Lời nói đầu:
Đạo Phật đã từ lâu đã được xem là một tôn giáo gần gũi với cuộc sống người dân
Việt Nam nói riêng và phương Đông nói chung. Đạo Phật theo thời gianđối với người
dân Việt Nam và Á Đông đã dần trở thước đo chuẩn mực về đạo đức, từ cách sống,
cách giáo dục và tư tưởng, đều gắn liền và thấm nhuần tư tưởng của đạo Phật.
Phật giáo ngày nay đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử phát triển và hội nhập, trở
thành một trong những tôn giáo lớn trên thế giới với số lượng tín đồ đông đảo, hoạt
động Phật sự phong phú, đa dạng đang ngày càng thâm nhập vào mọi mặt của đời sống
xã hội ngoài đạo. Các nhà sư một mặt tập trung tham cứu Phật pháp khai thác những
mặt tích cực của lý luận, tư tưởng Phật giáo có thể phát triển hơn nữa Phật giáo trong
bối cảnh hiện đại, mặt khác đồng thời tham gia các hoạt động xã hội, đưa Phật giáo đến
gần với các nhu cầu thiết thực mà đời sống xã hội hiện đại còn khổ đau đang tìm kiếm
hướng giải quyết.
Ở phương Đông, con người, cả ở Trung Quốc lẫn Ấn Độ đã trở thành đề tài trung
tâm của triết học lẫn Đạo học. Nếu các nhà tư tưởng có nghiên cứu về thế giới tự nhiên,
nghiên cứu về quỷ thần…, cũng chỉ nhằm mục đích lý giải cuộc sống và số phận con
người trong thế giới này với vòng quay những hạnh phúc, đau khổ, niềm tin, hy vọng
của chính con người. Ở Ấn Độ, con người là “tiểu vũ trụ”, sống chính là nhằm hòa tan
cái “tiểu vũ trụ” nhỏ bé vào “đại vũ trụ” rộng lớn như giọt nước hòa vào đại dương
mênh mông. Ở Trung Quốc, con người và trời đất là một, xuất lưu từ Đạo và cuối cùng
cũng quay trở về với cái Đạo uyên nguyên, bí nhiệm.
Ta thấy rằng vấn đề con người không những không có gì mới, mà là một đề tài
thường trực, được tất cả các triết gia cả Đông lẫn Tây, cả cổ đại lẫn hiện đại bàn luận
và nghiên cứu rất nhiều.
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
1
Dù vậy, phải đến thế kỷ XIX, với sự ra đời của triết học Mác và nhiều học thuyết
tập trung vào nghiên cứu về con người cùng với tình hình chính trị đầy sôi động của
hai cuộc chiến tranh thế giới mà ranh giới giữa sự sống và cái chết càng lúc càng mong
manh, cùng với đó là những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khiến cuộc sống con
người bấp bênh hơn thì vấn đề con người, vị trí, bản chất và sự giải phóng con người
trong thế giới mới trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Hơn bao giờ hết, tìm hiểu về con người, bản chất và mục tiêu giải phóng con
người nói chung và theo quan niệm của triết học Phật giáo nói riêng có một ý nghĩa và
giá trị rất thiết thực, không chỉ giúp định hướng một nhân sinh quan sống cho mỗi cá
nhân mà còn mang đến nhiều ý nghĩa sâu xa.
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
2
Mục lục:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC
PHẬT GIÁO................................................................................................................................................4
1.1.
Cơ sở hình thành:.........................................................................................................................4
1.1.1.
Kinh tế xã hội:.........................................................................................................................4
1.1.2.
Cơ sở tự nhiên - xã hội............................................................................................................4
1.2.
1.2.1.
Quan niệm con người trong triết học:.........................................................................................5
Về mặt tư tưởng triết học và đạo lý:.......................................................................................5
1.2.1.1.
Về tư tưởng:.........................................................................................................................5
1.2.1.2.
Đạo lý:..................................................................................................................................6
1.3.
Khái niệm con người trong triết học Phật giáo...........................................................................6
1.3.1.
Con người là một Pháp:...........................................................................................................6
1.3.2.
Các nhân tố hình thành con người:.........................................................................................7
1.3.2.1.
Con người là hợp thể của Danh và Sắc...............................................................................7
1.3.2.2.
Con người là hợp thể của Lục giới (Lục đại)......................................................................8
1.3.2.3.
Con người là một hợp thể của Ngũ uẩn:.............................................................................8
1.3.3: Quá trình hình thành con người:..............................................................................................9
Chương 2: BẢN CHẤT CON NGƯỜI TRONG PHẬT GIÁO...............................................................11
2.1.
Bản chất con người trong triết học Phật giáo............................................................................11
2.1.1.
Quan điểm của triết học Phật giáo về bản chất của con người:...........................................11
2.1.2.
Những biểu hiện về bản chất của con người:........................................................................11
2.2.
Vô minh tính và vai trò của vô minh tính:................................................................................12
2.3.
Vô minh tính và vai trò của vô minh tính:..............................................................................123
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐỐI
VỚI NHẬN THỨC CỦA CON NGƯỜI VỀ CUỘC SỐNG....................................................................14
KẾT LUẬN................................................................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................................................27
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI
TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
1.1. Cơ sở hình thành:
Phật giáo ra đời như là một trào lưu tư tưởng tôn giáo mới chống lại những áp
bức, bóc lột, bất bình đẳng giai cấp của Bà La Môn giáo trong xã hội Ấn Độ cổ đại,
đáp ứng mong mỏi của đông đảo quần chúng thuộc các đẳng cấp xã hội bị áp bức.
Khởi nguồn của Phật giáo cũng tựa như các tôn giáo khác trong lịch sử, đều là sự phản
ánh hiện thực xã hội, từ những phong trào xã hội có tính cách mạng với những con
người hiện thực và những cá nhân cấp tiến đấu tranh vì sự giải phóng con người khỏi
những áp bức, bất công trong hiện thực ấy.
1.1.1. Kinh tế xã hội:
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội Ấn Độ lúc đó, Phật giáo là sự khởi đầu cho một
lựa chọn mới tuy chỉ là ước mơ lý tưởng, nhưng có ý nghĩa chỗ dựa tinh thần cho quần
chúng nhân dân bị áp bức, bóc lột, những người đã mất niềm tin trong xã hội hiện thực
lúc đó và hướng tới mong muốn, khát vọng về một xã hội bình đẳng, tự do, về một
cuộc sống tốt đẹp hơn trong tương lai.
1.1.2. Cơ sở tự nhiên - xã hội:
C. Mác và Ănghen đã khẳng định: “ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác
hơn là sự tồn tại được ý thức… không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời
sống quyết định ý thức” [15, 1, 37-38]. Phật giáo và những quan điểm của Đức Phật về
con người cũng không nằm ngoài quy luật đó. Để hiểu rõ hơn về quan niệm của con
người trong triết học Phật giáo, không thể không tìm hiểu những cơ sở tự nhiên - xã hội
và tiền đề hình thành nên những quan niệm ấy.
