Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN DẠY HỌC TÍCH HỢP TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT, ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.33 KB, 89 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TS. HOÀNG HỮU BỘI

TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN
DẠY HỌC TÍCH HỢP TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(Sản phẩm của đề tài Khoa học và công nghệ cấp Bộ trọng điểm
Mã số: B2010-TN03-30TĐ)

Thái Nguyên, 2011
1


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Đề tài Khoa học và công nghệ cấp Bộ trọng điểm
HÌNH THÀNH NĂNG LỰC DẠY HỌC TÍCH HỢP
CHO GIÁO VIÊN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Mã số: B2010-TN03-30TĐ

Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Nguyễn Phúc Chỉnh
Tham gia thực hiện đề tài:
1. PGS.TS Nguyễn Như Ất
- PPGD Sinh học
2. PGS.TS Nguyễn Văn Khải
- PPGD Vật Lý
3. PGS.TS Đỗ Hồng Thái
- PPGD Lịch sử


4. TS Hoàng Hữu Bội
- PPGD Ngữ Văn
5. TS Hoàng Thị Chiên
- PPGD Hoá học
6. Ths Tô Anh Tuấn
- PPGD Địa lý
7. Ths Ngô Giang Nam
- Thư ký đề tài

Thái Nguyên,
2011
2


MỤC LỤC
Chương 1. MỘT VÀI KHÁI NIỆM MỞ ĐẦU
1. Trào lưu sư phạm tích hợp ở nước ngoài ........................................................1
2. Dạy học tích hợp ở Việt Nam .........................................................................3
Chương 2. DẠY HỌC TÍCH HỢP Ở TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM
1. Đặc điểm văn bản và định hướng dạy học văn bản ........................................6
2. Tiến trình dạy học ...........................................................................................8
Chương 3. KHẢ NĂNG DẠY HỌC TÍCH HỢP Ở TRUYỆN KIỀU
1. Dạy học tích hợp Truyện Kiều với lịch sử tư tưởng Việt Nam .......................16
2. Dạy học tích hợp Truyện Kiều với mĩ học ......................................................25
3. Dạy học tích hợp Truyện Kiều với Làm văn ...................................................31
4. Dạy học tích hợp Truyện Kiều với tập làm thơ lục bát ...................................35
5. Dạy học tích hợp Truyện Kiều với rèn luyện kỹ năng ....................................47
6. Dạy học tích hợp Truyện Kiều với Ngữ pháp tiếng Việt ................................58
7. Thiết kế bài học tích đoạn Trao duyên.............................................................64
Chương 4. KHẢ NĂNG DẠY HỌC TÍCH HỢP KỊCH BẢN HỒN TRƯƠNG

BA DA HÀNG THỊT
1. Tích hợp với Tiếng Việt ..................................................................................75
2. Tích hợp với Làm văn .....................................................................................79
3. Tích hợp với Xã hội ........................................................................................82
KẾT LUẬN

3


Chương 1
MỘT VÀI KHÁI NIỆM MỞ ĐẦU
1. Trào lưu sư phạm tích hợp ở nước ngoài
Cuốn sách "Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các
năng lực ở nhà trường" của XavierRoegiers - Phó giám đốc Văn phòng Công
nghệ giáo dục và đào tạo của Liên minh châu Âu - do Đào Trọng Quang và
Nguyễn Ngọc Nhị dịch (Nhà xuất bản Giáo dục, 1996) cho ta biết một số điều
sau đây về dạy học tích hợp một số nước Tây Âu từ cuối thế kỉ XX.
1.1. Khoa sư phạm tích hợp ra đời là do nhu cầu khách quan của xã hội
Hiện nay, chúng ta đang sống trong một thế giới đang biến đổi mạnh
mẽ. Những thông tin có thể tiếp nhận trên hành tinh của chúng ta ngày càng
nhiều và càng dễ tiếp nhận đối với mỗi chúng ta nhờ các phương tiện thông
tin đại chúng và những mạng tin học. Do vậy, chức năng truyền thống của
giáo viên là truyền đạt kiến thức cho trẻ em ngày càng mất ý nghĩa, phải định
hướng lại chức năng đầu tiên này của giáo viên. Mặt khác, xã hội ngày càng
đòi hỏi con người phải đa năng. Nếu từ khi còn nhỏ tuổi học sinh quen tiếp
cận các khái niệm một cách rời rạc thì có nguy cơ sau này tiếp tục suy luận
theo kiểu khép kín, nghĩa là không có khả năng sử dụng các kiến thức đã lĩnh
hội được trong trường học vào cuộc sống hàng ngày, nhà trường cần phát
triển những năng lực của học sinh.
Khoa sư phạm tích hợp dựa trên tư tưởng năng lực cố gắng đáp lại

những thách thức đó của xã hội chúng ta.
1.2. Dạy học tích hợp trong nhà trường là nhằm hướng tới mục tiêu hình
thành ở học sinh năng lực thực tiễn
Nghĩa là biết sử dụng những kiến thức và kỹ năng học được ở nhiều
môn học vào việc xử lí một tình huống cụ thể, có ý nghĩa trong cuộc sống.
4


