ý chí, có mong muốn riêng của mình, được xử sự tự do và hưởng
quyền tự chủ của cá nhân và vì vậy nó có năng lực thực hiện tội phạm một cách
có lỗi và đương nhiên có thể xử lý về hình sự. Vì thế, việc quy kết TNHS cho
pháp nhân là hoàn toàn không phải quy tội khách quan.
Một vấn đề đặt ra là pháp nhân không tự mình thực hiện tội phạm mà phải
qua trung gian các cá nhân, vậy làm thế nào để quy tội cho pháp nhân.
Nhìn chung, tuyệt đại đa số các học giả ủng hộ thiết lập TNHS của pháp
nhân trong luật hình sự đều nghiêng về học thuyết đồng nhất hóa sự mong muốn
1
Actes du Congres (1928).
của tập thể với ý muốn cá nhân. Xuất phát từ sự tương tự hình thức giữa pháp
nhân và cá nhân, những người ủng hộ học thuyết này quy kết sự biểu lộ các
quyết định của tập thể vào sự tồn tại một ý chí thống nhất trong cá nhân của
người đại diện, người lãnh đạo pháp nhân.Các pháp nhân có ý chí, ý thức, mong
muốn của riêng mình cùng với tư cách như một cá nhân. Khi những người này
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân thì ý chí và hành vi của họ được
đồng nhất hóa với pháp nhân, được coi như là ý chí và hành vi của pháp nhân2
Từ những tham khảo trên có thể nhận thấy cơ sở để truy cứu TNHS của
pháp nhân là hành vi của cá nhân, nhưng cá nhân đó thực hiện hành vi phạm tội
là nhân danh pháp nhân tức là có sự thống nhất ý chí của các thành viên pháp
nhân, vì vậy coi ý chí của người đại diện là ý chí của pháp nhân. Yếu tố lỗi của
pháp nhân ở đây đã biến hóa vào từng con người của pháp nhân đó.
Trên đây là điều kiện để truy cứu TNHS của pháp nhân thương mại nói
chung và là cơ sở để pháp nhân thương mại phải chịu TNHS khi thực hiện
những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế được
pháp luật hình sự bảo vệ nói riêng.
Tại khoản 2 Điều 75 BLHS quy định, việc pháp nhân thương mại chịu
trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân.Do vậy,
trong quá trình áp dụng, giải quyết vụ án hình sự về tội có quy định TNHS của
pháp nhân, trước hết, cần làm rõ các tình tiết, hành vi phạm tội và trách nhiệm
của cá nhân hoặc pháp nhân (nếu có), trường hợp pháp nhân ra quyết định hoặc
chỉ đạo cá nhân thực hiện hành vi phạm tội thì phải xử lý hình sự đồng thời cả cá
nhân và pháp nhân về tội phạm mà họ đã thực hiện. Trường hợp phát hiện tội
phạm xảy ra, mà ban đầu mới xác định được trách nhiệm của pháp nhân, thì
khởi tố vụ án, khởi tố pháp nhân phạm tội, sau đó tiếp tục điều tra, làm rõ để xử
lý hình sự cá nhân liên quan – người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, bảo
đảm việc xử lý TNHS đối với cá nhân, pháp nhân được toàn diện, triệt để, tránh
bỏ lọt tội phạm và cá nhân, pháp nhân phạm tội.
Thứ ba về phạm vi chịu TNHS của pháp nhân trong chương XVIII các
tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại là vấn đề mới được đặt
ra, Việt Nam chưa có kinh nghiệm thực tiễn về chế định này, do vậy việc xác
định các tội danh mà pháp nhân thương mại phải chịu TNHStrong BLHS 2015
đã thể hiện sự thận trọng, phù hợp, trên cơ sở đánh giátính chất, mức độ nguy
hiểm và phổ biến của những hành vi vi phạm xảy ratrong thực tiễn để quy định
trong BLHS nhằm xử lý hành vi phạm tội. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn
đấu tranh phòng, chống tội phạm, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm
quốc tế, trước mắt, xác định phạm vi các tội danh mà pháp nhân phạm tội phải
chịu TNHS chỉ thuộc các nhóm tội phạm kinh tế và tội phạm về môi trường, đây
2
Tr 229, 230, 231 Cuốn sách chuyên khảo: “TNHS của pháp nhân trong pháp luật hình sự”_TS. Trịnh Quốc
Toản_Nhà xuất bản chính trị quốc gia – sự thật.
