TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
NGUYỄN THI VÂN
KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG KITCHEN CỦA BANANA YOSHIMOTO
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
HÀ NỘI, 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
NGUYỄN THI VÂN
KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG KITCHEN CỦA BANANA YOSHIMOTO
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Người hướng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Thị Bích Dung
HÀ NỘI, 2019
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp của mình, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn
– Trường ĐHSP Hà Nội 2 và các thầy cô trong tổ bộ môn Văn học nước
ngoài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới các thầy , cô giáo trong khoa,
tổ, đặc biệt là TS. Nguyễn Thị Bích Dung - Người đã trực tiếp hướng dẫn tôi
hoàn thành đề tài này.
Xin gửi lời cảm ơn tới gia đình bạn bè thân thiết đã động viên giúp đỡ
trong thời gian hoàn thành khóa luận.
Vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên nên còn một số thiếu sót. Rất
mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo cũng như bạn bè để khóa luận
được hoàn thiện tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày
tháng
năm 2019
Sinh viên
Nguyễn Thị Vân
LỜI CAM ĐOAN
Khoá luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
T.S NguyễnThị Bích Dung. Tôi xin cam đoan :
- Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
- Kết quả này không trùng với kết quả của bất kỳ tác giả nào đã được
công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội ngày
tháng
năm 2019
Sinh viên
Nguyễn Thị Vân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1.Lí do chọn đề tài............................................................................................. 1
2.Lịch sử vấn đề. ............................................................................................... 3
3.Mục đích nghiên cứu...................................................................................... 6
4.Nhiệm vụ nghiên cứu. .................................................................................... 6
5.Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát. .................................................. 6
6.Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 6
7.Đóng góp của khóa luận................................................................................. 7
8.Bố cục khóa luận............................................................................................ 7
NỘI DUNG ....................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG KITCHEN. .............. 8
1.1. anana Yoshimoto và con đường sáng tác văn chương. ............................ 8
1.2.Khái niệm không gian và không gian nghệ thuật. .................................... 12
1.3. Các kiểu không gian nghệ thuật trong Kitchen........................................ 15
1.3.1.Không gian đô thị................................................................................... 17
1.3.2.Không gian tâm lí................................................................................... 26
TIỂU KẾT CHƯƠNG I .................................................................................. 36
CHƯƠNG 2: THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG KITCHEN. ................. 37
2.1 Khái niệm thời gian và thời gian nghệ thuật............................................. 37
2.2 Các kiểu thời gian nghệ thuật trong Kitchen............................................. 40
2.2.1 Thời gian tính theo ngày. ....................................................................... 41
2.2.2 Thời gian tính theo mùa. ........................................................................ 45
2.2.3. Cách xây dựng thời gian nghệ thuật trong Kitchen .............................. 50
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.................................................................................. 52
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lí do khoa học
Nhật
ản chúng ta biết đến không chỉ là một cường quốc về kinh tế mà
còn có một nền văn hóa lâu đời và phong phú. Một nền văn học rất độc đáo và
tiêu biểu trên thế giới. Trải theo hàng ngàn năm lịch sử hình thành và phát
triển văn học Nhật ản đã có những thành tựu nhất định trên văn đàn văn học
thế giới tiêu biểu là có hai người được giải Nobel văn học đó là Kawabata
Yasunari (1968) và Oe Kenzaburo (1994). Văn học Nhật
ản hiện đại là một
nền văn học tiêu biểu của sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa tính
dân tộc độc đáo và tinh hoa của văn hóa thế giới. Nhiều tác giả tài năng và
nhiều tác phẩm xuất sắc đã ra đời trong quá trình phát triển của thể loại văn
học hiện đại như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ. Từ đó văn học Nhật
ản đã
chiếm được cảm tình và ngưỡng mộ của đông đảo độc giả trên thế giới trong
đó có Việt Nam. Trong những năm gần đây đã có rất nhiều đầu sách được in
ấn. Trong đó chúng ta cần chú ý đến nữ tác giả anana Yoshimoto vì cô đã có
những thay đổi vượt bậc về nội dung lẫn nghệ thuật. Rất khác so với tiểu
thuyết cổ ngày xưa, những đổi mới cách tân trong nội dung, hình thức của
tiểu thuyết hiện đại làm thể loại tiểu thuyết ngày càng phong phú.
anana Yoshimoto có lẽ là cái tên ít nhiều còn xa lạ với độc giả Việt
Nam mặc dù cô là một gương mặt nổi bật của văn đàn Nhật
ản hiện đại,
người từng làm nên hiện tượng Banana (Bananamania) trên phạm vi toàn thế
giới ngay từ tác phẩm gần như đầu tay- Kitchen (1986). Cùng với những tên
tuổi như Haruki Murakami và Ryu Murakami,…
anana Yoshimoto với một
lối viết biểu cảm đơn giản, hiện đại, trong đó cuộc sống cân bằng của cá nhân
là một trong những chủ đề xuyên suốt nhất, đã thực sự góp phần thay đổi bộ
mặt văn học Nhật ản hiện đại.
1
Tác phẩm Kitchen đã trở thành một hiện tượng văn học trên toàn thế giới
với 2,5 triệu bản được tiêu thụ và đã được tái bản trên sáu mươi lần tại Nhật
ản. Tiểu thuyết có sức hút với bạn đọc trong và ngoài nước. Kitchen là
truyện ngắn ra đời năm 1987, là dấu son trên chặng dài văn nghiệp của
Yoshimoto.