Ví dụ "Một y tá giỏi không phải là người biết nói cần phải tiêm như thế
nào, mà biết làm đúng khi cần phải tiêm. Một giáo viên giỏi không phải là
người biết nói phải tổ chức lớp học như thế nào, mà phải biết tổ chức dạy một
bài cụ thể".
Như vậy dạy học tích hợp trong nhà trường là dạy học sinh biết huy
động các kiến thức đã học vào các tình huống. Chẳng hạn, ở môn Ngữ văn,
học sinh có khả năng viết các văn bản ở các kiểu khác nhau để giao tiếp với
người khác, có khả năng đọc hiểu được các tác phẩm văn học, bằng cách huy
động các kiến thức về Văn học, Tiếng Việt và Làm văn.
1.3. Đã có nhiều trào lưu sư phạm tồn tại trong lịch sử
Một trào lưu sư phạm phản ánh quan điểm về người học và người dạy:
Người học là người tiếp nhận hay là người hành động? Người dạy là người
truyền thụ hay là người tổ chức hành động? Và cách thức thực hiện quan
điểm: dạy cho học sinh kiến thức hay là dạy cách học tập? Trào lưu sư phạm
tích hợp đề xuất cách tiếp cận đặc thù: phát triển các năng lực ở học sinh.
1.4. Quan điểm liên môn và xuyên môn
Những nhu cầu của xã hội hiện tại đòi hỏi chúng ta phải hướng tới một
quan điểm liên môn và xuyên môn. Quan điểm liên môn là phối hợp sự đóng
góp của nhiều môn học để nghiên cứu và giải quyết một tình huống. Quan
điểm xuyên môn là tìm cách phát triển ở học sinh những kĩ năng xuyên môn.
1.5. Mục tiêu của khoa sư phạm tích hợp
Khoa sư phạm tích hợp có 4 mục tiêu lớn:

- Làm cho quá trình học tập không cô lập với cuộc sống hàng ngày, tìm
cách hòa nhập thế giới nhà trường vào thế giới cuộc sống.
- Phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn trong quá trình học tập.
5


Có nhiều điều dạy cho học sinh nhưng không thật có ích. Ngược lại, có những
năng lực cơ bản không được dành đủ thời gian. Một học sinh tiểu học không
có khả năng đọc diễn cảm một bài văn.
- Dạy sử dụng kiến thức trong đời sống, làm cho học sinh trở thành
người lao động có năng lực, người tự lập, người công dân có trách nhiệm.
- Đảm bảo cho học sinh khả năng huy động có hiệu quả những kiến
thức và năng lực của mình để giải quyết tình huống xuất hiện, có thể đối mặt
với một khó khăn bất ngờ, một tình huống chưa từng gặp.
1.6. Các cách tích hợp
Có thể tích hợp kiến thức được lĩnh hội ở nhà trường bằng nhiều cách:
• Tích hợp trong phạm vi một môn học.
• Tích hợp xuyên môn (phát triển năng lực chung cho nhiều bộ môn).
• Tích hợp liên môn (vận dụng các thông tin lấy từ nhiều môn học khác
nhau để giải quyết một vấn đề).
2. Dạy học tích hợp ở Việt Nam
2.1. Sự xuất hiện của thuật ngữ “Dạy học tích hợp”
Ở Việt Nam, thuật ngữ "dạy học tích hợp" xuất hiện lần đầu tiên trong
"chương trình giáo dục phổ thông - thí điểm" của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
ban hành theo quyết định số 47/2002 QĐ/BGD-ĐT ngày 19/11/2002 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ở mục "Nguyên tắc xây dựng chương trình"
trong văn bản có ghi: "... Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để
tổ chức nội dung chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn các
phương pháp giảng dạy.
Tích hợp là sự phối hợp các tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với

nhau trong thực tiễn để chúng hỗ trợ và tác động vào nhau, phối hợp với
6


nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững chắc. Đó là quan
điểm đã được hầu hết các nước trên thế giới vận dụng từ lâu và hiệu quả đã
được kiểm nghiệm. Ở Việt Nam, do đã có sự tách bạch các phân môn trong
một thời gian dài, chưa có sự chuẩn bị cần thiết, đầy đủ, nên nguyên tắc tích
hợp đang được thực hiện từng bước dần dần".
Tóm lại, ở Việt Nam, dạy học tích hợp chỉ được nói tới và thực hiện
bước đầu trong lần đổi mới chương trình và sách giáo khoa tất cả các môn học
từ năm 2002 ở THCS và THPT năm 2006.
2.2. Dạy học tích hợp trong môn Ngữ văn
Trong văn bản "Chương trình giáo dục phổ thông - môn Ngữ văn", ban
hành theo quyết định số 16/2006/QĐ - BGD- ĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có ghi trong mục: "Quan điểm xây
dựng và phát triển chương trình" như sau: "... Nhằm tăng hiệu quả giáo dục
và tiết kiệm thời gian dạy học, chương trình môn Ngữ văn được xây dựng
theo tinh thần tích hợp. Có hai hướng chủ yếu tích hợp trong môn Ngữ văn:
tích hợp theo chiều ngang và tích hợp theo chiều dọc.
Tích hợp theo chiều ngang là gắn kết nội dung dạy kiến thức với nội
dung rèn kỹ năng của các phần Tiếng Việt, Làm văn với nội dung của phần
Văn học. Thông qua các hình tượng văn học và các tình huống giao tiếp bằng
Tiếng Việt văn hóa, môn Ngữ văn còn có khả năng kết hợp giáo dục công
dân, củng cố và mở rộng hiểu biết về văn hóa, xã hội cho học sinh.
Tích hợp theo chiều dọc là thiết kế những đơn vị kiến thức kỹ năng học
sau bao hàm những kiến thức và kỹ năng đã học trước nhưng ở mức cao hơn
và sâu hơn theo nguyên tắc đồng tâm và phát triển..."
3. Mục tiêu của việc vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học ngữ văn
ở trường trung học phổ thông