là những tội danhmà pháp nhân thường hay vi phạm (tính phổ biến), có mức độ
nguy hiểm nhất định và dễ chứng minh trên thực tế. Trên tinh thần đó, Điều
76 của BLHS năm 2015 đã quy định 31 tội danh, trong đó, 22 tội thuộc Chương
XVIII. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và 09 tội thuộc Chương
XIX.Các tội phạm về môi trường, nếu phạm một trong các tội này, thì pháp nhân
phải chịu TNHS. Cụ thể:
Tại Chương XVIII. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, BLHS năm
2015 quy định 22 tội pháp nhân phải chịu TNHS, gồm các điều luật quy định tại
Khoản 1 Điều 76 BLHS năm 2015:“1. Điều 188 (tội buôn lậu); Điều 189 (tội
vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (tội sản xuất,
buôn bán hàng cấm); Điều 191 (tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm); Điều 192
(tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là
lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán
hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 195 (tội sản xuất, buôn
bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ
thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 196 (tội đầu cơ); Điều 200 (tội trốn
thuế); Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ); Điều
209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động
chứng khoán); Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng
khoán); Điều 211 (tội thao túng thị trường chứng khoán); Điều 213 (tội gian lận
trong kinh doanh bảo hiểm); Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động); Điều 217 (tội vi phạm quy định
về cạnh tranh); Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều
226 (tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227 (tội vi phạm các quy
định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232 (tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng); Điều 234 (Tội vi phạm quy định về quản
lý, bảo vệ động vật hoang dã);”
Nhìn chung, đây là những tội mà thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm
thời gian qua đã diễn ra rất phức tạp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội và thiệt hại đối với xã hội, với nhân dân do pháp nhân gây ra là rất
lớn. Đồng thời, phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ta là thành viên
(như Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Công ước TOC),
Công ước chống tham nhũng (Công ước UNCAC), Nghị định thư về phòng,
chống buôn bán người, các điều ước quốc tế về chống khủng bố và chống tài trợ
khủng bố), cũng như phù hợp với trình độ lập pháp của một số nước trên thế
giới có quy định TNHS đối với pháp nhân, theo đó đều quy định TNHS đối với
pháp nhân trong lĩnh vực kinh tế và môi trường. Đối với các nước khixem pháp
nhân là chủ thể tội phạm đều thừa nhận pháp nhân là chủ thể của tội phạm về
kinh tế, môi trường như Anh, Mỹ, Pháp, Hà Lan... Hơn nữa, đối với các hoạt
động sản xuất, kinh doanh... giá trị lợi nhuận được đặt lên hàng đầu, đây là
nguyên nhân của các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Cho nên các chế
tài về xử phạt hành chính, kinh tế là chưa đủ mạnh.Nước ta đã nội luật hoá một
số quy định quốc tế đối với kinh tế, các tội phạm xuyên quốc gia. Với 22 tội
danh mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự là tương đối bao quát, đủ để
xử lý các hành vi vi phạm nghiêm trọng của pháp nhân thương mại về trật tự
quản lý kinh tế trong thực tiễn hiện nay.
Thứ tư về các hình phạt và biện pháp tư pháp cụ thể áp dụng đối với
pháp nhân thương mại phạm các tội thuộc nhóm các tội phạm xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế.
Tại Chương VI – Hình phạt, so với BLHS năm 1999, thì BLHS năm 2015
sửa đổi, bổ sung quy định về khái niệm hình phạt theo hướng mở rộng chủ
thể, Điều 30 BLHS năm 2015 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án
quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm
tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương
mại đó”. Đồng thời, BLHS năm 2015 còn quy định mục đích của hình phạt đối
với pháp nhân thương mại ngoài việc trừng trị còn nhằm mục đích giáo dục, răn
đe, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phảm, bảo đảm an toàn
và sự phát triển của xã hội, qua đó góp phần đảm bảo sự công bằng trong xử lý
hình sự giữa cá nhân với pháp nhân thương mại theo đúng nguyên tắc “Mọi
hành vi phạm tội đều phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công
minh theo đúng pháp luật”.