Qua khảo sát tác phẩm thì người viết nhận thấy tác phẩm rất đặc biệt về
kết cấu không gian và thời gian. Không gian và thời gian là sản phẩm sáng tạo
để nhà văn thể hiện quan điểm nhất định về con người, cuộc sống. Vì vậy việc
tìm hiểu về không gian và thời gian nghệ thuật là điều quan trọng để ta tiếp
cận tác phẩm từ góc độ khác nhau.
1.2. Lí do sư phạm
Văn học Nhật
ản và văn học Việt Nam ngày nay có những nét tương
đồng trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, việc mở cửa học hỏi và
tiếp thu thành tựu không chỉ về khoa học công nghệ mà còn về văn hóa, văn
học. Văn học Nhật Bản ngày nay đã phản ánh lối sống hiện đại không khác
nhau mấy giữa các nước công nghiệp vì vậy việc tìm hiểu văn học Nhật bản
mà là các sáng tác của
anana Yoshimoto sẽ giúp cho người giáo viên tương
lai có cái nhìn rõ hơn và toàn diện hơn về chiều hướng phát triển của văn học
nước ngoài, đặc biệt là văn học Nhật
ản. Từ đó để có thể cung cấp thêm cho
học sinh khi dạy về tác phẩm văn học Nhật
ản. Đặc biệt với nhiệm vụ dạy
và học ngày nay là giáo dục cho học sinh hình thành năng lực đọc hiểu các tác
phẩm dựa trên nền tảng kiến thức đã hình thành. Việc cung cấp tư liệu về tác
giả cũng như tác phẩm của
anana Yoshimoto sẽ giúp cho học sinh đọc hiểu
một cách dễ dàng hơn tác phẩm văn học đương đại của Nhật
ản không chỉ
về một tác giả mà còn cả những tác giả khác như Haruki Murakami. Từ đó
học sinh có thể tiếp cận văn học Nhật
ản một cách sâu sắc cũng như đúng
đắn và có cái nhìn so sánh đối chiếu để phát triển văn học nước nhà. Tác
phẩm văn chương không chỉ hấp dẫn về mặt nội dung mà còn đặc sắc về mặt
nghệ thuật được thể hiện qua nhiều phương diện như: hình tượng nhân vật,
nghệ thuật kể chuyện, và không gian thời gian nghệ thuật là một nét đáng chú
ý trong tác phẩm này. Khi nghiên cứu về đề tài này chúng ta sẽ thấy rõ hơn
cái phong cách sáng tác của nhà văn để tiến tới hiểu các sáng tác khác một
cách dễ dàng hơn. Từ những lí do đó, chúng tôi chọn đề tài “Không gian và
thời gian nghệ thuật trong Kitchen của Banana Yoshimoto” với hi vọng tìm
ra được điểm độc đáo trong tiểu thuyết của cô và đồng thời để đánh giá đúng
những đóng góp của tác giả để phát triển tiểu thuyết tiểu thuyết Nhật ản hiện
đại.
2. Lịch sử vấn đề
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu tác phẩm, người viết nhận thấy ở
Việt Nam cũng có nhiều bài nghiên cứu về tác phẩm Kitchen giới thiệu và
anana Yoshimoto. Sau đây là một số bài viết về tác giả anana Yoshimoto:
Trong báo cáo nghiên cứu khoa học của sinh viên Nguyễn Thị Hường tại
Đại học Lạc Hồng với đề tài Tìm hiểu nghệ thuật trong tác phẩm của
Yoshimoto Banana tác giả Nguyễn Thị Hường đã đưa ra những vấn đề về
phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết Kitchen.
Một bài nghiên cứu khác của tác giả Lưu Thị Thu Thủy thuộc viện thông
tin khoa học xã hôi với bài viết: Yoshimoto Banana nhà văn của lòng nhân ái
và những tổn thương tinh thần cô đã viết: “Văn của Yoshimoto Banana là thứ
văn của hiện đại khác xa với văn chương truyền thống Nhật Bản gò ép, khô
cứng và khuân thước. Văn của cô là văn của lớp trẻ, những người sẽ đem lại
luồng sinh khí mới để Nhật Bản văn học trẻ phục sinh”. Nghiên cứu đã giúp
cho chúng ta thấy được quan niệm sáng tác của
anana Yoshimoto “Cô
không bày tỏ thái độ khuyến khích hay tha thứ mà tất cả đều được nhìn nhận
bằng con mắt điềm tĩnh của người quan sát và thái độ xót thương dành cho
nhân vật. Những nhân vật của cô luôn là người trẻ tuổi bị tổn thương tinh
thần, thể xác nhưng tất cả đều gắng gượng để sống, được an lành, không
tuyệt vọng, hướng tới một tương lai tươi sáng hơn”.
Luận văn Thạc sĩ của Trần Thị Hồng Hạnh trường Đại học Huế với đề
tài: “Cảm thức hiện sinh trong các tác phẩm của Banana Yoshimoto”. Đề tài
này thì người viết đã cung cấp cho chúng ta về phương thức biểu hiện cảm
thức hiện sinh trong sáng tác của anana Yoshimoto.
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Huỳnh Trang trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh với đề tài Tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật trong tác
phẩm của Yoshimoto Banana. Với đề tài này người viết đã viết một cách tổng
quan về đặc điểm nghệ thuật trong các sáng tác của anana Yoshimoto.
Luận văn tốt nghiệp đại học của Trần Thị Thúy Hiền Đại học Cần Thơ
với đề tài : Đặc điểm tiểu thuyết Nhà bếp. Với đề tài này người viết đã chỉ ra
được đặc điểm tiểu thuyết trong tác phẩm Nhà bếp.