7


Ở đề tài nghiên cứu này, chúng tôi thử vận dụng những định hướng lý
thuyết về dạy học tích hợp vừa nêu ở trên vào việc dạy học theo tinh thần tích
hợp ở một số tác phẩm văn học cụ thể trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT,
thuộc cả ba bộ phận: Văn học dân gian, Văn học trung đại Việt Nam và Văn
học hiện đại Việt Nam.
Hướng nghiên cứu của chúng tôi là khai thác các khả năng có thể dạy
học tích hợp được ở từng tác phẩm, chỉ rõ những nội dung có thể tích hợp
được để giáo viên vận dụng vào việc dạy học tích hợp ở tác phẩm đó.
Về Văn học dân gian chúng tôi đề xuất cách dạy tích hợp ở truyện cổ
tích Tấm Cám (luận văn thạc sĩ triển khai theo hướng nghiên cứu của đề tài).
Về Văn học Trung đại Việt Nam, chúng tôi đề xuất nội dung dạy tích
hợp ở kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Về Văn học hiện đại Việt Nam, chúng tôi đề xuất nội dung dạy tích hợp
ở kịch bản văn học Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, trích
đoạn ở Ngữ văn 12.
Hiện nay, ở trường phổ thông Việt Nam chỉ mới bước đầu thực hiện
dạy học theo tinh thần tích hợp chứ chưa trở thành một trào lưu sư phạm như
một số nước trên thế giới. Do vậy, ở đề tài nghiên cứu này chúng tôi chú ý
vào khả năng tích hợp ở một số tác phẩm văn học cụ thể trong chương trình
đọc văn ở THPT. Chúng ta đang thực thi chương trình giáo dục định hướng
nội dung, chỉ khi nào chúng ta đổi mới chương trình giáo dục định hướng
phát triển năng lực (định hướng đầu ra) thì khi đó việc dạy học tích hợp mới
có điều kiện thực thi triệt để.

8



Chương 2
DẠY HỌC TÍCH HỢP Ở TRUYỆN CỔ TÍCH "TẤM CÁM"
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học Văn Tiếng Việt của chị Nguyễn Thị Kim Dung với đề tài "Dạy học truyện cổ tích
Tấm Cám trong SGK Ngữ văn 10 theo hướng tích hợp" (thực hiện năm 2011)
đề xuất dạy học tích hợp như sau:
1. Đặc điểm văn bản và định hướng dạy học văn bản
1.1. Văn bản này là một văn bản tự sự - một truyện cổ tích thần kì rất
tiêu biểu cho thể loại: Truyện Tấm Cám. Đây là một kiểu truyện phổ biến
trong truyện cổ tích Việt Nam và thế giới.
Về mặt thể loại, tác phẩm truyện gồm 3 yếu tố: cốt truyện, nhân vật và
lời kể. Cốt truyện là hệ thống các sự kiện, ở Tấm Cám gồm các sự kiện về hai
chặng đời của nhân vật Tấm. Chặng đời sống với hai mẹ con Cám với những
đày ải độc ác của hai mẹ con Cám, nhưng nhờ Bụt giúp đỡ nên trở thành
hoàng hậu. Và chặng đời sau khi chết với những đấu tranh quyết liệt với mẹ
con Cám để giành lại hạnh phúc.
Câu chuyện đó được kể với những lời kể giản dị, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ
thuộc: "Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Mẹ Tấm chết từ hồi
Tấm mới biết đi..." Lối kể ấy cùng với những yếu tố kì ảo đã tạo nên giá trị
nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm.
Bằng câu chuyện trên, người bình dân xưa bày tỏ ước mơ của họ về
hôn nhân hạnh phúc, về công bằng xã hội (cái thiện phải thắng cái ác).
1.2. Đưa học sinh lớp 10 THPT đến với truyện cổ tích Tấm Cám với
những định hướng dạy học tích hợp, cho nên nội dung bài học và phương
pháp dạy học phải điều chỉnh chút ít so với giờ học thông thường.
9


Bài học sẽ gồm 2 nội dung chính:
- Thâm nhập vào hình tượng nhân vật Tấm ở hai chặng của cuộc đời cô
với hệ thống những sự kiện và chi tiết hấp dẫn, được kể bằng những lời kể

giản dị, trong sáng, dân dã (tiếp cận tác phẩm từ đặc trưng thể loại: cốt truyện,
nhân vật, lời kể).
- Sau đó khai thác các yếu tố có thể tích hợp được từ văn bản truyện cổ
tích Tấm Cám:
1.2.1. Tích hợp văn hóa bao gồm những nét văn hóa truyền thống của
dân tộc Việt Nam:
- Tục thờ cúng tổ tiên (Tấm về cúng giỗ cha).
- Tục mời trầu (bà cụ hàng nước mời trầu nhà Vua).
- Trang phục của người phụ nữ Việt Nam xưa trong ngày thường và đi
lễ hội (cái yếm đỏ và bộ đồ đi trẩy hội của Tấm).
- Hội hè đình đám đông vui (nhà Vua mở hội tuyển người vào cung).
- Triết lí dân gian về sự công bằng xã hội: ở hiền gặp lành, ác giả ác
báo, trời có mắt...
1.2.2. Tích hợp ngang
- Từ văn bản truyện Tấm Cám giúp học sinh học tập về xây dựng cốt
truyện gồm 5 thành phần (trình bày - thắt nút - phát triển - đỉnh điểm - mở
nút) và học tập về lời kể ngắn gọn, giản dị, giàu chất dân dã, cách tóm tắt văn
bản tự sự, cách chọn sự việc, chi tiết tiêu biểu (Làm văn).
- Từ văn bản Tấm Cám có thể giúp học sinh luyện tập về nghĩa của từ,
về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt... (Tiếng Việt).
1.2.3. Tích hợp dọc
10


- Nhắc lại những truyện cổ tích ở lớp 6, hệ thống hóa những tri thức về
thể loại truyện cổ tích (khái niệm, phân loại, đặc điểm về cốt truyện, nhân vật,
lời kể). Cốt truyện thường gồm 5 thành phần; nhân vật không mang tính cá
thể mà mang tính đại diện cho một loại người nào đó trong xã hội; lời kể gồm
kể, tả, đối thoại... (Lí luận văn học).
2. Tiến trình dạy học

