Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Ẩn dụ ý niệm miền bộ cơ thể người trong thơ xuân diệu và xuân quỳnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.08 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

HOÀNG THỊ KHÁNH HUYỀN

ẨN DỤ Ý NIỆM MIỀN BỘ PHẬN
CƠ THỂ NGƯỜI TRONG THƠ
XUÂN DIỆU VÀ XUÂN QUỲNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

HÀ NỘI, 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

HOÀNG THỊ KHÁNH HUYỀN

ẨN DỤ Ý NIỆM MIỀN BỘ PHẬN
CƠ THỂ NGƯỜI TRONG THƠ
XUÂN DIỆU VÀ XUÂN QUỲNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Người hướng dẫn khoa học:

TS. Nguyễn Thị Hiền

HÀ NỘI, 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng những số liệu, kết quả khảo sát được đưa ra
trong bản khóa luận này là trung thực, và là kết quả nghiên cứu khoa học thực
sự của cá nhân tôi được thực hiện trong thời gian học tập tại trường và chưa
từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.

Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Tác giả khóa luận

Hoàng Thị Khánh Huyền


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành tốt công trình nghiên cứu này, tôi xin gửi lời cảm
ơn tới các thầy cô giảng viên, cán bộ trong khoa Ngữ Văn, tổ Ngôn ngữ và
đặc biệt là TS. Nguyễn Thị Hiền - người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn
những kiến thức chuyên môn và dìu dắt tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới hai bậc sinh thành cùng gia đình,
bạn bè đã luôn bên cạnh, quan tâm, giúp đỡ tôi để tôi đủ nghị lực vượt qua
các khó khăn trong suốt thời gian học tập cũng như trong quá trình thực hiện
công trình nghiên cứu của mình.
Do trình độ, vốn kiến thức của bản thân chưa phong phú, nên khóa luận
vẫn chưa được đầy đủ và còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được
sự ý kiến đóng góp của thầy, cô giáo cùng các bạn để bản khóa luận của tôi
đầy đủ và tốt hơn.



Trâ
n
trọn
g!

H
Tác
giả
khó
a
luậ
n

H
o
à
n
g
T
h

K
h
á
n
h
H
u
y


n


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 2
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 3
6. Đóng góp của khóa luận............................................................................... 4
7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 4
Chương 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT .................................................................... 5
1.1. Ngôn ngữ học tri nhận................................................................................ 5
1.2. Ẩn dụ ý niệm .............................................................................................. 5
1.2.1. Các quan niệm về ẩn dụ .......................................................................... 5
1.2.2. Khái niệm ẩn dụ ý niệm .......................................................................... 6
1.2.3 Phân loại ẩn dụ ý niệm ............................................................................. 8
1.2.3.1. Ẩn dụ cấu trúc (Structural metaphors)................................................. 8
1.2.3.2. Ẩn dụ vật chứa (Metaphorical container) ............................................ 9
1.2.3.3. Ẩn dụ định hướng (Orientational metaphors).................................... 10
1.3. Khái quát về ý niệm bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt.................... 11
1.4. Khái quát về đặc điểm ngôn ngữ thơ Xuân Diệu và thơ Xuân Quỳnh .... 13
1.4.1. Khái quát đặc điểm ngôn ngữ thơ Xuân Diệu ...................................... 13
1.4.2. Khái quát đặc điểm thơ Xuân Quỳnh.................................................... 14
Tiểu kết chương 1.......................................................................................... 15
Chương 2. CÁC LOẠI ẨN DỤ Ý NIỆM TRONG THƠ XUÂN DIỆU VÀ
XUÂN QUỲNH ............................................................................................. 17
2.1. Một số ý niệm bộ phận cơ thể người trong thơ Xuân Diệu và Xuân Quỳnh
... 17

2.2. Ẩn dụ vật chứa trong thơ Xuân Diệu và Xuân Quỳnh............................. 21
2.2.1. Lòng là vật chứa tâm trạng, cảm xúc trong tình yêu ............................ 21
2.2.1.1. Lòng là vật chứa nỗi nhớ nhung ........................................................ 22
2.2.1.2. Lòng là vật chứa nỗi buồn, sự đau khổ, cô đơn ................................. 24