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
4
1.2. Quan niệm con người trong triết học:
1.2.1. Về mặt tư tưởng triết học và đạo lý:
1.2.1.1. Về tư tưởng:
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và
Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật giáo, nguyên
thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Đạo lý Duyên Khởi là một cái nhìn khoa học và khách quan về thế giới hiện
tại.Duyên khởi nghĩa là sự nương tựa lẫn nhau mà sinh tồn và tồn tại. Không những
các sự kiện thuộc thế giới con người như thành, bại, thịnh, suy mà tất cả những hiện
tượng về thế giới tự nhiên như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều vâng theo luật duyên khởi mà
sinh thành, tồn tại và tiêu hoại.
Có 4 loại duyên cần được phân biệt: thứ nhất là Nhân Duyên. Thứ hai là Tăng
Thượng Duyên tức là những điều kiện có tư liệu cho nhân duyên. Thứ ba là Sở Duyên
Duyên tức là những điều kiện làm đối tượng nhận thức, thứ tư là Đẳng Vô Gián Duyên
tức là sự liên tục không gián đoạn, cần thiết cho sự phát sinh trưởng thành và tồn tại.
Luật nhân quả cần được quán sát và áp dụng theo nguyên tắc duyên sinh mới có
thể gọi là luật nhân quả của Đạo Phật, theo đạo lý duyên sinh, một nhân đơn độc không
bao giờ có khả năng sinh ra quả, và một nhân bao giờ cũng đóng vai trò quả, cho một
nhân khác. Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của Đạo Phật đã được
truyền dạy chúng nhân gian từ rất sớm. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối
thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm của lý nghiệp báo, nó chẳng những thích
hợp với giới bình dân mà còn ảnh huởng đến giới trí thức. Mặt khác họ hiểu rằng
nghiệp nhân không phải là định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do đó họ tự biết sửa
chữa, tu tập cải ác tùng thiện. Sống ở đời, đột nhiên những tai họa, biến cố xảy ra cho
họ, thì họ nghĩ rằng kiếp trước mình vụng đường tu nên mới gặp khổ nạn này.
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
5
1.2.1.2. Đạo lý:
Ngoài đạo lý Từ Bi, một đạo lý khác của đạo phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha
mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sanh. Tình thương ở mọi người bắt đầu từ
thân đến xa, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các mối
quan hệ xã hội
Nhìn chung, đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa mở rộng có cùng một đối tượng thực
hiện là nhắm vào người thân, cha mẹ, đất nước, nhân dân , chúng sanh, vũ trụ, đó là
môi trường sống của chúng sanh gồm cả mặt tâm linh nữa. Đạo lý Tứ Ân còn có chung
cái động cơ thúc đẩy là Từ Bi, Hỷ Xã khiến cho ta sống hài hòa với xã hội, với thiên
nhiên để tiến đến hạnh phúc chân thực và miên trường.
Những đặc điểm trên trở thành kim chỉ nam định hướng xuyên suốt toàn bộ hệ
thống triết học Phật giáo nói chung và quan niệm về con người nói riêng. Trên cơ sở
thế giới quan đó, những quan niệm về con người trong triết học Phật giáo chỉ là chi tiết
và cụ thể hóa những đặc điểm nêu trên về đối tượng con người mà thôi.
1.3. Khái niệm con người trong triết học Phật giáo:
1.3.1. Con người là một Pháp:
Pháp là chỉ tất cả các sự vật, hiện tượng có tự tính, có bản chất riêng không thay
đổi để phân biệt với các sự vật, hiện tượng khác.
Pháp là pháp tắc tự nhiên, pháp tính hay quy tắc.
Con người là một Pháp nghĩa là con người có tự tính hay có bản chất riêng biệt
để dựa vào đó mà nhận biết, lý giải và phân biệt với các sự vật, hiện tượng khác. Mặt
khác, con người là một Pháp còn có nghĩa là con người là một thực thể chịu sự quy
định của các pháp tắc tự nhiên và dù Đức Phật có mặt hay không có mặt cũng không
thay đổi được điều đó.
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
6
1.3.2. Các nhân tố hình thành con người:
1.3.2.1. Con người là hợp thể của Danh và Sắc:
Có nhiều cách giải thích khác nhau về những nhân tố hình thành nên con người,
trong đó có hai nhân tố cơ bản và chung nhất mà Phật giáo đề cập đến: Danh và Sắc
(namarupa).
Danh – Sắc là tên gọi chung của Ngũ uẩn. Để nói về phương diện tinh thần hay
tâm còn Sắc chỉ về cơ thể, thể xác hay vật chất. Trong một số trường hợp, để nhấn
mạnh mặt này hay mặt kia, Đức Phật đã đề cập đến các khái niệm khác như Ngũ uẩn,
Lục giới, Tứ thực, Thập nhị xứ, Thập bát giới… Chẳng hạn khi nhấn mạnh về vật chất,
Đức Phật nói Lục giới (đất, nước, lửa, gió, không và thức); khi nhấn mạnh về tinh thần,
Đức Phật nói Ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức), Tứ thực (đoạn thực, xác thực, tư
thực và thức thực); khi nhấn mạnh đến yếu tố nhận thức, Đức Phật nói Lục xứ(nhãn,
nhĩ, tị, thiệt, thân và ý), Nhị thập xứ (lục xứ kết hợp với lục cảnh: sắc, thanh, hương, vị,
xúc), Thập bát giới (lục xứ kết hợp lục cảnh hình thành ra lục thức: nhãn thức, nhĩ
thức, tị thức, thiệt thức, thân thức và ý thức)
Khi nói con người là hợp thể của Danh và Sắc, nghĩa con người chỉ được gọi
là con người khi có sự tương hợp của hai yếu tố: tinh thần và vật chất. Nói cách khác,
nói con người được sinh thành thuần túy từ vật chất hoặc từ tinh thần đều là sai lầm;
thay vào đó, khi có sự phối hợp hay tương hợp của hai yếu tố này cùng lúc thì khi đó
mới có con người. Quan niệm về con người là hợp thể của Danh - Sắc này là quan
niệm cơ bản và chung nhất trong tất cả các quan niệm khác về con người, không chỉ
tiếp tục tái khẳng định con người là Vô ngã vì là hệ quả của Duyên khởi mà còn muốn
nhấn mạnh một điều: vật chất và tinh thần hay thể xác và tâm thức chính là hai nhân tố
hình thành nên con người.
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
7
1.3.2.2.
Con người là hợp thể của Lục giới (Lục đại):
Lục giới (sad dhatavah) là sáu yếu tố hình thành ra con người gồm đất, nước, gió,
lửa, không và thức. Gọi là giới vì mỗi thứ đều có giới hạn riêng, có khi còn gọi là đại vì
sáu yếu tố này cấu tạo thành thế giới hữu tình và có mặt ở khắp mọi nơi. Năm yếu tố
đầu: đất, nước, gió, lửa và không thuộc về vật chất hay Sắc trong Danh – Sắc, hình
thành ra thể tạng hay cơ thể con người ; thức là Tâm, thuộc về Danh trong Danh –
Sắc. Đức Phật nói con người là hợp thể của Lục giới hay Lục đại chính là nhấn mạnh
khía cạnh vật chất của con người.