Liên quan đến quan điểm cho rằng các pháp nhân về bản chất là những
thực thể vô hình nên không thể áp dụng hình phạt hình sự đối với nó.
Chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng là cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học về hình phạt, quan điểm trên đã không còn có sức thuyết phục. Mặc dù
tử hình hoặc các hình phạt tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự do thân thể không
thể áp dụng với pháp nhân phạm tội, nhưng những loại hình phạt khác được xây
dựng trong Luật hình sự tương hợp hoàn toàn với bản chất các tổ chức và pháp
nhân phạm tội với mục đích làm cho nó phải chịu cái giá của tội ác mà nó đã
gây ra cho xã hội. Pháp nhân có các quyền và có tài sản, vì vậy, pháp nhân có
thể là một đối tượng của hình phạt tước đoạt hoặc hạn chế quyền hoặc tài sản.
Những kinh nghiệm đã thực hiện trong lĩnh vực này ở các nước thừa nhận
TNHS của pháp nhân đã chỉ ra rằng, khoa học về hình phạt đủ mềm dẻo để cung
cấp những hình phạt và những biện pháp an ninh phù hợp cho việc trừng phạt
các thực thể pháp lý này về đời sống của nó như cấm tiến hành những hoạt động
nhất định, hoặc về tài sản như phạt tiền, tịch thu tài sản,…..3
Nhận thức được điều trên BLHS 2015 quy định về hình phạt áp dụng đối
với pháp nhân thương mại phạm tội,dựa trên kinh nghiệm của các nước khác và
thực tiễn pháp nhân phạm tội ở Việt Nam để cụ thể hoá hình phạt đối với pháp
nhân, tại Chương VI của BLHS năm 2015, lần đầu tiên pháp luật hình sự nước
ta quy địnhcác hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội, bao gồm hai
loại hình phạt là hình phạt chính và hình phạt bổ sung, cụ thể:
- Hình phạt chính: Khoản 1 Điều 33 BLHS năm 2015 quy định “1. Hình
phạt chính bao gồm:a) Phạt tiền;b) Đình chỉ hoạt động có thời hạn;c) Đình chỉ
hoạt động vĩnh viễn”.
- Hình phạt bổ sung: Khoản 2 Điều 33 BLHS năm 2015 quy định “2. Hình
phạt bổ sung bao gồm:a) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực
nhất định;b) Cấm huy động vốn;c) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt
chính”.
Một trong những đặc điểm nổi bật trong quy định hình phạt đối với pháp
nhân là các nhà làm luật đánh mạnh vào mặt kinh tế của pháp nhân, xuất phát từ
mục đích chính của pháp nhân là hoạt động vì lợi nhuận, đây là mặt trực tiếp và
có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự tồn tại và phát triển của pháp nhân. Đồng thời,
những loại hình phạt mà BLHS năm 2015 quy định đối với pháp nhân thương
mại, đã và đang được quy định là những hình thức xử lý vi phạm đối với pháp
nhân trong những văn bản pháp luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012… và
nhiều văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, những hình thức xử lý này chưa đủ sức
răn đe, giáo dục cho nên chưa mang lại hiểu quả đấu tranh phòng ngừa cao đối
với pháp nhân có hành vi vi phạm. Chính vì thế, dưới góc độ là những loại hình
phạt do BLHS quy định, mang tính nghiêm khắc, cưỡng chế nhà nước cao nhất
thì sẽ góp phần quan trọng vào quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm do
pháp nhân gây ra một cách có hiệu quả.
Đối với pháp nhân thương mại phạm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
(Chương XVIII BLHS năm 2015) thì các hình phạt cụ thể được quy định cụ thể
cho từng tội mà pháp nhân phải gánh chịu TNHS như sau:
- Các tội mà pháp nhân thương mại khi phạm tội chỉ phải áp dụng
hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính bao gồm: Điều 196 (Tội đầu
cơ); Điều 209 (Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin
trong hoạt động chứng khoán); Điều 210 (Tội sử dụng thông tin nội bộ để
mua bãn chứng khoán); Điều 213 (Tội gian lận trong kinh doanh bảo
3
Tr 55, 56 Cuốn: Sửa đổi BLHS, những nhận thức cần thay đổi_GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên)_ Nhà xuất
bản tư pháp.