Phần mở đầu của cuốn tiểu thuyết Kitchen, nhà xuất bản Hội nhà văn
cũng đã giới thiệu về tác giả Yoshimoto
anana. Nhà xuất bản đã viết:
Kitchen, như một khởi đầu tuyệt vời của Banana Yoshimoto.
Đào Thị Thu Hằng Phòng tạp chí & TTKHCN, trường Đại học Sư phạm
Hà Nội với bài Nghệ thuật kể chuyện trong Kitchen của Banana Yoshimoto
Đã trình bày rõ về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm Kitchen.
Tác giả Phạm Vũ Thịnh đại học Tokyo Nhật
ản, bài biên khảo với đề
tài Yoshimoto Banana tiểu thuyết gia hiện đại Nhật Bản đăng trên diễn đàn
Thơ Văn đã viết: “Truyện tập trung vào tâm tình cô quạnh âm thầm một mình
trong bóng đêm cuộc đời của cô và người bạn ấy, những người còn quá trẻ để
biết cách ứng xử với định mệnh khắc nghiệt phủ xuống đời mình”. Và những
ảnh hưởng của Phương Tây đến sáng tác của cô.
Ngoài những bài nghiên cứu, tạp chí và lời tựa của các đầu sách thì còn
có những cuộc hội thảo ngày 17 tháng 3 năm 2007 tại Trung tâm Việt - Nhật
đã diễn ra Hội thảo hai tác giả Nhật
ản đương đại là Yoshimoto
anana và
Murakami Haruki cùng với sự tham gia của các nhà nghiên cứu, dịch giả có
uy tín trong nước. Tác phẩm của
anana Yoshomoto được nói đến qua bài
tham luận của Nguyễn Chí Hoan với tựa đề: “Ca ngợi khoảnh khắc”. Hội
thảo đã tạo được hiệu ứng tích cực cho hai nhà văn này ở Việt Nam.
Nhìn chung thì các bài viết đã đề cập đến nội dung cũng như nghệ thuật
được thể hiện trong các sáng tác của
anana Yoshimoto nhưng nó chỉ khái
quát tổng thể mà chưa đi sâu vào một vấn đề cụ thể cũng như một tác phẩm
nhất định. Cuốn sách Kitchen được in chung với Bóng trăng trong ấn phẩm
bằng tiếng anh vào năm 1993 đã rất thành công đối với một người mới bước
vào làng văn. Thành công của cuốn Kitchen là động lực lớn để
anana tập
trung vào sáng tác hàng loạt các tiểu thuyết tiếp theo và khẳng định thêm tài
năng cũng như vị trí của mình trên văn đàn Nhật
ản đương đại. Trong
Kitchen có hai câu chuyện ( chuyện của Mikage- Yuichi và câu chuyện của
Satsuki- Hitoshi). Câu chuyện kể về người bà đã mất vì tuổi tác, chuyện
người mẹ chết vì kẻ cuồng tình, vì hai người chết vì tai nạn giao thông và
những con người khi mất đi người thân họ đã lay lắt để sống tiếp, cuối cùng
thì họ cũng vượt qua cái bóng của quá khứ. Đặt con người sống vào trong
những hoàn cảnh của những cái chết tác giả không cốt xây dựng khơi gợi sự
cảm thông mà mọi chi tiết đều hướng đến thái độ của người sống đối với cảnh
ngộ mình phải đối đầu.
ếp, thức ăn và những giấc mơ là những không gian
trở đi trở lại trong tiểu thuyết Kitchen. Đây là thế giới cảm xúc và ước vọng.
Vì vậy không gian và thời gian nghệ thuật trong tác phẩm Kitchen là một
nghệ thuật cần khai thác để từ đó rõ hơn về phong cách sáng tác rồi lí giải các
hiện tượng văn học trong các sáng tác của cô.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích khám phá không gian nghệ thuật và thời gian nghệ
thuật trong Kitchen của
anana Yoshimoto. Qua đó hiểu sâu sắc hơn về ý
nghĩa tác phẩm trên nhiều phương diện thấy được tài năng nhà văn và những
đóng góp lớn lao của bà cho nền văn học Nhật Bản đương đại nói riêng và
cho văn học thế giới nói chung.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này người nghiên cứu hệ thống các khoảng không gian và thời
gian khác nhau trong tác phẩm, sau đó tiến hành phân tích, đối chiếu, so sánh
để giúp người đọc thấy được những đóng góp, sáng tạo mới mẻ của Banana
Yoshimoto về vấn đề đang cần bàn.
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Không gian và thời gian nghệ thuật trong Kitchen của anan Yoshimoto.
5.2. Phạm vi khảo sát
Tiểu thuyết Kitchen của
NX
anana Yoshimoto do Lương Việt Dzũng dịch-
Hội nhà văn năm 2018. Trong đó có 3 phần Kitchen I, Trăng tròn –
Kitchen II,
óng trăng. Tuy nhiên để tiện cho việc phân tích đối chiếu, so
sánh, người viết có thể mở rộng sang một só tác phẩm có liên quan.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, người viết đã sử dụng các phương pháp như:
- Phương pháp khảo sát tác phẩm.
- Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp tổng hợp .
7. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận đóng góp một phần ngữ liệu vào việc giảng dạy những tác
phẩm văn học Nhật ản sau này ở trường phổ thông.
8. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận gồm hai chương:
Chương 1: Không gian nghệ thuật trong Kitchen.