Hoạt động 1: Đọc văn bản và nói về tính phổ biến của truyện cổ tích Tấm
Cám
1.1. Đọc văn bản: GV cho học sinh đọc diễn cảm toàn bộ văn bản để
đánh thức trí tưởng tượng và xúc cảm của học sinh với số phận nhân vật Tấm
trong "thế giới cổ tích". Sau đó có thể cho 1 HS có năng khiếu kể lại.
1.2. Truyện "Tấm Cám" thuộc loại truyện cổ tích thần kì.
Truyện Tấm Cám là truyện cổ tích quen thuộc và phổ biển nhất của
Việt Nam và thế giới. Theo thống kê của nữ sĩ người Anh, trên thế giới có
564 kiểu truyện Tấm Cám. Ở Việt Nam có 30 kiểu truyện Tấm Cám, tiêu biểu
là nhất là Ý Uởi - Ý Noọng của người Thái.
Cô Tấm đã đi vào đời sống văn hóa của nhân dân Việt Nam từ bao đời.
Số phận cô được nhân dân cảm thông và chia sẻ, để rồi từ trong truyện cổ tích
cô bước vào cuộc đời, vào thơ, ca, nhạc, họa...
Hoạt động 2: Thâm nhập vào hình tượng nhân vật Tấm
2.1. Tấm bị mẹ con Cám đày đọa và sát hại
Gợi dẫn 1: Trong những năm tháng sống chung với mẹ con Cám, cô bé
mồ côi Tấm đã trải qua mấy lần bị đày đọa và sát hại? Tấm phản ứng như thế
nào trước sự hành hạ của mẹ con Cám và Bụt đã giúp đỡ Tấm như thế nào?
Yêu cầu: HS phải trả lời bằng nhắc lại lời kể trong văn bản ở SGK.
11


Lần 1: Tấm bị Cám "trút hết tôm tép vào giỏ của mình và về trước mất rồi".
- Phản ứng của Tấm: "Tấm ngồi xuống bờ ruộng, bưng mặt khóc nức nở".
- Bụt hiện lên bảo Tấm đem con cá bống về thả xuống giếng nuôi nó
theo cách: "mỗi bữa đáng ăn ba bát thì con ăn hai, còn một đem cho bống.
Mỗi lần cho ăn con nhớ gọi: Bống bống bang bang..."
Lần 2: Mẹ con Cám "bắt cá bống đem về làm thịt".
- Phản ứng của Tấm: "ăn xong, Tấm lại đem cơm cho bống... không
thấy bống đâu cả... Tấm bưng mặt khóc òa".

- Bụt hiện lên bày cho Tấm: "nhặt xương nó, kiếm lấy bốn cái lọ mà
đựng, rồi đem chôn ở bốn chân giường".
Lần 3: Mẹ con Cám không cho Tấm đi trẩy hội: "lấy một đấu gạo trộn
với đấu thóc" bắt Tấm nhặt.
- Phản ứng của Tấm: "Tấm bực mình, tủi thân òa lên khóc".
- Bụt hiện lên "sai một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp" rồi lại bảo Tấm
"đào bốn cái lọ ở chân giường lên thì sẽ có quần áo mặc".
Lần 4: Mẹ con Cám sát hại Tấm.
- Phản ứng của Tấm: "Tấm vâng lời, trèo lên cây... Thấy cây rung
mạnh, Tấm hỏi, mụ trả lời: - Dì đuổi kiến cho con đấy mà."
- Tấm chết, mụ dì ghẻ "lột hết quần áo của Tấm mặc vào cho Cám..."
Quả là cái ác đã hiện hình qua mẹ con Cám. Mâu thuẫn này thể hiện sự
xung đột trong gia đình thời cổ. Song chủ yếu là mâu thuẫn giữa cái thiện và
cái ác trong xã hội.
Mỗi khi Tấm khóc là Bụt lại xuất hiện để an ủi và giúp đỡ cô: Tấm mất
yếm đào Bụt cho cá bống; Tấm mất cá bống Bụt cho hy vọng đổi đời; Tấm
12


không được đi xem hội, Bụt cho chim sẻ đến giúp và đưa Tấm đến đỉnh cao
hạnh phúc: Tấm trở thành hoàng hậu.
Bụt là nhân vật tôn giáo, nhưng đã được dân gian hóa để trở thành ông
lão hiền lành, tốt bụng để giúp đỡ những người bất hạnh. Đây là yếu tố thần
kì thường có trong truyện cổ tích (Thần, Tiên, Bụt...). Nhân vật Bụt thường
đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện và thể hiện thái độ, tình cảm
của nhân dân đối với những người bất hạnh; thể hiện ước mơ về hạnh phúc và
công bằng xã hội (HS so sánh các truyện cổ tích đã học như: Sọ Dừa, Thạch
Sanh...).
2.2. Sau khi chết, Tấm hóa thân trở về đấu tranh giành lại hạnh
phúc

Gợi dẫn 2: Từ một cô gái mồ côi, Tấm trở thành hoàng hậu. Mẹ con
Cám còn thực hiện những dã tâm nào nữa? Lần này, Tấm có bị động và yếu
ớt như trước nữa không?
Yêu cầu:
Theo quy luật sáng tạo của truyện cổ tích thần kì, tiến trình mới lại diễn
ra theo kết cấu đặc trưng của truyện cổ tích: Tấm trở thành hoàng hậu với
cuộc sống hạnh phúc. Mẹ con Cám đã giết Tấm và Tấm hóa thân trở về để
đấu tranh giành lại hạnh phúc.
Hóa thân lần 1: Hóa thành chim vàng anh.
- Tấm chết, hóa thành chim vàng anh quấn quýt bên vua, hót mắng
Cám:
"Giặt áo chồng tao
Thì giặt cho sạch..."
- Cám "vừa lo sợ, vừa tức giận"
13