hiểm); Điều 216 (Tội trốn đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
thất nghiệp cho người lao động);
- Các tội mà pháp nhân thương mại khi phạm tội có thể bị áp dụng
hình phạt tiền hoặc hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn trong một
Điều luật bao gồm: Điều 217 (Tội vi phạm quy định về cạnh tranh); Điều
225 (Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 226 (Tội xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227 (Tội vi phạm các quy định
nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232 (Tội vi phạm các
quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản)
- Các tội mà pháp nhân thương mại khi phạm tội có thể bị áp dụng
hình phạt tiền hoặc hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong một Điều
luật bao gồm: Điều 203 (Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn,
chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước); Điều 211 (Tội thao túng thị
trường chứng khoán);
- Các tội mà pháp nhân thương mại khi phạm tội có thể bị áp dụng
hình phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động
vĩnh viễn trong một điều luật bao gồm: Điều 188 (Tội buôn lậu); Điều 189
(Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (Tội
sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191 (Tội tàng trữ, vận chuyển hàng
cấm); Điều 192 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 193 (Tội sản
xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm);
Điều 194 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc
phòng bệnh); Điều 195 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng
để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây
trồng, vật nuôi); Điều 200 (Tội trốn thuế); Điều 234 (Tội vi phạm quy
định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã)
Nhận thấy số lượng hình phạt trong các điều luật cho thấy mức độ nguy
hiểm và nghiêm trọng của các tội phạm, thể hiện được sự phân hóa TNHS, tất cả
các tội đều thấy xuất hiện hình phạt tiền, điều này cho thấy các nhà lập pháp đã
nhằm mạnh vào kinh tế của các pháp nhân thương mại phạm tội. Pháp nhân
thương mại hoạt động vì lợi nhuận, phạm tội cũng vì lợi ích, suy cho cùng thì
vấn đề kinh tế là vấn đề cốt yếu để các pháp nhân phạm tội và vấn đề kinh tế cốt
yếu để pháp nhân có thể tồn tại và hoạt động bình thường. Vì vậy các nàh làm
luật đã đánh đúng vào điểm cốt yếu này của các pháp nhân thương mại.
- Các biện pháp tư pháp bao gồm các biện pháp quy định tại Điều 83
BLHS năm 2015 trong đó có một số biện pháp chủ yếu sau đây:
1, Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
2, Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại
3, Buộc công khai xin lỗi, buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu
4, Buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chăn hậu quả
tiếp tục xảy ra
……..
Thứ năm về việc quy định các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
TNHS của pháp nhân thương mại trong chương các tội phạm xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế.
Theo đó, vì là chủ thể của pháp luật hình sự cho nên cũng như việc quy
định TNHS đối với cá nhân con người, lần đầu tiên BLHS năm 2015 quy định
các tình tiết giảm nhẹ TNHS áp dụng đối với pháp nhân (Điều 84), và các tình
tiết tăng nặng TNHS áp dụng đối với pháp nhân (Điều 85), trong đó đều có quy
định nguyên tắc “Các tình tiết giảm nhẹhoặc tình tiết tăng nặng đã được Bộ
luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là
tình tiết giảm nhẹ hoặc tình tiết tăng nặng trong khi quyết định hình phạt”. Bởi
lẽ, truyền thống xây dựng BLHS từ trước đến nay, đều quy định những tình tiết
tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ cho cá nhân con người phạm tội cụ thể, nay BLHS
năm 2015 tiếp tục sửa đổi, bổ sung thêm loại chủ thể luật hình sự mới là pháp
nhân thì cũng phải quy định những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ áp
dụng đối với pháp nhân phạm tội., như vẫn đang quy định đối với cá nhân con
người phạm tội. Thông qua đó, có thể thấy việc quy định những tình tiết tăng
nặng, tình tiết giảm nhẹ này trong BLHS năm 2015 thể hiện rõ được tính nghiêm
khắc trong xử lý hành vi phạm tội của pháp nhân, cũng như thể hiện được
tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta trong công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm, đồng thời thể hiện được tính hợp lý và nguyên tắc
công bằng, bình đẳng trong xử lý tội phạm giữa hai loại chủ thể pháp luật hình
sự là cá nhân và pháp nhân.