Theo đó, đất là yếu tố hình thành ra xương, thịt; nước là máu và chất lỏng; gió là
hơi thở, sự hô hấp; lửa là độ ấm hay nhiệt độ của cơ thể và không là các khoảng trống ;
thức là tinh thần, là sinh khí mà nhờ nó, các đại thuộc vật chất mới có sự sống và có
khả năng hoạt động.
Khi quan niệm con người là hợp thể của Lục giới hay Lục đại nghĩa là con người
sinh thành và hoại diệt tùy thuộc vào sự dung thông của sáu yếu tố trên. Mỗi một đại
hay một giới cũng không phải là một yếu tố độc lập, biệt lập hay tách rời mà ngược lại
chúng chứa đựng trong nhau, một đại có đủ năm đại kia dung nhập trong nhau.
Khi đề cập đến con người với tư cách là hợp thể của Lục đại, nhấn mạnh vào yếu
tố thể xác vật chất, Đức Phật vừa muốn hành giả quán chiếu thân thể vốn không có
Ngã thể thường hằng mà chỉ là một tập hợp bất tịnh của đất, nước, gió, lửa và không;
từ đó buông bỏ hay xả ly khỏi sự chấp trước vào thân thể, tiến tới tu tập và giải thoát;
mặt khác, Ngài cũng muốn hành giả nhìn nhận vào sự viên dung vô ngại, thu nhiếp và
dung hòa lẫn nhau của vạn pháp, cả Tâm và vật, từ đó không còn chấp trước vào bất cứ
một yếu tố hay một Ngã thể nào.
1.3.2.3. Con người là một hợp thể của Ngũ uẩn:
Ngũ uẩn còn gọi là Ngũ ấm, Ngã chúng hay Ngũ tụ, Ngũ uẩn gồm có: Sắc uẩn,
Thọ uẩn, Tướng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn, Sắc uẩn thuộc Sắc, tức thuộc về vật chất:
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
8
Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn thuộc về Danh, tức đề cập đến Tâm thức
hay khía cạnh tinh thần. Khác với quan niệm Lục đại nhấn mạnh khía cạnh vật chất của
con người, quan niệm về Ngũ uẩn lại nhấn mạnh khía cạnh tinh thần hay Tâm thức của
con người.
1.3.3. Quá trình hình thành con người:
Khi phân tích con người, Đức Phật sử dụng khái niệm Ngũ uẩn. Khi quán chiếu
quá trình hình thành ra con người, nói đúng hơn là quá trình hình thành Ngũ uẩn, Đức
Phật sử dụng khái niệm Thập nhị nhân duyên. Cả hai quan niệm Ngũ uẩnvà Thập nhị
nhân duyên đều nhằm mục đích nhấn mạnh con người vốn dĩ Vô ngã, tức là không có
ngã thể thường hằng, thường trụ và bất biến. Tuy vậy, mỗi một khái niệm có một chức
năng riêng biệt nhằm nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau. Ngũ uẩn nhằm phân tích sự
hiện hữu của con người ở khía cạnh hiện hữu, Thập nhị nhân duyên nhằm chỉ rõ tiến
trình sinh thành và hoại diệt của con người. Thập nhị nhân duyên gồm 12 chi là: Vô
minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh Và Lão Tử.
Ta cũng có thể tóm tắt quá trình ra đời của một con người theo cách như sau:
Do Vô minh khởi lên làm duyên mà có Hành. Hành là sự dao động của tâm thức,
Vô minh khi kết hợp với hành là Ý lực tạo tác của tâm thức sinh khởi.Ý lực tạo tác của
tâm thức sinh khởi chuyển sinh thành Thức năng. Có Thức nên Nghiệp lực tìm được
một chỗ để thoát sinh, hoặc noãn sinh, thai sinh, thấp sinh hoặc hóa sinh. Thức này còn
được gọi là Kiết sinh thức hay ý niệm tối sơ, đi vào bào thai để trở thành một sinh thể.
Cái Kiết sinh thức này kết hợp với tinh cha huyết mẹ hay với những chất khác hình
thành nên Danh – Sắc. Đó là một sinh thể trọn vẹn, là giao thoa của tâm lý (Danh) và
vật lý (Sắc). Tâm lý và vật lý hòa hợp lẫn nhau biểu hiện ra Lục nhập gồm mắt, tai,
mũi, thân, ý. Khi đã có Lục nhập rồi, đến ngày sinh đứa bé thì lục căn tiếp xúc với lục
cảnh là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Đức Phật gọi là Xúc, nhưng vì ở đây, trẻ
mới từ 1 đến 3 tuổi nên xúc còn hoàn toàn vô tư, không phân biệt tốt – xấu , hay - dở.
Từ 4 đến 6 tuổi, khi đó sự tiếp xúc mới này sinh phân biệt, mới nhận thấy cái nào đáng
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
9
ưa, đáng ghét,… đó gọi là “Xúc duyên Thọ”. Khi có Thọ thì tình cảm luyến ai phát
sinh, thích cái mình ưa và muốn tránh cái mình ghét.Ái chính là Thọ đi đến một trạng
thái chín muồi, khi Ái phát sinh thì từ Ái này sinh ra Thủ, Thủ có nghĩa là níu kéo và
duy trì cái mà mình yêu. Cũng chính Ái và Thủ là động lực để duy trì sự tồn tại, đồng
thời cũng chính nó tạo nên tiến trình của tồn tại, vì thế “Thú duyên Hữu” chính là như
vậy. Khi Hữu hình thành thì năng lực tạo Nghiệp hình thành.Vì năng lực tạo Nghiệp
mà năng lực Sinh phát sinh, vì sinh mà có Lão – Tử.
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
10
CHƯƠNG 2: BẢN CHẤT CON NGƯỜI TRONG PHẬT GIÁO
2.1. Bản chất con người trong triết học Phật giáo:
2.1.1. Quan điểm của triết học Phật giáo về bản chất của con người:
Theo triết học Phật giáo bản chất con người chính là Vô ngã, vậy Vô ngã là gì?
Khái niệm Ngã được gọi theo nhiều cái tên khác nhau mang hàm ý là sinh khí,
hơi thở, Tự tính, Sinh Mệnh, Tự kỷ, Cái tôi, Linh hồn…tùy trong từng hoàn cảnh và
ngôn ngữ cụ thể. Vậy, theo Phật giáo, Ngã là một phạm trù dùng để chỉ một thực thể
vĩnh hằng, độc lập, tuyệt đối, bất biến, có trước con người và quy định bản chất con
người. Ngã có những đặc điểm như sau:
+ Ngã là chủ thể độc lập không bị phụ thuộc, ảnh hưởng hay tác động bới bất
cứ nhân tố hay tác động nào.
+ Ngã thường vĩnh hằng, bất sinh, bất diệt. Ngã không ra đời lúc sinh và mất đi
lúc chết cùng với cơ thể con người.
+ Ngã vốn vô hình, vô ảnh, không thể nắm bắt hay chạm vào được nhưng ở
đâu đều cũng có Ngã và vạn vật sinh thành.