Hóa thân lần 2: Hóa thành cây xoan đào.
- Vàng anh bị giết, "Chỗ chôn lông chim mọc lên cây xoan đào thật
đẹp" tỏa bóng mát cho vua nằm.
- Cám "không nói ra nhưng trong lòng ghen lồng ghen lộn".
Hóa thân lần 3: Hóa thành khung cửi.
- Xoan đào bị chặt, hóa thành khung cửi, mỗi khi Cám dệt vải khung
cửi kêu:
"Cót ca cót két,
Lấy tranh chồng chị
Chị khoét mắt ra"
- Cám "sởn cả tóc gáy không dám dệt nữa".
Hóa thân lần 4: Hóa thành quả thị.
- Khung cửi bị đốt, đống tro bên đường mọc lên cây thị, có một quả

duy nhất chín vàng. Từ quả thị Tấm bước ra "trở thành cô Tấm xinh đẹp".
- "Cám thấy Tấm xinh đẹp hơn xưa, sinh lòng ghen ghét..."
Như vậy ở chặng thứ hai này, mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám
không hề giảm mà ngày càng gay gắt quyết liệt. Đây không còn là mâu thuẫn
gia đình mà đã phát triển thành xung đột mất còn mang tính xã hội. Mẹ con
Cám tìm đủ mọi cách truy đuổi hòng tiêu diệt bằng được Tấm để độc chiếm
ngôi vị hoàng hậu, trọn đời hưởng vinh hoa phú quý.
Sự phản ứng mạnh mẽ và quyết liệt của Tấm: ở chặng thứ 2 này khác
hẳn với trước. Một cô Tấm hiền lành, yếu ớt vừa ngã xuống thì một cô Tấm
mạnh mẽ, quyết liệt đã sống dậy, trở về với cuộc đời để đòi hạnh phúc. Sau
mỗi lần bị giết, bị chặt, bị đốt Tấm đều không chết, đều tìm cách hóa thân
14


sang kiếp khác, vật khác, đều tìm cách mắng rủa tố cáo tội ác cướp chồng,
giết chị của Cám.
Gợi dẫn 3: Những lần hóa thân trở về đấu tranh giành lại hạnh phúc
của Tấm trong "thế giới cổ tích" có ý nghĩa như thế nào?
Yêu cầu:
- Những vật hóa thân cũng đều là những yếu tố kì ảo. Song nó khác hẳn
yếu tố kì ảo như ông Bụt ở phần đầu truyện. Ở phần đầu, Bụt hiện lên mỗi lần
Tấm khóc. Ở đây Tấm không hề khóc, không thấy có sự xuất hiện của Bụt.
Tấm phải tự mình giành và giữ hạnh phúc.
- Tác giả dân gian gửi gắm quan niệm: Mỗi người phải tự mình đấu
tranh chống lại cái ác để giành và giữ lấy hạnh phúc của mình, có như vậy
hạnh phúc mới bền chặt.
2.3. Chi tiết kết thúc truyện Tấm Cám
Gợi dẫn 4: Em có suy nghĩ gì về chi tiết Tấm trả thù, kết truyện?
- Đây là ý kiến còn gây nhiều băn khoăn, chưa thống nhất. Nhiều người
cho rằng làm như vậy là thỏa đáng, trừng phạt như vậy hoặc nặng hơn vẫn

phù hợp. Nhưng cũng không ít người cho rằng làm như thế là độc ác không
phù hợp với bản chất và tính cách của Tấm. Có người còn cho rằng cách xử
trí của Thạch Sanh hay hơn, đẹp hơn, phù hợp với truyền thống khoan hồng,
độ lượng của nhân dân ta hơn cách làm của Tấm.
- Ý kiến của em như thế nào? (HS tiếp tục suy nghĩ)
Hoạt động 3: Thực hiện dạy học tích hợp
Gợi dẫn 5: Từ văn bản truyện cổ tích Tấm Cám, em có được những
hiểu biết gì về văn hóa, về Làm văn, về Tiếng Việt, về Lí luận văn học?
Yêu cầu:
15


3.1. Tích hợp văn hóa
Qua truyện cổ tích Tấm Cám, GV giúp HS nắm được những nét văn
hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam:
- Tục thờ cúng tổ tiên (Tấm về cúng giỗ cha).
- Tục mời trầu (bà cụ hàng nước mời trầu nhà Vua). Nhờ miếng trầu
têm cánh phượng mà nhà Vua nhận ra người vợ đảm đang khéo léo của mình.
Miếng trầu là hình ảnh quen thuộc trong đời sống văn hóa gắn với phong tục
hôn nhân. Nhận trầu và ăn trầu là nhận lời giao ước, kết đôi:
+ Miếng trầu nên dâu nhà người.
+ Miếng trầu ăn ngọt như đường
Đã ăn lấy của phải thương lấy người.
Vì vậy miếng trầu mang ý nghĩa giao duyên không thể không có mặt
trong sự hội ngộ giữa nhà Vua và Tấm.
- Trang phục của người phụ nữ Việt Nam xưa trong ngày thường và đi
lễ hội (cái yếm đỏ và bộ đồ đi trẩy hội của Tấm).
- Hội hè đình đám đông vui (nhà Vua mở hội tuyển người vào cung).
- Triết lí dân gian về sự công bằng xã hội: ở hiền gặp lành, ác giả ác
báo, trời có mắt... Sự hóa thân trở về với cuộc đời của Tấm phản ánh ước mơ

"ở hiền gặp lành" của nhân dân, điều đó cũng thể hiện quan niệm và ước mơ
hết sức thực tế về hạnh phúc của người lao động. Họ không tìm hạnh phúc ở
cõi thần tiên cực lạc nào khác mà tìm và giữ hạnh phúc ở ngay chính cõi trần
này. Phần lớn các truyện cổ tích thần kì thường có kết cấu phổ biến: nhân vật
chính trải qua những hoạn nạn, thử thách, cuối cùng sẽ được hưởng hạnh
phúc.
3.2. Tích hợp với Làm văn và Tiếng Việt (tích hợp ngang)
16