Chương 2: Thời gian nghệ thuật trong Kitchen.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG KITCHEN
1.1. Banana Y hi
t và c n đường áng tác văn chương
Nữ tác giả Banana Yoshimoto ( ) tên thật là Mahoko
Yoshimoto ( ) sinh ngày 24.7.1964. Sinh ra trong một gia đình theo
phái tả, gia đình cô là một gia đình tự do nên cuộc sống của cô “thoáng” hơn
so với thanh niên cùng lứa tuổi lúc bấy giờ. Cha cô là Takaaki Yoshimoto là
thi sĩ, triết gia, nhà lí luận, nhà phê bình văn học nổi tiếng và có tầm ảnh
hưởng tới xã hội Nhật Bản những năm 60. Chị gái Yoiko Haruno là họa sĩ vẽ
tranh và phim hoạt hình cũng được rất nhiều người biết đến. Do ảnh hưởng từ
bố nên từ bé cô đã được tiếp xúc với rất nhiều sách báo khác nhau và đã sớm
tiếp thu nền giáo dục qua việc đọc sách. Điều này rất có lợi cho sáng tác của
cô sau này.
Khi còn nhỏ thì thị lực của cô rất yếu đặc biệt là mắt trái, cô nhìn chủ
yếu bằng mắt phải và cũng có thời kì cô rơi vào tình trạng không nhìn rõ.
Điều này cũng đã ảnh hưởng đến tác phẩm của cô vào thời kì đó. Cô viết văn
rất sớm khoảng 5 tuổi, cũng có thời kì cô rất muốn làm họa sĩ giống chị mình
nhưng biết là không thể bằng nổi chị mình vì thế cô đã chọn cho mình một lối
đi riêng và bắt đầu viết văn. Cô cảm thấy việc mình trở thành một nhà văn là
một định mệnh, như một đặc ân mà trời ban cho.
Banana Yoshimoto tốt nghiệp ngành Văn tại trường Nihon University, tại
đây cô đã lấy bút danh là "Banana", cái tên mà theo cô là rất "chúa" và "lưỡng
tính". Có lúc cô giải thích việc cô lấy bút danh ấy là vì cô thích hoa chuối.
Sau khi tốt nghiệp đại học cô đã làm bồi bàn tại một hàng ăn vào năm 1987,
cô chỉ có thể lén lút viết tiểu thuyết của mình trong thời gian làm việc trên
những chiếc bàn trong quán cà phê và từ đó
anana Yoshimoto bắt đầu sự
nghiệp viết văn của mình. Kitchen, cuốn tiểu thuyết đầu tay của cô ngay lập
tức trở thành một hiện tượng lớn với hơn 2,5 triệu bản sách được tiêu thụ, và
đã tái bản trên sáu mươi lần tại Nhật Bản. Báo chí gọi đó là Bananamania
(Hội chứng
anana). Đã có hai bộ phim truyền hình được chuyển thể
từ Kitchen: một phim truyền hình ở Nhật, và một bộ phim khác, lớn hơn
nhiều, được Yim Ho (Nghiêm Hạo) sản xuất ở Hồng Kông năm 1997. Tác
phẩm Kitchen đã có được một loạt các giải thưởng văn học như Kaien
Newcomer Writes Prize năm 1987, Umitsubame First Novel Prize, Best
Newcomer Artists Recommended Prize của Bộ Giáo dục, và Izumi Kyoka
Literary Prize cùng vào năm 1988....
Bắt đầu sự nghiệp văn chương ở tuổi 23,
anana Yoshimoto đã tự nói
lên được tiếng nói của chính thế hệ mình, cô tập trung vào những vấn đề của
giới trẻ Nhật đang phải đối mặt. Đấy là cuộc sống đô thị vô cùng nhàn chán
của thanh niên, nơi họ như bị nghẽn giữa thế giới tưởng tượng và thực tế.
Ngoài việc sáng tác văn chương thì
anana Yoshimoto còn có sở thích khác
là phim và âm nhạc.
Hiện tại thì
anana Yoshimoto đang có một cuộc sống khá bình dị ở
Tokyo với chồng và con, cô rất ít tiết lộ về chuyện gia đình thường khi xuất
hiện trước công chúng cô thường nói về các sáng tác của mình hơn. Là một
nhà văn trẻ
anana đã chủ trì một website riêng của mình để thường xuyên
trao đổi thông tin về tác phẩm cũng như để trả lời các câu hỏi từ người đọc.
Cô chấp nhận tác phẩm của mình được đăng trên cả tạp trí thời trang và làm
đẹp nhằm phổ biến rộng rãi tác phẩm cả mình đến mọi người cũng như các
nhận định cho rằng cô muốn đại chúng hóa tác phẩm như nhạc Pop, truyện
tranh, thời trang. Cô dành mỗi ngày khoảng tiếng rưỡi để viết trên máy vi
tính. Khá khiêu khích, nữ tác giả còn phát biểu rằng tham vọng lớn nhất của
mình là đoạt giải Nobel.
Banana Yoshimoto nổi tiếng với các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn,
truyện vừa. Cô viết văn từ rất sớm từ 5 tuổi nhưng sự nghiệp văn chương chỉ
thực sự bắt đầu với tác phẩm đầu tay mang tên Kitchen vào năm 1987. Tác
phẩm đã đưa tên tuổi của cô với văn học Nhật Bản hiện đại. Kitchen là câu
truyện kể về cô gái Sakurai Mikage rất yêu thích những căn bếp. Thật không
may mắn là người thân duy nhất là bà cô vừa mới qua đời. Mikage đã sống
một mình và được Tanabe Yuichi mời về nhà ở cùng. Tại đây, Tanabe và mẹ
(thực chất là người bố chuyển giới) yêu thương và quan tâm Mikage như con
ruột. Nhưng bi kịch một lần nữa xảy ra khi Eriko, mẹ Tanabe gặp tai nạn và
qua đời. Cả Mikage và Yuchi đều thấy cô độc trước căn nhà của chính mình.