2.1.2. Những biểu hiện về bản chất của con người:
Tuy quan niệm bản chất con người là Vô ngã nhưng xét trong từng hoàn cảnh cụ
thể bản chất con người cũng được biểu hiện nhiều hình thái khác nhau. Con người
được thể hiện với những hành động ác, xấu xa, cũng có những lúc là những việc thiện,
tốt lành. Điều đó, chứng tỏ con người không chỉ tồn tại duy nhất cố định một mà trong
mỗi con người đều ẩn chứa hai tự tính là Vô minh tính và Phật minh tính. Nói cách
khác, khi con người bắt đầu tham gia vào quá trình sinh – lão – bệnh – tử đã chịu sự tác
động cũng đồng thời cũng là hệ quả của Vô minh tinh nhưng trong con người còn có
phương diện Phật tính hay khả năng giải thoát khỏi vòng xoay đó nên ta có thể nói rằng
bản chất con người cùng song hành tồn tại Vô minh tính và Phật tính.
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
11
2.2. Vô minh tính và vai trò của vô minh tính:
Vô minh tính là thuật ngữ dùng để chỉ một trong những biểu hiện cụ thể về bản
chất con người trong đời sống hiện thực nhưng khi tìm hiểu về nguồn gốc của Vô minh
tính thì chúng thường sử dùng thuật ngữ Vô minh.
Quá trình hình thành con người được giải thích dựa trên cơ sở sự vận hành của
mười hai chi trong Thập nhị nhân duyên thì chi Vô minh gây ra nhiều thắc mắc và
tranh cãi lớn nhất. Liệu Vô minh có phải là nguồn gốc?Là thực tại đầu tiên và duy nhất
cho toàn bộ sự hiện hữu? Nếu thừa nhận Vô minh là nguồn gốc đầu tiên hay thực tại
duy nhất thì khái niệm Duyên sinh có còn đứng vững?...Chính vì những khúc mắc mâu
thuẫn này khiến khái niệm Vô ngã trở nên nan giải và Phật giáo có thể vấp phải những
mâu thuẫn khó tránh khỏi.
Tuy nhiên, vấn đề này không phải bây giờ mới được nêu ra mà từ những ngày
khởi đầu từ khi Đức Phật còn tại thế, vấn đề Vô minh từ đâu ra đã được đề cập, và từ
vấn đề Vô minh này, khái niệm Vô ngã lại một lần nữa được nhắc lại nhưng không phải
với việc phân tích các yếu tố hình thành ra con người mà là xác định bản chất bản tính
cố hữu của con người.
Vô minh tuy là động lực nhân kết hợp Ngũ uẩn, Tứ thực, nhưng khi ý chí căn bản
này là những hoạt động thì cuối cùng nó cũng là từ trong tự thể cơ quan mà triển khai
ra rồi tạm ý theo cái đặc trưng ấy mà chia nhánh để quan sát, phân tích chứ nó quyết
không phải vật ngoài tự thân tác dụng khiến cho hiện tượng sinh mệnh phát khởi.
Nghĩa là, trong bản thân Vô minh đã có đầy đủ khả năng tính tương đương để trở thành
những yếu tố Ngũ uẩn, Tứ thục, nhưng khi vẫn chưa phát triển trên địa vị của tráng thái
nguyên thủy đó thì được gọi là Vô minh, còn đương thể khi đã triển khai rồi thì được
gọi là Ngũ uẩn [46,136].
Nguồn gốc bản chất của vô mình là bất giác, căn bản Vô minh là một niệm giác
chợt khởi lên hay thình lình khởi lên. Vì niệm Vô minh căn bản bất chợt hiện lên vô
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
12
cùng nhỏ nhiệm, là một loạt hoạt động tâm vi tế có nguồn gốc từ vô thủy nên không
thể xác định được nguồn gốc, là nguyên căn của mọi thứ phiền não nên được gọi là căn
bản của Vô minh và Tham ái mà Ngũ ẩn được hình thành, có Ngũ ẩn tạo nên Nghiệp,
vì tạo Nghiệp mà sinh ra Luân hồi, phiền não và khổ đau. Điều đó, được hiểu như quá
trình hình thành và bản chất của con người trong thế giới hiện tượng.
Phật tính:
Như đã nói ở trên, bản chất con người trong đời sống tồn tại song song với Vô
minh tính là Phật tính, hay hạt giống đưa con người đến với coi tĩnh tâm, cõi Niết bàn.
Kinh Rohitassa Sutta có ghi lại những Phật ngôn sau: “ Như Lai tuyên bố rằng thế
gian, nguồn gốc của thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian, đều nằm
trong tấm thân một trượng này, cùng với tri giác và tư tưởng”.
Khái niệm Phật tính còn gọi là Như Lai tính hay Giác tính là hạt giống hay nguồn
có sẵn từ trong tâm thức mỗi con người. Như Lai hay Phật tính có các đặc điểm sau: an
ổn, rời tham ái, toàn trí, toàn kiến, tự tại, đến như vậy và đi cũng như vậy,…Các đặc
điểm này cũng là đặc điểm đang tiềm ẩn trong tâm thức mỗi chúng sinh. Chúng sinh
còn trôi lăn trong sinh tứ luân hồi, còn nhiều phiền não và khổ đau đơn giản vì chưa
phát hiện các điểm này của chính mình và sống với nó mà thôi.
Tóm lại, về bản chất, con người là Vô ngã tính hay Vô tự tinh hay Vô tính, tức là
không có bản tính cố định. Tuy vậy, dưới khía cạnh Tục đế, khi con người ra đời thì
con người đã là kết quả của một chuỗi các nhân duyên, trong đó Vô minh và Ái là hai
nhân tố cơ bản nên Vô minh chính là một phần bản chất của con người. Nhưng vì con
người có khả năng tu tập và khả năng giải thoát khỏi tấm lưới của Vô minh nên bên
cạnh Vô minh tính còn có Phật tính. Xét một cách khác, Phật tính chính là bản tính
thường tại của con người còn Vô minh tính chỉ là bề nổi che đi sự sang suốt của Phật
tính. Vì thế, mỗi con người muốn giải thoát thì cần phải tu tập để đánh thức mặt Phật
tính trong mỗi con người thức dậy.
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
13
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC
PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI NHẬN THỨC CỦA CON NGƯỜI VỀ CUỘC SỐNG
3.1. Ý nghĩa của Vô ngã đối với nhận thức của con người về cuộc sống:
Trước hết, học thuyết Duyên khởi, nhìn nhận con người là tổng hòa của nhân và
duyên, giúp cho con người hiểu rõ được khổ đau mà con người đang gánh chịu không
tự nhiên hình thành hay thuộc về thiên mệnh, cũng không phải là bẩm sinh mà là kết
quả tương tác của những nguyên nhân và những điều kiện nhất định. Cách nhìn đó giúp
con người thoát khỏi sự nô lệ vào các ý niệm siêu nhiên, sự trông đợi ban phát hoặc
tưởng thưởng; thay vào đó con người sẽ cố gắng tìm kiếm những nguyên nhân và điều
kiện hình thành ra chúng để cố gắng giải quyết. Thái độ nhìn thực tại thông qua Vô ngã
là thái độ tiếp cận cuộc sống trên mối tương tác giữa nhân và quả, từ đó mọi quan
niệm, hành động hay tạo tác của con người sẽ thay đổi.