- Từ văn bản truyện Tấm Cám, giúp học sinh học tập về xây dựng cốt
truyện gồm 5 thành phần (trình bày - thắt nút - phát triển - đỉnh điểm - mở
nút) và học tập về lời kể ngắn gọn, giản dị, giàu chất dân dã, cách tóm tắt văn
bản tự sự, cách chọn sự việc, chi tiết tiêu biểu (Làm văn).
- Từ văn bản Tấm Cám có thể giúp học sinh luyện tập về nghĩa của từ,
về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt...(Tiếng Việt).
3.3. Tích hợp với Lí luận văn học (tích hợp dọc)
Nhắc lại những truyện cổ tích ở lớp 6, hệ thống hóa những tri thức về
thể loại truyện cổ tích (khái niệm, phân loại, đặc điểm về cốt truyện, nhân vật,
lời kể).
- Chương trình Ngữ văn 6 với 3 truyện cổ tích Việt Nam: Sọ Dừa,
Thạch Sanh, Em bé thông minh.
- Truyện cổ tích gồm 3 loại: truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích thần
kì, truyện cổ tích sinh hoạt.
- Truyện cổ tích thần kì thường có yếu tố hoang đường, thể hiện ước
mơ cháy bỏng của nhân dân lao động về hạnh phúc gia đình, về lẽ công bằng
xã hội, về sự chiến thắng của cái thiện đối với cái ác, cái tốt đối với cái xấu...
Cốt truyện thường gồm 5 thành phần: Phần trình bày giới thiệu tình
huống có mâu thuẫn dẫn đến sự kiện. Thắt nút là sự kiện xảy ra báo hiệu một
thay đổi chứa đựng những nguy cơ, dẫn đến sự kiện khác. Phát triển là chuỗi

sự kiện xảy ra tiếp theo sau thắt nút cho đến đỉnh điểm. Đỉnh điểm (cao trào)
là sự kiện đánh dấu mâu thuẫn gay gắt đến mức bùng nổ. Mở nút là sự giải
quyết mâu thuẫn. Sau mở nút thường là hết truyện.
Trong truyện Tấm Cám, đoạn giới thiệu hoàn cảnh của Tấm là phần
trình bày. Sự kiện Cám lừa lấy giỏ tép của Tấm là thắt nút. Các sự kiện Tấm
nuôi cá bống, bống bị giết, chôn xương cá... đều là sự phát triển. Tấm trở về
17


với Vua là đỉnh điểm. Cám và mẹ chết là mở nút. Đây là mô hình truyện khép
kín. Còn cốt truyện trong tác phẩm hiện đại không nhất thiết có đủ các thành
phần và tuân theo trật tự cố định.
Nhân vật không mang tính cá thể mà mang tính đại diện cho một loại
người nào đó trong xã hội.
Lời kể gồm kể, tả, đối thoại.

18


Chương 3
KHẢ NĂNG DẠY HỌC TÍCH HỢP Ở KIỆT TÁC TRUYỆN
KIỀU CỦA NGUYỄN DU
Mục tiêu của mỗi bài học dạy theo tinh thần tích hợp là tạo nên ở học
sinh một năng lực. Bài học về Truyện Kiều dạy theo tinh thần tích hợp nhằm
hình thành ở học sinh năng lực cảm và hiểu kiệt tác đầy đủ hơn từ góc nhìn
những sáng tạo nghệ thuật tài tình của Nguyễn Du.
* Khái quát về khả năng dạy học tích hợp ở Truyện Kiều:
- Tích hợp với lịch sử, tư tưởng phương Đông.
- Tích hợp xã hội: vai trò đồng tiền trong xã hội phong kiến thời Nguyễn Du.
- Tích hợp với Làm văn: phân tích tâm lý nhân vật.

- Tích hợp với Làm văn: nghệ thuật làm thơ lục bát.
- Tích hợp với Tiếng Việt: kĩ năng dùng từ, đặt câu.
- Tích hợp với Tiếng Việt: ngữ pháp tiếng Việt.
Những kết quả nghiên cứu đặc sắc của nhà nghiên cứu phong cách học
tài ba và uyên bác Phan Ngọc được trình bày trong cuốn “Tìm hiểu phong
cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” có thể giúp thầy và trò ở trung học phổ
thông thực thi nguyên tắc tích hợp khi dạy học Truyện Kiều.
Chúng tôi dựa vào cuốn sách trên để đề xuất dạy học tích hợp Truyện
Kiều.
1. Dạy học tích hợp Truyện Kiều với lịch sử tư tưởng Việt Nam
Có thể dựa vào văn bản Truyện Kiều mà trang bị thêm cho học sinh
kiến thức về lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn Nguyễn Du viết Truyện
Kiều để họ hiểu được những vấn đề tư tưởng của tác phẩm.
19


1.1. Vấn đề tài mệnh tương đố
Tác phẩm Truyện Kiều bắt đầu bằng bốn câu thơ:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”
Nghĩa của nó là: trong cuộc đời một trăm năm mà tôi đã trải qua, cái tài
và cái mệnh đối lập nhau khủng khiếp. Trong cuộc bể dâu Lê Mạt - Nguyễn
Sơ mà tôi đã chứng kiến, một cuộc bể dâu cụ thể gói tròn trong một trăm năm,
những điều tôi thấy làm tôi đứt ruột” (Phan Ngọc - Tìm hiểu phong
cách…trang 49). Và kết thúc Truyện Kiều có câu:
“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.”
Ở đây có một vấn đề về tư tưởng: tài mệnh tương đố. “Tài là tư chất

hay năng lực giỏi của người ta… Mệnh là vận số do trời định”(Từ điển
Truyện Kiều - Đào Duy Anh).
“Tài mệnh tương đố” là tài và mệnh đố kỵ nhau, người tài hoa thường
lâm vào cảnh bạc mệnh, tức là số mệnh mỏng manh. Lí thuyết tài mệnh tương
đố là chủ đề tư tưởng của Nguyễn Du trong Truyện Kiều.
Qua khảo sát nghiêm túc, khoa học và rất công phu, nhà nghiên cứu
Phan Ngọc đã có những kết luận sau đây về “Câu chuyện tài mệnh tương đố”.
Chúng tôi tóm lược và sắp xếp lại những kết luận khoa học của cụ Phan Ngọc
theo mạch lập luận của mình.
1.1.1. “Ai cũng cho rằng tài mệnh tương đố là một sáo ngữ không có gì
mới mẻ… Nhưng đây là lí thuyết của Nguyễn Du, không phải vay mượn. Nó
20