Cả hai đã bỏ đi để trốn chạy cảm giác đó, chính cuộc ra đi lần này lại làm
thức tỉnh cái điều mà chính họ từ xưa đến nay không để ý đến đó là Mikage
và Yuchi thực sự cần cho nhau, để cả hai có thể cùng nhau vượt qua khó
khăn. Cũng nằm trong Kitchen truyện ngắn Bóng trăng là câu chuyện xúc
động kể về Satsuki hoàn toàn suy sụp sau cái chết của bạn trai tên Hitoshi và
chỉ biết quên đi nỗi buồn bằng việc chạy bộ. Trong một buổi sáng tại chiếc
cầu kỉ niệm, cô bất ngờ gặp một cô gái kì lạ tên là Urana. Urana sẽ tiết lộ cho
cô một điều hết sức đặc biệt mà cô sẽ nhìn thấy và rồi điều đặc biệt đó là cô
đã nhìn thấy được hình ảnh Hitoshi chính điều này đã giúp cô trở nên mạnh
mẽ vững vàng đối mặt trên đường đời sau cái chết quá đột ngột. Bên cạnh sự
đau buồn của Satsuki còn là nỗi đau của Hiiragi em trai của Hitoshi khi cậu ta
cùng một lúc mấy đi anh trai và bạn gái sau vụ tai nạn thảm khốc, cậu ta tìm
thấy sự thanh thản khi mặc bộ đồng phục của bạn gái. Hai con người đau khổ
sau khi nhìn thấy hình ảnh của người mình yêu đã bước tiếp vững vàng trên
đoạn đường tới.
Không chỉ dừng lại ở thành công của Kitchen Banana vẫn tiếp tục khẳng
định tên tuổi của mình qua các tác phẩm khác như: Thằn lằn, N.P, Vĩnh biệt
Tugumi, Amrita,…
Tháng 3 năm 1989 Vĩnh biệt Tugumi nhận giải thưởng văn học Yamamoto
Shogoro lần thứ 2 sau đó tác phẩm cũng được dựng thành phim 1990. Tiếp đó
là 1993 Banana Yoshimoto nhận giải Scanno về văn học cho tác phẩm N.P.
Tác phẩm nói đến tình yêu cùng huyết thống nhưng không gây cảm giác ghê
sợ mà chứa đựng niềm cảm thông sâu sắc.
Năm 1994 cuốn tiểu thuyết dài của cô Nước thánh –( Amrita) đoạt giải
Murasaki- Shikibu lần V là cuốn tiểu thuyết dài nhất của Banana. Vào tháng
10 năm 2000 Furin to Nanbei được giải thưởng văn học Bunkamura Duet
Magot lần 10. Các tác phẩm của cô thường nói về những bi kịch đổ vỡ, trắc
trở và cái chết nhưng ẩn chứa là niềm lạc quan hi vọng về tình bạn, tình yêu
và gia đình. Trong các tác phẩm thì nhân vật chính thường là “Nữ” và phải
gánh chịu “ những vết thương tinh thần” không thể nguôi ngoai song ẩn sau
đó là tiếng nói đồng cảm của Banana dành cho nhân vật của mình.
Hiện tại thì cô có khoảng 12 tiểu thuyết. Ở Ý với 15 đầu sách của
anana được phát hành trung bình mỗi năm một cuốn. Với số lượng sách lớn
được xuất bản cô đạt giải thưởng văn học Italia gồm cả giải Fendissime danh
tiếng. Ở Việt Nam gần như các tác phẩm của
anana đều được dịch như: N.P,
Nắp biển, Hồ, Amrita, Thằn lằn, Vĩnh biệt Tugumi,…Các tác phẩm đều được
đọc giả đón nhận rất tích cực.
1.2. Khái niệm không gian và không gian nghệ thuật
Trong cuốn Từ điển tiếng việt của Hoàng Phê lí giải về không gian như
sau: “Không gian là khoảng không bao la trùm lên tất cả sự vật hiện tượng
xung quanh đời sống con người.”
Không gian là hình thức tồn tại cơ bản của thế giới, trong đó các vật thể
có thể có độ dài và độ lớn khác nhau nhưng đó chưa phải là không gian nghệ
thuật. Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật,
không có hình tượng nghệ thuật nào ngoài không gian, không có nhân vật nào
tồn tại mà không trong một cái nền cảnh nào đó. Người kể chuyện luôn phải
tìm cho mình một điểm nhìn để mô tả sự vật, sự kiện. Không thể đồng nhất
không gian nghệ thuật với không gian địa lí hay không gian vật lí vì không
gian trong tác phẩm nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của con người nghệ sĩ
nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống.
Trong tác phẩm, người ta thường bắt gặp sự mô tả con đường, căn nhà, dòng
sông,… Nhưng bản chất của các sự vật ấy chưa phải là không gian mang tính
nghệ thuật. Chúng được xem là không gian mang tính nghệ thuật trong chừng
mực biểu hiện mô hình thế giới con người.