Thứ hai, học thuyết Duyên khởi – Vô ngã giúp con người nhận thức được rằng
sự hiện hữu của chính mình có quan hệ mật thiết với sự hiện hữu của người khác và
những hoàn cảnh khách quan đi kèm, từ đó khẳng định những hành động hay tạo tác
của con người không chỉ vì chính mình mà còn vì xã hội, vì tha nhân, vì cộng đồng và
cao hơn cả là những hành động hay tạo tác đó có tính toàn cầu.
Đối với cá nhân từng con người cụ thể, quan niệm Duyên khởi và Vô ngã giúp
con người nhận diện rõ rằng cái Tôi hiện hữu thông qua sự tương tác của thân và tâm.
Trong cuộc sống, trên cơ sở nhận diện sự tương tác giữa thân và tâm như vậy, con
người không còn thiên hướng nghiêng nặng về bên nào. Thái độ thụ hưởng nhằm sung
sướng về mặt thể xác hoặc coi thường thân xác, chỉ quan tâm đến khía cạnh tinh thần
không phải là cách nhìn của Duyên khởi – Vô ngã. Rõ ràng rằng với một tâm hồn
khủng hoảng bởi những thất bại, lo toan hay bị phiền muộn vây phủ thì dù thân thể có
cường tráng và mạnh khỏe đến đâu cũng chẳng muốn sống, ngược lại, một thể trạng
yếu đuối và bệnh hoạn cũng khó lòng có được một tinh thần tốt.
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
14
Một thái độ về Vô ngã cần phải tránh là đồng nhất Vô ngã với hư vô.Thật ra
trong Phật giáo, khái niệm Vô ngã không phải là bác bỏ khái niệm cái Tôi dưới khía
cạnh hình thức mà chính là thái độ bác bỏ tư tưởng Ngã chấp. Chính vì đắm say vào
cái Tôi không thật đó khiến con người xây dựng một Tự ngã trung tâm, coi thường
người khác, ảo tưởng về mình vượt xa so với thực tế. Trong khi đó, quan niệm cái Tôi
dưới khía cạnh hình thức hay ý niệm về cái Tôi như là tập hợp của Ngũ uẩn, Thập nhị
nhân duyên có thể giúp con người có được niềm tin vào chính năng lực của mình nhằm
thực hiện những hoạt động đem lại lợi ích cho cộng đồng lại là một ý niệm rất cần
thiết. Đức Đạt Lai lạt ma nhấn mạnh:
Hai lối suy nghĩ về Ngã: trước tiên ý niệm về cái Tôi vốn thường hiện ra trong
tâm trí ta một cách rất tự nhiên, không những là một ý niệm đúng đắn mà còn rất cần
thiết. Chẳng hạn như, để cảm thấy can đảm, chúng ta phải biết tự tin vào chính mình.
Để có được một niềm tin vững chãi, chúng ta phải tin tưởng vào khả năng và sức mạnh
của chính mình, và như thế ta lại cần phải có một ý tưởng mạnh mẽ về cái tôi, cái ngã.
Thế nên đây là một ý niệm tích cực và có tính xây dựng.Một lối suy nghĩ khác về cái
Ta, cái Tôi thường dẫn đến sự coi thường kẻ khác. Đây là tinh thần Ngã chấp được đặt
trên căn bản của một ảo tưởng quá cao về mình vượt xa thực tế, một nhận thức lầm lạc
mà ta không thể đơn thuần xóa bỏ được chỉ bằng cầu nguyện [27, 214]
Và vì thế, đối tượng mà Phật giáo thật sự xóa bỏ chính là: “quan niệm cho rằng
có sự hiện hữu của một cái Ngã thường hằng, độc lập, tồn tại như một cá thể tách biệt
với Ngũ uẩn. Tuy nhiên, Phật giáo không hề bác bỏ sự hiện hữu của cái ta, cái bản ngã,
tức là cái tôi ước lệ do năm uẩn cấu thành” [27, 215].
Tóm lại, với quan niệm bản chất con người là Vô ngã hay Vô ngã tính, trong
quan hệ với chính mình, con người xác định được mỗi kết quả xảy ra đều là hệ quả của
rất nhiều nhân và duyên tương tác với nhau mà hình thành. Mọi nỗi khổ đau và phiền
muộn mà con người đang gánh chịu đều xuất phát từ tư tưởng Ngã chấp, coi mình là
trung tâm, đánh giá khả năng cao hơn thực tế, xây dựng những mộng tưởng không xuất
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
15
phát từ những gì đang có, cũng như không cố gắng xây dựng đầy đủ các nhân và duyên
cho quả sinh thành nên con người luôn luôn phải gánh lấy những thất vọng không đáng
có. Vì thế, nếu muốn thành tựu một kết quả tốt đẹp, con người không bao giờ trông đợi
vào sự hên xui may rủi mà cố gắng nỗ lực hành động tạo dựng những điều kiện và
hoàn cảnh cho nhân sinh khởi thành quả. Trong quan hệ với tha nhân, tư tưởng về Vô
ngã dạy con người biết sự hiện hữu của chính mình phụ thuộc vào sự hiện hữu của
người khác và thế giới.Mọi sự phân biệt màu da, chủng tộc, biên giới… đều xuất phát
từ những ảo tưởng và dục vọng không cùng tận và kết quả của sự phân biệt đó là hận
thù, là chiến tranh, là hơn thua đấu đá không bao giờ ngừng nghỉ. Đối với mối quan hệ
với môi trường tự nhiên, người nhận thức được Vô ngã không thể nào cho mình cao
hơn tự nhiên, thống trị tự nhiên và khai thác tự nhiên một cách không thương tiếc để
phục vụ cho cuộc sống của chính mình. Thay vào đó, người giác ngộ Vô ngã là người
luôn sống hài hòa với tự nhiên, nhận thức mình là một phần của tự nhiên.Muốn tồn tại,
con người phải khai thác tự nhiên nhưng muốn tồn tại lâu dài thì bản thân con người
phải biết sống Trung đạo, khai thác phải đi đôi với xây dựng.Đó chính là những ý
nghĩa cơ bản mà quan niệm về Vô ngã giúp ta có thể thay đổi tận gốc rễ nhận thức và
hành động của chính ta trong cuộc sống này.
3.2.
Ý nghĩa của Nghiệp, Luân hồi đối với nhận thức của con người về cuộc sống:
Khái niệm Nghiệp báo và Luân hồi tuy không phải xuất phát từ Phật giáo nhưng
chính những ý nghĩa mới mà Phật giáo bổ sung đã thật sự đem lại cho chúng sinh
những giá trị về mặt nhân sinh.
Qua lăng kính của Nghiệp báo và Luân hồi, từng ý nghĩ, lời nói và việc làm của
con người không còn là trò chơi của những cảm xúc nhất thời mà đó chính là những
hạt giống hàng ngày hàng giờ con người gieo xuống và chờ đợi thời điểm chín muồi để
hái quả. Những tai nạn bất ngờ, những thất vọng không như ý… không còn là số trời,
thiên mệnh hay tội tổ tông nữa mà đó chính là kết quả do chính mình đã gây tạo. Con
người nhận thức rõ Nghiệp báo cũng sẽ không tìm cách tránh né, không đổ thừa, cũng
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
16
không cố tìm mọi cách để “trả giá, kì kèo” bằng những hành động van vái, cầu xin.