không phải là một vấn đề có tính chất muôn thuở, mà nẩy sinh trong một giai
đoạn lịch sử nhất định. Nguyễn Du ở đây là một thiên tài, chính vì ông nâng
thành một vấn đề của mọi thời đại”. Nhà nghiên cứu chứng minh như sau:
1.1.1.1. Nguyễn Du đã dựa vào cuốn tiểu thuyết được viết bằng văn
xuôi Kim Vân Kiều truyện của một tác giả người Trung Quốc là Thanh
Tâm Tài Nhân để viết ra Truyện Kiều. Cuốn Kim Vân Kiều Truyện không
hề xây dựng trên lý thuyết “tài mệnh tương đố” trái lại tư tưởng chủ đạo
của nó là tình và khổ.
1.1.1.2. Theo Nguyễn Du, tấn bi kịch “tài mệnh tương đố” là chung cho
cả loài người:
Rằng hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
Điều nói trên đây là hết sức quan trọng. Nó chứng tỏ khi viết Truyện
Kiều, Nguyễn Du đã thay đổi chủ đề của tác phẩm, chuyển chủ đề từ tình và
khổ sang tài và mệnh. Ông đã đưa tư tưởng của mình vào để tổ chức lại toàn
bộ câu chuyện, chứ không vay mượn nó ở Thanh Tâm Tài Nhân.

1.1.1.3. Trong tư tưởng Trung Quốc, từ Hán về trước, không bao giờ có
ai nói đến chuyện tài mệnh tương đố.
1.1.1.4. Tư tưởng này không thể là của Phật giáo, bởi vì Phật giáo
khẳng định cái khổ là nằm trong sự sống, hễ sống là khổ, đời là bể khổ, bất cứ
ai, dù là hồng nhan hay không hồng nhan, người tài hay bất tài,…
Tư tưởng Trang Lão lại càng không phải thế. Trang Lão chủ trương
sống chết như nhau, được thua là một. Nó cũng không thể bắt nguồn từ văn
học dân gian vì đặc điểm của văn học dân gian là tư tưởng lạc quan.
1.1.1.5. Ở Việt Nam trước thế kỷ XVIII, nói chung không có bóng dáng
21


câu chuyện này…
Từ khi Pháp xâm lược cho đến năm 1930, tất cả những người tiêu biểu
cho thời đại đều cảm thấy mình bất tài, thì làm gì có cơ sở cho thuyết tài
mệnh tương đố?
1.1.2. Tư tưởng tài mệnh tương đố, cũng như tư tưởng hồng nhan bạc
mệnh hoàn toàn không phải là một sáo ngữ. Trái lại, đó chính là một tư tưởng
có nội dung lịch sử cụ thể, tư tưởng riêng của thời Lê Mạt - Nguyễn Sơ. Trong
giai đoạn này, lịch sử và xã hội Việt Nam trải qua những thay đổi hết sức sâu
sắc.
1.1.2.1. Chúa Trịnh đã chiếm quyền vua Lê, tức là đã vi phạm truyền
thống một chủ duy nhất của nước Việt Nam. Nguyễn Hoàng vào trấn thủ
Thuận Hóa, lúc đầu chỉ đề an thân, nhưng sau thế lực lớn lên, xây dựng miền
Đàng trong thành một chỗ dựa vững chắc để chống lại chúa Trịnh. Lúc này,
lần đầu tiên ở Việt Nam có hai vùng. Từ đó xuất hiện tư tưởng tìm chủ mà
thờ. Đào Duy Từ là người mở đầu cho xu hướng này, và tư tưởng lấy sự trung
thành với dòng họ nhà vua làm nội dung của chữ Trung cũng xuất hiện và
thịnh hành ở cả hai miền. Cả chúa Nguyễn lẫn chúa Trịnh đều đề cao tư tưởng
coi trọng dòng họ của nhà vua (nhà Lê) để chống lại nhau. Chỉ đến khi Lê

Chiêu Thống rước quân Thanh về thì uy tín của nhà Lê sụp đổ và Nguyễn
Huệ lên ngôi ngay ở Phú Xuân.…
1.1.2.2. Cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn kéo dài dẫn tới những hậu quả
quan trọng về kinh tế và tư tưởng.
Ở Đàng ngoài, chúa Trịnh cần tiền để tiến hành cuộc tiến quân xuống
phía Nam, nên có chủ trương bán đất công cho tư nhân và để cho ngoại
thương vào tận Phố Hiến, làm cho kinh tế thương nghiệp phát triển và nẩy
sinh một tầng lớp thị dân ở thành phố. Một tầng lớp giàu có nổi lên nhờ buôn
22


bán chứ không nhờ làm quan và đạo Giatô du nhập vào. Tư tưởng mới từ
ngoài đưa vào đó được lớp dân buôn và dân lưu tán ở Phát Diệm và Bùi Chu
thích vì họ không nằm trong công xã.
Ở Đàng trong, chúa Nguyễn cũng cần tiền để xây thành luỹ nên cũng
phải mở rộng ngoại thương, thế là hình thành một tầng lớp thương nhân thích
tiền, thích hưởng thụ, nghĩ đến cá nhân. Kinh tế hàng hoá đã làm ảnh hưởng
đến văn hoá: thể loại hát nói ra đời để ca ngợi cuộc sống hưởng lạc. Sau đó là
nghề in trở thành hoạt động kiếm tiền và xuất hiện tư tưởng lưu truyền hậu
thế bằng văn học (Lê Quý Đôn, Văn phái họ Ngô, Lê Hữu Trác,…); các tài tử
ra đời thay thế cho các quân tử (Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá
Quát,…).
1.1.2.3. Cơ sở kinh tế xã hội thời Lê Mạt đã dẫn đến sự thay đổi về tư
tưởng ở giai đoạn này.
- Nét bất biến thứ nhất làm thành phong cách của thời đại đó là mọi
người đều cảm thấy xã hội cũ đang tan vỡ, mọi giá trị của nó đứt tung không
tài nào cứu vãn nổi.
Bài Văn tế thập loại chứng sinh của Nguyễn Du là bản cáo trạng vô
song, phơi bày tất cả sự đổ vỡ của xã hội cũ, chữ tài từ chỗ là một từ kiêng kỵ
của thời đại trước, trở thành một ý niệm động lực của thời đại mới.