Nếu thế giới nghệ thuật là thế giới của cái nhìn và mang ý nghĩa khái
quát thì không gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn, cách
nhìn. Không gian ấy có thể rất rộng hoặc rất hẹp. Nó cũng có viễn cảnh, có
giá trị tình cảm. Tình cảm có thể làm cho không gian bao la thêm hay chật
chội hơn. Không gian nghệ thuật không đồng nhất với không gian hiện thực.
Đây là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong việc hình thành thế giới nghệ
thuật, góp phần thể hiện thế giới quan tư tưởng của người nghệ sĩ trước hiện
thực xã hội. Không gian nghệ thuật là không gian mang tính chủ quan để biểu
đạt cảm nhận riêng của nhà văn về con người và thế giới.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì không gian nghệ thuật là “Hình thức
bên trong của hiện tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu
tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn
ra trong một trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm
tính bộc lộ toàn bộ quảng tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách
quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật.
Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian, nên mang tính chủ
quan. Ngoài không gian vật thể, có không gian tâm tưởng”. [2;tr134-135]. Do
vậy, không gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối, không quy được
vào không gian địa lí. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác
dụng mô hình hoá các mối liên hệ của bức tranh thế giới như thời gian, xã hội,
đạo đức, tôn ti trật tự. Không gian nghệ thuật có thể mang tính địa điểm, tính
phân giới – dùng để mô hình hoá các phạm trù thời gian như bước đường đời,
con đường cách mạng. Không gian nghệ thuật có thể mang tính cản trở, để
mô hình hoá các kiểu tính cách con người. Không gian nghệ thuật có thể là
không có tính cản trở như trong cổ tích làm cho ước mơ, công lí được thực
hiện dễ dàng. Ngôn ngữ của không gian nghệ thuật rất đa dạng và phong phú.
Các cặp phạm trù cao – thấp, xa – gần, rộng – hẹp, cong – thẳng, bên này –
bên kia, vững chắc – bập bênh, ngay - lệch … đều được dùng để biểu hiện các
phạm vi giá trị phẩm chất của đời sống xã hội. Không gian nghệ thuật
chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ
tượng trưng, mà còn cho thấy quan niệm về thế giới chiều sâu cảm thụ của tác
giả hay của một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám
phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hiện tượng nghệ
thuật.
Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học, Giáo sư Trần Đình Sử cũng đưa ra
một cách hiểu về không gian nghệ thuật: “Không gian nghệ thuật là phạm trù
của hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại và phát triển của thế giới
nghệ thuật là thế giới của cái nhìn và mang ý nghĩa thì không gian nghệ thuật
là trường nhìn mở ra từ một điểm nhì, cách nhìn”[10;31] Không gian nghệ
thuật không đồng nhất với không gian vật chất bên ngoài. Nó thể hiện tính
chất của một thế giới tinh thần, trong đó sự vật có cách biểu hiện và tổ chức
theo một ý nghĩa riêng. Do gắn với điểm nhìn, trường nhìn. Không gian nghệ
thuật trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống. Đồng thời do gắn với giá trị,
không gian trở thành biểu tượng nghệ thuật, một hiện tượng ước lệ mang ý
nghĩa cảm xúc.
Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học, Giáo sư Trần Đình Sử khẳng định:
“ Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện
con người và thể hiện quan niệm nhất định về cuộc sống do đó không thể qui
nó về không gian địa lí, không gian vật lí hay vật chất. Trong tác phẩm, ta
hay bắt gặp sự miêu tả con đường, dòng sông,… nhưng bản thân các sự vật
ấy chưa phải là không gian nghệ thuật. Chúng được xem là không gian nghệ
thuật trong chừng mực biểu hiện thế giới mô hình thế giới của tác giả”. [10;
tr108]. Vì thế ta xem xét không gian nghệ thuật như một quan niệm nghệ
thuật về thế giới con người, một phương thức chiếm lĩnh thực tại, một hình
thức thể hiện cảm xúc và khái quát tư tưởng thẩm mĩ. Không gian nghệ thuật
là mô hình nghệ thuật về thế giới mà con người đang sống, đang cảm thấy vị
trí, số phận của mình trong đó nó mang tính ước lệ, mang ý nghĩa cảm xúc,
tâm tưởng của thế giới tinh thần. Không gian nghệ thuật được tác giả xây
dựng dựa vào không gian có thật và những quan niệm về không gian sinh hoạt
trong cuộc sống. Mỗi tác giả sẽ thể hiện không gian một cách khác nhau tùy
vào hoàn cảnh thông qua ngôn từ để làm sao thể hiện được cái nhìn của họ.
Tóm lại không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ
thuật. Đó là không gian tồn tại, sinh hoạt của nhân vật, là bối cảnh để nhân vật
thể hiện tính cách suy nghĩ, hành động và còn là nền là cảnh cho những sự
kiện. Việc tìm hiểu không gian nghệ thuật của tác phẩm Kitchen giúp chúng
ta hiểu hơn về tác phẩm cũng như tài năng xây dựng không gian nghệ thuật
của tác giả.
1.3. Các kiểu không gian nghệ thuật trong Kitchen
Trong tác phẩm Kitchen của
anana, không gian nghệ thuật là nơi tồn
tại của các nhân vật, nơi nhân vật có thể hiện tâm tư tình cảm và những cá
tính của mình. Trong tác phẩm người viết nhận thấy có rất nhiều những tín
hiệu chỉ không gian, tuy nhiên để xét nó là không gian nghệ thuật thì nên đặt
những tín hiệu không gian riêng lẻ vào chung một trường không gian. Từ đó
xét ra các không gian chủ yếu rồi tiến hành phân tích để thấy được chủ ý của
tác giả. Qua việc đặt nhân vật vào khoảng không gian có chủ đích người đọc
có thể thấy được cảm xúc, trạng thái tâm lí, cách nhân vật họ bộc lộ. Trong
trường không gian đó cá tính nhân vật có những biểu hiện chung nhất chúng
tôi gọi đó không gian của đô thị và không gian tâm lí. Nhân vật trong tác
phẩm Kitchen là những con người thành thị đang bị rơi vào tình trạng mất
phương hướng và họ đi tìm những ý nghĩa sống tích cực trước sự bề bộn tẻ
nhạt ở nơi phố thị.