Thay vào đó, con người can đảm đón nhận chúng một cách dũng cảm vì hiểu rõ ràng
rằng đó chính là kết quả mà chính mình đã gây tạo.
Quan niệm về Nghiệp báo cũng không vì thế mà khuyên con người buông xuôi
cuộc đời theo dòng luân lưu bất tận do Nghiệp lực trong quá khứ, ngược lại, Nghiệp có
thể chuyển, nghĩa là con người có đủ toàn quyền quyết định đời sống hiện tại và tương
lai của chính mình thông qua những hành động chuyển hóa và xây dựng những hạt
giống tốt cho đời sống hiện tại và tương lai. Hòa thượng Thích Thiện Siêu nhấn mạnh
rằng:
Nếu hiểu chữ Nghiệp trong đạo Phật một cách đúng đắn thì định lý Nghiệp đã
không làm cho chúng ta nhụt chí, trái lại làm cho chúng ta tự tin hy vọng, sự nhận thức
ý nghĩa trách nhiệm và can đảm nhận lãnh khi bị những sự khó khăn gần như không
thể vượt qua nổi, hay gặp sự thử thách không thể kham nổi với ý chí rằng đó là kết quả
của những hành động mình đã gây ra hoặc gần hoặc xa, chứ không mù quáng để buông
xuôi chịu đựng. Khi đã biết rõ nó do mình gây ra thì cũng do mình thay đổi chứ không
đề cập ai thay đổi giúp. Khi đó ta sẽ cố gắng lập chí sửa đổi theo ý chí tự do của mình
[63, 15].
Khái niệm Luân hồi tuy không phải là khái niệm quan trọng nhất trong triết học
Phật giáo nhưng chính đó lại là khái niệm cơ sở cho học thuyết Nghiệp báo đứng vững.
Đời sống trong tiền kiếp hay sau khi chết vượt quá khả năng suy luận bằng lý trí của
mỗi chúng ta nhưng nhờ sự tin tưởng vào Luân hồi mà con người có thể thay đổi hoạt
động của mình theo chiều hướng tích cực và hướng thiện hơn. Việc so sánh Định luật
bảo toàn và chuyển hóa năng lượng trong Vật lý học với khái niệm Luân hồi có thể là
một sự so sánh khập khiễng nhưng nếu bảo con người chết là hết cũng chưa hẳn đã có
cơ sở.
Con người chết là hết, nghĩa là con người chỉ có cơ hội duy nhất sống một lần,
vậy nếu có sai lầm thì con người không còn cơ hội sửa chữa? Nếu đời sống này là duy
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
17
nhất, vậy tại sao con người sinh ra lại không được bình đẳng? Tại sao có người thông
minh có người ngu dốt? Tại sao người này sinh ra đã giàu sang, người kia lại nghèo
hèn? Tại sao người này là nam, người kia là nữ? Tại sao một số người lại biết rõ những
nơi mà mình chưa một lần đến hay sống ở đó?...
Nếu bảo con người bất bình đẳng do xã hội, giàu nghèo do phân biệt giai cấp,
nam trọng nữ khinh do quan niệm xã hội… vậy chuyện giàu nghèo, địa vị xã hội hay
quan niệm xã hội… thì liên hệ gì đến một đứa trẻ sơ sinh này với một đứa trẻ sơ sinh
khác? Tại sao đứa trẻ này phải sinh ra trong gia đình nghèo, đứa trẻ kia vừa mới ra đời
đã sung sướng? Ai quy định điều đó?...
Mặc dù lý thuyết Luân hồi không được đưa vào phòng thí nghiệm khoa học để
đo đạc hay phân tích nhưng nếu nhìn nhận có Luân hồi, đứng về mặt đạo đức lại có
nhiều ý nghĩa tích cực. Con người chết không phải là hết, nghĩa là các hành động, ý
nghĩa và thái độ tiếp cận cuộc sống của con người trong hiện tại đã quyết định đời sống
cho chính mình trong tương lai, từ đó trong mỗi lời nói và việc làm của mình, con
người có ý thức và trách nhiệm hơn. Thêm nữa, trong đời sống hiện tại, nếu con người
có lầm lỗi, con người cũng không phó mặc cho số phận mà ngược lại, con người biết
rằng, dù sớm hay muộn, ta cũng phải đương đầu với sai lầm mà ta đã gây ra, nếu cố
gắng có thể sửa chữa trong đời sống hiện tại, nếu không kịp, con người vẫn còn niềm
tin sẽ sửa chữa trong đời sống kế tiếp. Cơ hội vẫn còn mở ra trước mắt rất nhiều, niềm
tin và hy vọng sẽ giúp con người đứng vững trước một thực tại phũ phàng.
Quan niệm về Luân hồi cũng mở ra trong tâm thức chúng ta một từ tâm rộng lớn
hơn.Sự khác biệt giữa con người với các sinh linh khác chủ yếu là những hành động đã
gây ra; về bản chất, con người cũng như các sinh vật khác, đều có nhu cầu sống và tìm
kiếm hạnh phúc.Nếu biết trân trọng đời sống và nhu cầu của các sinh vật khác, con
người cũng sẽ biết trân trọng đời sống của chính mình và đồng loại hơn nữa. Hiểu rõ sự
vận hành của sáu cõi, thông qua từng ý nghĩ, lời nói và việc làm tương ứng, con người
hoàn toàn có quyền tự quyết định đời sống tương lai của chính mình. Con người có thể
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
18
trở thành Thánh, thành Phật nhưng con người cũng có thể sống trong địa ngục, ngã
quỷ, súc sanh. Tất cả đều tùy thuộc vào hành động của chính mình.
3.3. Ý nghĩa của Niết bàn và con đường tu tập:
Niết bàn không phải là thứ bánh vẽ để con người ngồi mơ tưởng đến nó như cách
nhìn của W.Durant khi viết về nền văn minh Ấn Độ. Niết bàn cũng không phải là nơi
siêu trần thế để ở đó con người có thể van vái, cầu xin có được. Niết bàn cũng không
phải là sự mộng tưởng huyễn hoặc về đời sống sau khi chết.
Mặc dù thường xuyên im lặng trước các câu hỏi có ý nghĩa siêu hình mà người
đối thoại đặt ra cho Đức Phật, sự im lặng của Ngài không phải là sự im lặng vì không
biết mà đơn giản là không cần thiết phải trả lời khi con người chỉ biết hoài nghi mà
không biết khám phá, nói đúng hơn là con người chỉ thích ngồi một chỗ mà tìm chứ
không chịu đi để kiếm.
Mười cấp độ hạnh phúc mà Đức Phật đưa ra là một sự nhắn nhủ lớn lao rằng,
mục đích cuối cùng và duy nhất mà con người nên tìm kiếm, không phải là danh vọng,
không phải là tiền tài, địa vị… mà chính là hạnh phúc. Hạnh phúc dựa trên điều kiện
giới hạn thì hạnh phúc đó cũng là những hạnh phúc bị giới hạn.Hạnh phúc có điều kiện
thì có lúc có, có lúc không, có thời điểm sinh thành thì tất yếu có thời điểm hoại diệt.