- Nét tiêu biểu thứ hai của thời đại này là mọi người đều “ý thức về
cái tài của mình, đều khoe tài” và đều đòi hỏi phải đãi ngộ họ xứng đáng
với cái tài của họ.
Tất cả những người có thực trong thời đại này đều khoe tài. Về nam
giới có Nguyễn Huệ, Nguyễn Hữu Chỉnh, Đặng Trần Thường, Nguyễn Công
Trứ, Cao Bá Quát, Phan Huy Ích, Ngô Thời Nhậm,… Về nữ giới có Đoàn Thị
Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan,… Những con người trong
23


văn học cũng khoe tài như thế.
- Rõ ràng trong ý thức của thế hệ mới có một sự chuyển hoá. Thế hệ cũ
ca ngợi cuộc sống nghèo thì thế hệ mới chửi bới cuộc sống nghèo khổ
(Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn người đến
chốn lao xao”. Còn Nguyễn Công Trứ: “Chém cha cái khó, chém cha cái
khó! Khôn khéo mấy ai? Xấu xa một nó…”.
- Như vậy, vấn đề tài ở thời đại Nguyễn Du đặt ra với ba đặc điểm: phổ
biến, lộ liễu và gay gắt. Truyện Kiều phản ánh thời đại của nó, và tư tưởng tài
mệnh tương đố là vay mượn ở chính thời đại chứ không phải là một sáo ngữ
như ta vẫn tưởng. Và cống hiến của Nguyễn Du là biến câu chuyện nhất thời
thành câu chuyện muôn đời.
1.1.3. Bước vào “thế giới của Truyện Kiều”, chúng ta ngạc nhiên trước
hết ở điểm tại sao đến đây có lắm người tài đến thế? Nàng Kiều “tài sắc”,
Đạm Tiên “nổi danh tài sắc một thì”, Kim Trọng “bậc tài danh”, Sở Khanh
cũng biết làm thơ, Thúc Sinh cũng biết làm một bài thơ Đường Luật, Hồ Tôn
Hiến cũng “kinh luân gồm tài”…
Mặt khác, đã sống trong thế giới của tài năng, thì phải biết quí trọng
tài. Ông quan xem thơ Kiều nói: “Tài này, sắc ấy nghìn vàng chưa cân".
Hoạn Thư rất ghét Kiều nhưng lại năm lần khen Kiều có tài: “Rằng hoa nở
đủ mọi tài…”. Nhân vật nào trong Truyện Kiều cũng ý thức được cái tài của

mình và tất cả những con người ấy đều thất bại.
Tóm lại Truyện Kiều phản ánh trung thành cách nhìn của thời đại
Nguyễn Du.
1.1.4. Nguyễn Du đã dùng những thủ pháp nghệ thuật gì mà thời đại
chưa làm được, để nâng một câu chuyện thuần tuý lịch sử thành một câu
chuyện muôn thuở.
24


1.1.4.1. Nguyễn Du bắt ta thừa nhận cái tài khách quan và qui luật tạo
vật đố tài là khách quan. Trường hợp Thuý Kiều là một thí dụ: 11 người thừa
nhận Kiều có tài (Thầy tướng, Kim Trọng, Mã Giám Sinh, Thúc Sinh, Hoạn
Thư, Từ Hải, họ Đô, Viên Quan, Hồ Tôn Hiến,…). 6 người thừa nhận Từ Hải
là người anh hùng (Từ Hải, tác giả, Kiều, Hồ Tôn Hiến, họ Đô, Thúc Sinh).
Đó là cách làm mà trong lịch sử văn học Việt Nam chưa ai làm được.
1.1.4.2. Nguyễn Du đặt vấn đề tài mệnh tương đố thành một cuộc đấu
tranh giữa tài và mệnh. Ông đã cấu trúc Truyện Kiều như một vở kịch, làm
cho trong cuộc đấu tranh đó, có lúc tài thắng, có lúc mệnh thắng, có lúc hai
thế lực này hoà hoãn với nhau. Về điểm này, Nguyễn Du không hề vay mượn
gì ở Kim Vân Kiều truyện cũng như ở truyền thống truyện Nôm ở Việt Nam.
1.1.4.3. Nguyễn Du đã nâng câu chuyện tạo vật đố tài lên mức thang
của nhân loại. Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát và nghệ sĩ đương thời, chỉ
thấy vấn đề tài ở lĩnh vực một người (chính tác giả) hoặc chỉ thấy trong phạm
vi một tầng lớp (tác giả của Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm). Trước
Nguyễn Du chưa ai đặt vấn đề này ở mức thang nhân loại. Vì thế Mộng Liễu
Đường chủ nhân đã nói rất đúng: Nguyễn Du “có con mắt nhìn suốt sáu cõi,
có cái nhìn trông thấy được ngàn đời”. Nguyễn Du đã làm như thế nào?
- Nguyễn Du đã xây dựng Thuý Kiều thành người tập trung tất cả
những đau khổ của người đàn bà thời trước.
Kiều đã 7 lần lấy chồng (Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Thúc Sinh, Bạc

Hạnh, Từ Hải, Thổ Quan, Kim Trọng), hai lần làm lẽ (làm lẽ Tú Bà, làm lẽ
Hoạn Thư); một lần làm đầy tớ (ở nhà họ Hoạn), hai lần làm đĩ (ở nhà Tú Bà
và ở nhà Bạc Bà), một lần làm phu nhân (lấy Từ Hải), bốn lần đi tu (ở nhà
Hoạn Thư, ở Chiêu Ẩn am, sau khi được Giác Duyên cứu, và ở nhà Kim
Trọng). Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Kiều cũng giữ tính cách của mình, con
người có đầy đủ ý thức về giá trị của mình.
25


×