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS, tình tiết tăng nặng TNHS được nói đến ở trên
được áp dụng cho pháp nhân thương mại khi pháp nhân thực hiện một tội phạm
mà pháp nhân là chủ thể, được quy định trong BLHS. Đồng nghĩa với việc này,
các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS được nêu ở trên sẽ được áp dụng cho
pháp nhân thương mại thực hiện các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Lý giải vì sao các nhà lập pháp Việt Nam lại quy định về TNHS của pháp
nhân thương mại xâm phạm trật tự quản lý kinh tế như các mục đã nêu ở trên:
1- Kinh tế thị trường đã mang lại những lợi ích vô cùng to lớn cho sự phát
triển kinh tế xã hội ở nước ta. Nhưng chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều hiện
tượng tiêu cực được coi là mặt trái của kinh tế thị trường như các hành vi vi
phạm quy định về độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh, buôn lậu, xâm phạm
sở hữu trí tuệ, gian lận thương mại, làm ô nhiễm môi trường..., gây những hậu
quả rất nghiêm trọng, thậm chí đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội. Trong hoạt
động quản lý của các doanh nghiệp, nhiều chính sách, hành vi của doanh nghiệp
được thực hiện theo quyết định của tập thể lãnh đạo, điều hành doanh nghiệp.
Do vậy, việc quy trách nhiệm cho một hay một số cá nhân là rất khó khăn và
việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với họ là thiếu công bằng, chưa thật sự hợp
lý.
2- Các biện pháp hình sự xử lý pháp nhân có nhiều ưu điểm so với các
biện pháp hành chính, dân sự. Việc xử lý hình sự sẽ được tiến hành bởi các cơ
quan tiến hành tố tụng mang tính chuyên nghiệp cao, với trình tự, thủ tục tư
pháp chặt chẽ, minh bạch, sử dụng các chế tài mạnh mẽ, các biện pháp nghiệp
vụ chuyên sâu (mà trong xử lý hành chính, dân sự không có) trong việc chứng
minh các hành vi vi phạm và xác minh mức độ thiệt hại do pháp nhân gây ra.
3- Có chế tài hình sự đủ nghiêm để ngăn chặn, xử lý tình hình vi phạm
pháp luật ngày càng gia tăng, phức tạp của pháp nhân, đảm bảo việc khắc phục
thiệt hại, quyền của người bị hại do pháp nhân gây ra, không để lọt tội phạm.
4- Qua thực tiễn xử lý các vụ việc điển hình trong thời gian qua cho thấy
những khó khăn, vướng mắc và hạn chế hiện nay trong việc giải quyết các vi
phạm pháp luật của pháp nhân bằng biện pháp hành chính và dân sự. Ví dụ:
Theo Luật tố tụng dân sự, cho đến nay vẫn chưa xác định được ai là người phải
chịu trách nhiệm khởi kiện yêu cầu công ty Vedan bồi thường thiệt hại, nếu khởi
kiện thì những người nông dân không đủ khả năng chứng minh được thiệt hại
gây ra, dự trù án phí dân sự không phải nhỏ,...
Chế tài xử phạt hành chính vừa thiếu tính răn đe lại vừa không đầy đủ.
Luật xử lý vi phạm hành chính cho phép phạt tối đa (trong trường hợp nặng
nhất) đối với pháp nhân có hành vi vi phạm không vượt quá 2 tỷ đồng. Với mức
phạt này, theo ý kiến của một số chuyên gia, nhiều pháp nhân (đặc biệt là các
pháp nhân là các Công ty liên doanh, các hãng vận tải biển quốc tế) có thể chấp
nhận nộp phạt để tiếp tục vi phạm. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tuy có
ưu điểm là nhanh, tác dụng tức thời nhưng lại thiếu tính chuyên nghiệp, nhất là
quá trình xác minh mức độ gây thiệt hại của pháp nhân làm cho việc xử phạt
pháp nhân chưa đạt hiệu quả.
Việc áp dụng biện pháp buộc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong
pháp luật dân sự cũng tỏ ra bất cập, nhất là đối với việc bồi thường trong lĩnh
vực gây ô nhiễm môi trường; các quy định về án phí dân sự và nguyên tắc bị hại
phải tự chứng minh thiệt hại khi đòi bồi thường thiệt hại như là một sự cản trở
rất lớn đối với người bị thiệt hại, nhất là người dân bị gây thiệt hại do các hành
vi gây ô nhiễm môi trường.