Vì thế, nếu con người muốn thật sự theo đuổi một hạnh phúc đích thực, điều đầu tiên là
con người phải biết buông bỏ những tham đắm đang đốt cháy trong tâm thức mỗi
người. “Những yếu tố mang lại hạnh phúc phải được vun trồng từ bên trong mỗi chúng
ta. Thật là một lầm lẫn lớn lao nếu tin rằng chỉ cần những điều kiện vật chất là đủ để
mang lại hạnh phúc, những nguyên nhân thực sự thật ra phải được phát triển từ nội
tâm” [27, 93].
Niết bàn không phải là thứ hạnh phúc mông lung mà Niết bàn chính là sự chấm
dứt tham ái và Vô minh, những mối dây ràng buộc con người vào vòng lẩn quẩn của
Luân hồi sinh tử.
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
19
Đức Phật không ngồi lý thuyết suông rằng chấm dứt tham ái và Vô minh là Niết
bàn. Sự vĩ đại của Ngài chính là Ngài nói những gì Ngài đã thực tập và kết quả của một
đời sống toàn bích của Đức Phật là minh chứng sống động cho lý thuyết của Ngài. Vì
lý do đó, những con đường Đức Phật đưa ra nhằm hướng tới giải thoát cuối cùng
không phải là con đường không thể thực hiện.
Sự khác biệt nhau giữa người giác ngộ và kẻ phàm phu là sự khác biệt về đời
sống tinh thần, tức là sự hiểu biết hay không hiểu biết... cuộc sống an lạc và hạnh phúc
không tùy thuộc vào không gian hay thời gian, không tùy thuộc giàu sang hay nghèo
hèn, cũng không tùy thuộc vào địa vị xã hội...sự hạnh phúc hay khổ đau tùy thuộc vào
người ấy hiện hữu trí tuệ hay vô minh [13, 135].
Như vậy, Niết bàn là thực chứng tâm linh cá nhân nên không thể đem ra mà khoe
khoang hơn kém và rõ ràng đó không phải là một thế giới của siêu trần thế hoang
đường. Với những ai tu tập và đạt được những kinh nghiệm thực chứng nội tâm sẽ hóa
giải những phiền não xảy ra, do ngoại cảnh hay khách quan một cách dễ dàng. A.
Tialkatne nhấn mạnh:
Kinh nghiệm về Niết bàn không thể là kết quả của siêu nhiên hoá cái thực tại
thông thường của thế giới.Nó càng không thể phát sanh từ một Thượng đế siêu nhiên.
Nó cũng không dẫn con người đến cái siêu nhiên. Sự loại trừ các khả tính này cho thấy
rằng, trên nguyên tắc, Niết bàn không thể liên hệ đến một loại kiến thức không diễn tả
được, thông thường gắn liền với các hình thái khác của kinh nghiệm tôn giáo.Điều này
có nghĩa là kinh nghiệm tôn giáo của đạo Phật không thể thay thế bằng định đề bất khả
biểu đạt và ngôn dụ [100].
Con đường Trung đạo, cụ thể là con đường Trung đạo gồm tám nhánh là kim chỉ
nam rõ ràng và cụ thể nhất cho tất cả những ai thật sự quan tâm đến việc mưu cầu một
hạnh phúc đích thực. Con đường xa rời hai cực đoan giúp con người nhìn nhận lại các
hành vi của chính mình, từ đó kiến tạo một đời sống an lạc và hạnh phúc:
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
20
Chừng nào con người còn đau khổ, Bát thánh đạo vẫn còn là kim chỉ nam hướng
dẫn mọi hành vi, lời nói và tư tưởng thuộc tam nghiệp; chừng nào xã hội còn có nhu
cầu phát triển tốt đẹp, Bát thánh đạo vẫn còn là định hướng tu chính chính sách, đường
hướng tổ chức hoạt động xã hội; và chừng nào mọi quốc gia trên thế giới còn mong
muốn đem lại an lạc cho nhân loại, chừng đó Bát chánh đạo vẫn là đóng góp của Phật
giáo vào tiếng nói chung của nhân loại trong tiến trình hòa bình thế giới. Có thể khẳng
định giá trị của Tám phần thánh đạo như một bản đồ tu tập cho mọi người ở mọi thời
đại [93].
Ba môn Vô lậu học của Phật giáo là một sự khái quát hóa toàn bộ con đường
hướng tới Niết bàn tối hậu. Giá trị của Giới luật được thể hiện trong Phật giáo không
phải là sự cấm đoán mà đó chính là thái độ tự do lựa chọn, lựa chọn giữa lợi ích trước
mắt và lâu dài. Bản chất của Giới trở thành những kỷ luật nội tâm, được hình thành
trên cơ sở nhận thức rõ bản chất của Duyên khởi và Vô ngã, Nghiệp báo và Luân hồi,
nói gọn là sự nhận thức rõ quy trình nhân quả mà Giới luật có mặt. Đức Đạt Lai Lạt ma
cho rằng: “kẻ nào tự biến mình thành một món đồ chơi của xúc cảm sẽ gặt hái những
hậu quả đau buồn. Vì thế, sự tự do phải đi đôi với một kỷ cương cá nhân mới trở nên
hữu hiệu được” [82, 5]. Đó cũng chính là ý nghĩa của Giới luật, được đặt làm nền tảng
cho tất cả các hành vi của con người trên lộ trình chấm đứt Luân hồi sinh tử. Định học
trong Phật giáo không phải là cứu cánh cùng tột mà chỉ là con đường, thông qua đó mở
bày hay triển khai Tuệ kiến.Các đối tượng quán chiếu được nêu là những bài học cụ
thể, sinh động và thực tiễn nhằm giúp con người nhận rõ bản chất của thực tại trong sự
vận động không ngừng nghỉ của chúng. Trên cơ sở ý nghĩa và giá trị của Định học giúp
chúng ta nhận thức rằng không thể nào có được cái nhìn như thực về bản chất của khổ
đau, hạnh phúc… với một tâm thức loạn động mà ngược lại, muốn thấy rõ như thực,
điều kiện căn bản là con người cần phải giữ một thái độ bình tĩnh để xem xét đối
tượng. Tuệ tri hay Tuệ học, sự thông đạt rõ bản chất hữu vi và vô vi của vạn pháp là
mục đích của mọi người học Phật, có công năng chấm dứt phiền não, xóa sạch Vô
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
21
minh - yếu tố then chốt tạo Nghiệp và Luân hồi. Ba môn Vô lậu học chính là ba nấc
thang cần phải bước nếu con người thật sự muốn chấm dứt luân hồi sinh tử.