ởi thế, có một dạng không gian tượng trưng cho những
bế tắc, mệt mỏi, chán trường, tẻ nhạt hay sự mênh mông mất phương hướng
của con người nhưng không gian đó đồng thời tạo được lối thoát cho nhân
vật. Đó là không gian của đô thị với căn phòng - ô cửa, quán- công viên và
không gian đường phố. Nhân vật hiện lên với những tính cách đa chiều nhưng
lại bình lặng khi họ sống trong không gian không gian bếp, giấc mơ. Dù là
không gian hiện hữu hay không gian tâm tưởng thì chúng vẫn gặp nhau ở một
điểm: ở đó, con người có dịp đối diện với ý muốn của chính mình, và tìm
được sự bình yên cho tâm hồn. Không gian trong Kithchen của
anana
Yoshimoto đã góp phần quan trọng trong việc bộc lộ tư tưởng của tác giả.
Căn cứ vào việc khảo sát cho thấy không gian trong Kitchen gồm hai kiểu
không gian: Không gian đô thị và không gian tâm lí.
Các kiểu không gian
Số lần xuất hiện và tỉ lệ phần
trăm
1.
Không gian đô
thị
Không gian căn phòng- ô cửa
29 lần (46%)
Không gian quán- công viên
6 lần (9%)
Không gian đường phố
5 lần (8 )
2.
Không gian tâm
lí
Không gian bếp- không gian
11lần (17%)
chia sẻ tình cảm
Không gian giấc mơ
3 lần (5 )
Không gian hồi ức
7 lần (12%)
Không gian phi thực
2 lần (3 )
Qua kết quả khảo sát cho ta thấy kiểu không gian trung tâm trong
Kitchen là: không gian căn phòng- ô cửa và không gian bếp là không gian
chủ đạo. Tần xuất xuất hiện rất nhiều, chính điều này đã tạo nên các kiểu
không gian đồng bộ, không gian này kết hợp với không gian kia nhằm tạo
được chiều sâu, lối đi cho nhân vật. Trong tác phẩm đôi khi nhìn nhận sự thay
đổi của nhân vật không chỉ qua lời nói mà còn qua không gian, hướng nhìn
của nhân vật. Trong xã hội Nhật
ản ngày nay, nhà văn lấy đề tài là những
con người sống trong thành phố những đô thị lớn sầm uất. Tuy nhiên càng
hiện đại bao nhiêu, vội vã bao nhiêu nhưng họ lại cô đơn và lạc lõng trên
hành trình chiến thắng sự mất mát tột cùng. Trên hành trình đó con người
luôn luôn hướng tới tương lai làm nghị lực và cũng nghĩ về quá khứ với
những kỉ niệm đẹp để lấy đó là động lực đi tiếp trên đường đời. Chính vì vậy
không gian căn phòng- ô cửa và không gian bếp là hai không gian chủ đạo
trong tác phẩm. Sau đây là các kiểu không gian xuất hiện trong Kitchen của
Banana Yoshimito.
1.3.1.Không gian đô thị
Không gian đô thị được hiểu là không gian bao gồm những yếu tố tự
nhiên và yếu tố nhân tạo có trong đô thị có ảnh hưởng trực tiếp đến đô thị và
con người. Những yếu tố tự nhiên như cây xanh, sông, hồ tự nhiên... và những
yếu tố nhân tạo: tòa nhà, đường xá, cầu cống, những không gian ngầm đô thị
tác động trực tiếp đến cuộc sống người dân đô thị. Trong tác phẩm Kitchen
không gian đô thị được biểu hiện qua các cặp không gian căn phòng- ô cửa,
không gian quán- công viên, không gian đường phố.
1.3.1.1. Không gian căn phòng- ô cửa
Theo thống kê của chúng tôi thì từ căn phòng và ô cửa lặp lại khoảng 29
lần. Tuy nhiên sự lặp lại của các từ ngữ này tự nó chưa phải là không gian
nghệ thuật. Chúng chỉ thực là không gian nghệ thuật trong quan niệm biểu
hiện mô hình thế giới của tác giả.