5- Cá nhân bị truy cứu TNHS thường khó có đủ năng lực tài chính để bồi
thường những thiệt hại lớn hoặc đặc biệt lớn. Trong khi đó, nếu chủ thể phạm tội
là pháp nhân thì có khả năng tốt hơn trong việc thi hành các khoản bồi thường
thiệt hại, sửa chữa, khắc phục hậu quả gây ra. Đây chính là lý do “rất thực dụng”
cho việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân.
6- Trong bối cảnh hội nhập quốc tế về pháp luật và tư pháp diễn ra mạnh
mẽ, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều công ước quốc tế về phòng,
chống tội phạm như: Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Công
ước chống tham nhũng, Công ước chống rửa tiền.... Mặc dù khi tham gia các
Công ước, đặc biệt là Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (gọi
tắt là Công ước TOC), Việt Nam tuyên bố không bị ràng buộc về quy định
TNHS của pháp nhân, nhưng theo quy định tại Điều 10 của Công ước, các quốc
gia thành viên phải ban hành những biện pháp cần thiết phù hợp với những
nguyên tắc pháp lý của nước mình, để xác định trách nhiệm pháp lý của pháp
nhân trong việc thực hiện những hành vi phạm tội như: tham gia nhóm tội phạm
có tổ chức (Điều 5); rửa tiền (Điều 6), tham nhũng (Điều 8), cản trở công lý
(Điều 23). Đồng thời tuỳ theo những nguyên tắc pháp lý của mình, việc xử lý
pháp nhân vi phạm có thể là trách nhiệm hình sự, dân sự hay trách nhiệm hành
chính.4
Kết luận
Xu thế toàn cầu hoá hiện nay trên thế giới và nhất là Việt Nam đang chủ
động hội nhập quốc tế đã ảnh hưởng nhất định đến tình hình cơ cấu tội
phạm ở nước ta. Tình hình tội phạm có tổ chức có yếu tố nước ngoài (mang tính
quốc tế) có sự tham gia của pháp nhân, tổ chức đã xuất hiện và có chiều hướng
phát triển ở nước ta như, các tội xâm phạm sở hữu tài sản, tẩy rửa tiền, buôn ma
túy, buôn lậu, buôn bán trẻ em, phụ nữ,….. Nhưng đặc biệt nổi bật nên là các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về môi trường. Lắm được tình hình
thực tế diễn biến của tội phạm, cùng với sự tiếp thu học hỏi kinh nghiệm của
quốc gia trên thế giới đã công nhận TNHS của pháp nhân từ lâu, các nhà làm
luật Việt Nam đã ghi nhận một phần nào đó TNHS của pháp nhân trong BLHS
năm 2015 và cụ thể là ghi nhận TNHS của pháp nhân thương mại trong hai
chương về tội phạm đó là Chương XVIII: Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế và Chương XIX: Các tội phạm về môi trường
Việc ghi nhận TNHS của pháp nhân thương mại là thành quả tốt đẹp bước
đầu của quá trình đấu tranh lâu dài của các nhà nghiên cứu Luật hình sự. Tuy có
sự tiếp thu tiến bộ và thành công ban đầu song vẫn còn những vấn đề về TNHS
của pháp nhân cần được hoàn thiện ví dụ như: chủ thể ngoài pháp nhân thương
mại có thể còn có những pháp nhân khác…, phạm vi chịu TNHS của pháp nhân
cũng cần được mở rộng để phù hợp với diễn biến tội phạm phức tạp ở hiện tại và
khó có thể lường trước được những trường hợp trong tương lai.
4
Quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong BLHS năm 2015_tác giả Hà Thanh. Website:
/>
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Sách chuyên khảo: Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật
hình sự_TS. Trịnh Quốc Toản_Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật.
2, Cuốn: Sửa đổi BLHS những nhận thức cần thay đổi_GS.TS. Nguyễn
Ngọc Hòa_Nhà xuất bản tư pháp.
3, Quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong BLHS năm
2015_tác giả Hà Thanh. Website: />4, Lê Cảm (2000), Trách nhiệm hình sự của pháp nhân - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án, số 4, Hà Nội.