Con đường của Bốn thánh đế là con đường tuyệt diệu nhất của triết học Phật
giáo, là giáo lý tinh anh nhất mà không một truyền thống Phật giáo nào không nhắc
đến. Thánh đế đầu tiên, Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy cái thực tại căn bản đang diễn
ra, ai cũng thấy, cũng biết và cũng cảm nhận, từ đó Ngài chỉ ra nguyên nhân của những
nỗi khổ đó xuất phát từ đâu. Như vậy, Đức Phật đã đưa nhận thức của ta từ hiện tượng
đến bản chất, từ hiện tại về quá khứ, từ bề mặt xuống chiều sâu… một cách sinh động
và thực tiễn cho nên toàn bộ học thuyết của Đức Phật hoàn toàn không phải là thứ giáo
lý viển vông, mơ hồ. Thế nhưng, Ngài không dừng lại ở đó, sau khi đã thấu hiểu cái
thảm cảnh đang diễn ra cùng với những nguyên nhân gây ra chúng, Đức Phật đưa ra
Diệt đế, sự chấm dứt khổ đau và Đạo đế - con đường đưa đến sự chấm dứt khổ
đau. “Sự thấu hiểu về khổ đau càng vững vàng và sâu sắc thì sự khao khát được giải
thoát khỏi khổ đau sẽ càng mạnh mẽ hơn. Do vậy, sự nhấn mạnh của Phật giáo về bản
chất khổ đau nên được nhìn trong bối cảnh rộng hơn như thế, với sự đánh giá cao về
khả năng hoàn toàn giải thoát khỏi khổ đau” [26, 86].
Bốn thánh đế với hai cặp nhân quả là một bài thuyết pháp tuyệt vời, nói lên toàn
bộ ý nghĩa và mục đích có mặt của Phật giáo ở cuộc đời này, đồng thời cũng nói lên kết
quả của mỗi hành vi mà con người có toàn quyền lựa chọn: một là khổ hai là Niết bàn.
Toàn bộ giáo lý của Ngài, giờ đây chỉ là công cụ dẫn đường, là ngón tay chỉ trăng, là
thuyền bè qua sông và Đức Phật chỉ là người dẫn đường cho hành trình đi từ khổ đến
vui mà thôi.
Trên đây chỉ là một số ý nghĩa cơ bản được rút ra qua một số quan niệm về con
người của triết học Phật giáo đối với nhận thức con người về cuộc sống chứ chưa phải
là tất cả những ý nghĩa và đóng góp mà hệ thống triết học Phật giáo đem lại cho nhân
sinh. Những giá trị đó còn cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện qua lý
luận và thực tiễn của mỗi cá nhân.
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
22
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
23
KẾT LUẬN
Là một trong ba tôn giáo lớn của nhân loại, đồng thời cũng là một hệ thống triết
học đồ sộ với chiều dài phát triển cả về không gian lẫn thời gian, triết học Phật giáo nói
chung và quan niệm về con người trong triết học Phật giáo nói riêng đã được các nhà
khoa học, các học giả, các hành giả khắp nơi, từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim nghiên
cứu, tìm hiểu và thực tập dưới rất nhiều góc độ, bình diện khác nhau. Nghiên cứu quan
niệm về con người trong triết học Phật giáo có thể rút ra một số kết luận sau:
1. Quan niệm về con người của Phật giáo có quan hệ mật thiết với thế giới quan
Phật giáo. Con người cũng là một pháp trong vạn pháp nên con người cũng do duyên
sinh mà thành, do duyên tan rã mà hoại diệt. Bản chất của con người là Vô ngã hay Vô
ngã tính, nghĩa là không có tự tính cố định mà phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác
nhau. Tuy vậy, khi con người được sinh thành thì con người đã là hệ quả của Vô minh
và có những biểu hiện của Vô minh tính nhưng con người có khả năng chấm dứt sinh
tử luân hồi nên con người còn có Phật tính.Vậy, bản chất con người tuy không có tự
tính cố định nhưng trong mỗi con người chứa đựng cả Vô minh tính lẫn Phật tính.
2. Khi xác định con người do duyên mà sinh thành, Đức Phật đã đưa ra các quan
niệm Danh - Sắc, Lục đại, Ngũ uẩn. Các thành tố hình thành nên con người là sự giao
thoa hay tương hợp của tinh thần và vật chất.
Khi quan niệm con người là hợp thể của Lục giới hay Lục đại theo tinh thần
của thế giới quan Duyên khởi, triết học Phật giáo khẳng định con người sinh thành và
hoại diệt tùy thuộc vào sự dung thông của đất, nước, gió, lửa, không và thức. Mỗi một
đại hay một giới không phải là một yếu tố độc lập, biệt lập hay tách rời mà ngược lại
chúng chứa đựng trong nhau, một đại có đủ năm đại kia.
Ngũ uẩn là quan niệm khác nói về các yếu tố hình thành thế giới hữu tình nói chung và
con người nói riêng. Khác với quan niệm Lục đại nhấn mạnh khía cạnh vật chất của
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
24
con người, quan niệm về Ngũ uẩn nhấn mạnh khía cạnh tinh thần hay tâm thức của con
người.
3. Vô minh là chi phần đầu tiên trong tiến trình hình thành con người, đóng vai
trò như là động lực nhân hay ý chí sinh tồn có từ vô thủy. Từ Vô minh mà sinh thành ra
Ngũ uẩn, có Ngũ uẩn nên con người tạo Nghiệp. Nghiệp là hành vi có tác ý, vì có tác ý
nên bất kỳ hành vi nào của thân, khẩu và ý đều tạo ra kết quả tương ứng. Nghiệp không
chỉ là nguyên nhân dẫn dắt con người trôi lăn trong luân hồi mà Nghiệp còn dùng để
xác định nguyên nhân dẫn đến sự sai khác trong đời sống của con người cũng như các
yếu tố dẫn đến hình thành tính cách con người.
Luân hồi và Nghiệp báo là một khái niệm song hành. Quan niệm về Nghiệp
báo nhằm giải thích nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt trong đời sống của mỗi con
người về mặt bản chất, hướng con người đến một thái độ sống tích cực và làm chủ bản
thân mình về mặt đạo đức và quan niệm về Luân hồi chính là mô tả đường đi của
Nghiệp báo. Vậy thực chất của Luân hồi chính là sự tương tục hay sự chuyển tiếp từ
một hình thể này sang một hình thể một, một tâm thức này sang một tâm thức khác.
Nếu xảy ra trong thời gian đang sống, chúng ta coi đó như là sự vận động nhưng khi
vượt qua giới hạn của hiện tại, nghĩa là kiếp trước và kiếp sau thì gọi là tái sinh.
4. Bên cạnh Vô minh, động lực đẩy đưa con người trong chu trình sinh tử, con
người còn có Phật tính, hay các hạt giống có khả năng đưa con người tới Niết bàn. Giải
thoát trong Phật giáo thực chất là chấm dứt luân hồi, tận diệt khổ đau để không còn tái
sinh nữa.Trạng thái đó chính là Niết bàn. Để đạt được Niết bàn, con người cần phải
chấm dứt Vô minh và các hệ lụy của nó.
Con đường để đi đến Niết bàn là lãnh vực quan trọng nhất trong hệ thống triết
học Phật giáo mà nếu thiếu đi lãnh vực này, Phật giáo chỉ là hệ thống tri thức nhằm
thỏa mãn sự tò mò của con người, làm mất đi sức sống và giá trị đích thực của Phật
GVHD: TS Trần Mai Ước.
HVTH: Nguyễn Thành Tín – Lớp: Cao học 19A
25