Không gian căn phòng trong Kitchen của
anana Yoshimoto có một
điểm đặc biệt là gắn liền với những ô cửa kính. Trong văn học, hình ảnh căn
phòng thường mang ý nghĩa chật chội ngột ngạt, khó chịu và nhân vật thường
tự đóng kín bản thân để mặc cho nỗi cô đơn ăn mòn. Trong tác phẩm của
Banana, khi nhân vật tồn tại trong căn phòng đó, nhân vật tuy cô đơn nhưng
luôn có xu hướng vượt thoát ra thế giới bên ngoài bằng cửa sổ – không phải
là thế giới thành phố nhộn nhịp, bận rộn mà là thế giới của sự sống và năng
lượng. “Ô cửa sổ bếp. Nụ cười của những người bạn. Màu xanh roi rói trong
sân trường đại học mà tôi nhìn thấy qua góc nghiêng của Sotaro” [1;58]
Không gian căn phòng xuất hiện với tỉ lệ nhiều nhất nó gần như là không gian
trung tâm của truyện. Xuất hiện liên tục có khi là những cái nhìn bất ngờ, chợt
thấy và đôi khi là cái nhìn cố tình vượt thoát. Rất nhiều những biến cố, hành
động, sự việc của nhân vật diễn ra trong căn phòng và bếp. Căn phòng nhà
Yuichi qua con mắt của Mikage “Một căn phòng thật lạ lùng. Thứ đầu tiên
đập vào mắt tôi là chiếc ghế sofa khổng lồ đặt chình ình trong gian phòng
khách ăn thông với bếp. Nó nằm xây lung lại chạn bát đĩa trong gian bếp rất
rộng không có lấy một cái bàn hay một tấm thảm nào”. [1;21] Căn phòng
thực sự rất đẹp nhưng nó lại chứa sự cô đơn, đồ đạc rất to nhưng thiếu vắng
con người “ Đó là một chiếc ghế sofa thực sự tuyệt vời và được căng bằng
lớp vải be, nó tuyệt đến mức có thể đem ra trưng bày trong các chương trình
quảng cáo cả nhà ngồi trên đó xem ti vi bên cạnh là một chú chó to lớn, đến
độ người Nhật Bản người ta không thể nào nuôi nổi”. Con người trong một
thế giới qua ư vật chất, hoang hải công việc và đi shoping. Ở đó con người
vật lộn ra làm chỉ để tồn tại một cách phô trương, hoang phí vì mua sắm bất kì
thứ gì họ muốn. Đây chính là một phần hiện thực bản chất của con người hậu
hiện đại “Tôi shoping, tôi tồn tại”. Đam mê lao động là phẩm chất cao đẹp
của bất kì giống người nào nhưng lao động đến mức chỉ biết cắm đầu vào lao
động để thỏa mãn nhu cầu vật chất thì thật là bất thường. Vì thế trong căn
phòng như vậy quá cồng kềnh vì nhiều đồ nhưng không chật hẹp nhốn nháo
mà cô đơn vì thế nhân vật luôn có xu hướng nhìn ra ngoài và để thoát ra thì
nhìn qua ô cửa kính là thích hợp nhất “Phía trước ô cửa sổ lớn nhìn ra ngoài
ban công là đám cây cối được trồng trong những chiếc bầu và chậu nhiều
như một khu rừng rậm, còn trong nhà, nếu nhìn kĩ sẽ thấy toàn là hoa”
[1;21]. Khi đó, những ô cửa kính, là phương tiện tối ưu nhất giúp họ thực hiện
được ý muốn (dù điều đó có nằm ngoài sự tự ý thức của các nhân vật). Tấm
kính giúp nhân vật tận mắt thu trọn cuộc sống, giúp họ gần gũi với cuộc sống
và giao tiếp với xung quanh. Tấm kính tuy cũng là bức tường trong suốt mang
con người đến thật gần thế giới bên ngoài nhưng không thể với tới được,
nghĩa là họ khó thể nào hòa nhịp một cách dễ dàng với cuộc sống. Hạnh phúc
có thể dễ dàng chạm tay là có được nhưng không thể quá vội vàng. Họ cần có
thời gian để tự chiêm nghiệm rồi tự nỗ lực hàn gắn. Thông qua những tấm
gương trong suốt này,
anana đã tinh tế thể hiện quá trình đi tìm chân lí và ý
nghĩa cuộc sống của từng nhân vật. Tấm kính là sợi dây liên kết với cuộc
sống hoặc là những trở ngại tinh thần vừa là ranh giới giữa trạng thái thất
vọng và hi vọng, khi mất phương hướng và tìm đường… Vì thế không gian
căn phòng trong Kitchen của Yoshomto anana không phải là không gian hẹp
giam hãm con người như trong tác phẩm của A. Sêkhốp hay Đô-xtôi-ép-xki
mà nó còn có khả năng tạo điều kiện cho nhân vật phóng tầm nhìn ra xung
quanh, thế giới bên ngoài để cảm nhận cuộc sống.
ởi thế, khi chưa tìm thấy
được ô cửa trong căn phòng, nghĩa là nhân vật chưa vượt qua khỏi rào cản
tinh thần cô đơn, bế tắc, và nhân vật dễ chìm tâm trạng bất lực. Ngồi trong
nhà Yuichi, Mikage “bắt gặp bóng mình in trên ô cửa kính lớn, nơi khung
cảnh của ban đêm chìm trong làn mưa đang nhòa dần vào bóng tối” [1; 23].
Phải chăng, từ hình ảnh của mình trên kính, Mikage đang nhận ra chính mình
đang vô cùng lạc lõng, cô đơn. Tấm kính có thể soi chiếu được những điều
mà trong tâm hồn họ đang lảng tránh khuất lấp. Nhưng sau đó, khi cùng cô
Eriko nấu bếp buổi sáng, Mikage dần tìm lại được cảm giác thân thuộc mà cô
đã từng có được khi bà còn sống. Lúc đó, “căn phòng tràn đầy ánh nắng như
thể nó được làm toàn bằng kính. Bầu trời xanh dịu trải ra ngút tầm mắt, chói
chang” [1; 34]. Trên xe buýt cũng là một dạng căn phòng. Ngồi trong xe buýt,
trông ra những ô cửa sổ xe, Mikage đã được lắng tai nghe âm thanh của sự
sống: “tiếng trò chuyện rôm rả giữa lúc đang làm việc, tiếng xoong chảo, bát