2.2.1.3. Lòng là vật chứa niềm vui.................................................................. 26
2.2.1.4. Lòng là vật chứa sự tức giận, lo lắng ................................................. 27
2.2.1.5. Lòng là vật chứa những rung động mới mẻ trong tình yêu ............... 28
2.2.2. Trái tim là vật chứa tâm trạng, cảm xúc ............................................... 30
2.2.2.1. Trái tim là vật chứa cảm xúc nồng cháy, say mê và hăm hở, rạo rực 32
2.2.2.2. Trái tim là vật chứa nỗi buồn, lo âu, buồn bã, nuối tiếc .................... 32
2.2.2.3. Trái tim là vật chứa sự bồi hồi, xao xuyến, yêu thương .................... 34
2.2.2.4. Trái tim là vật chứa sự đau đớn trong tình yêu .................................. 35
2.2.3. Đôi mắt là vật chứa tâm trạng, cảm xúc trong tình yêu........................ 35
2.2.3.1. Đôi mắt là vật chứa tình cảm yêu thương tha thiết của lứa đôi ......... 36
2.2.3.2. Đôi mắt là vật chứa sự lo lắng, ngại ngùng, băn khoăn..................... 37
2.2.3.3. Đôi mắt là vật chứa niềm vui, nỗi buồn cụ thể .................................. 38
2.2.4. Bàn tay là vật chứa những tình cảm yêu thương .................................. 40
2.2.4.1. Bàn tay là vật chứa tình yêu thương lứa đôi ...................................... 40
2.2.4.2. Bàn tay chứa đựng niềm say mê, khao khát ...................................... 42
2.2.4.3. Bàn tay là vật chứa cho những nỗi vất vả, nhọc nhằn ....................... 42
2.2.4.4. Bàn tay là vật chứa nỗi lo sợ, sự đổ vỡ của tình yêu ......................... 43
2.2.5. Đầu là vật chứa...................................................................................... 44
2.2.5.1. Đầu vật chứa là suy nghĩ, trí tuệ, ý tưởng.......................................... 44
2.2.5.2. Đầu là vật chứa tình cảm cụ thể trong tình yêu ................................. 45
Tiểu kết chương 2.......................................................................................... 47
KẾT LUẬN .................................................................................................... 48
NGUỒN NGỮ LIỆU KHẢO SÁT
TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BPCTN

: Bộ phận cơ thể người

Nxb

: Nhà xuất bản


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1


1.1. Trong ngôn ngữ học tri nhận, nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người
luôn được sự quan tâm của nhiều nhà ngôn ngữ và có vai trò đặc biệt quan
trọng trong văn hóa Việt Nam. Việc sử dụng các bộ phận cơ thể con người trở
thành những ẩn dụ ý niệm trong văn chương không còn là điều xa lạ, nhóm từ
chỉ bộ phận cơ thể người được sử dụng khá nhiều với những ý nghĩa phong
phú và đa dạng.
1.2 Ẩn dụ ý niệm được xem như là cách nhìn một đối tượng này qua
một đối tượng khác, theo quan niệm này đây chính là một phương thức biểu
tượng tri thức dưới dạng ngôn ngữ, phương pháp này đáp ứng được nhu cầu
của con người qua cách thức con người suy nghĩ về sự vật.
1.3. Xuân Diệu khi mới bước chân vào thi đàn văn học, ông đã lạc vào

con mắt xanh của những người có tên tuổi uy tín trong giới nghệ sĩ, vị thế của
ông càng được nâng cao hơn qua phong trào thơ mới với những đóng góp tích
cực và ông được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới”.
Xuân Quỳnh là nữ thi sĩ nổi tiếng có bản sắc riêng, nổi lên giữa những năm
chiến tranh khốc liệt, Xuân Quỳnh như cành hoa dại mọc lên giữa rừng bom.
Thơ Xuân Quỳnh nhanh chóng được nhiều độc giả đón nhận bởi những bài
thơ về mối tình nồng nhiệt, nhưng cũng rất chân thành, sâu lắng. Tuy mỗi
người ở một thời đại khác nhau, nhưng họ lại có sự gặp gỡ ở tâm hồn cũng
như cách sử dụng ngôn từ để biểu đạt ý thức nghệ thuật thể hiện những mong
muốn khát khao về tình yêu, của những trái tim yêu mãnh liệt.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Ẩn dụ ý niệm miền bộ
cơ thể người trong thơ Xuân Diệu và Xuân Quỳnh” làm đối tượng nghiên cứu
cho khóa luận của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nghiên cứu về ẩn dụ ý
niệm
Ẩn dụ ý niệm được xem là một biện pháp tu từ trong ngôn ngữ học tri
nhận, những ẩn dụ không chỉ xuất hiện trong văn học mà còn rất gần gũi với
cuộc sống của con người, vì thế đã có nhiều công trình nghiên cứu về nó ví dụ
như công trình nghiên cứu của các tác giả như: Trần Văn Nam (2017), Ẩn dụ ý
niệm về tình yêu trong thơ mới 1932 - 1945,Trần Thị Phương Lý (2012) Ẩn dụ

2


ý niệm phạm trù thực vật trong tiếng Việt, luận án tiến sĩ hay Nguyễn
Hoài
Nghiêm (2011), Ẩn dụ ý niệm tình yêu là cuộc hành trình trong thơ Xuân
Diệu.
Những nghiên cứu này đã chỉ ra ẩn dụ ý niệm không chỉ là phương

thức nghệ thuật tu từ, mà nó còn là quá trình tri nhận mang dậm dấu ấn dân
tộc, văn hóa. Các bài viết cũng chỉ ra cơ chế của các ánh xạ ẩn dụ ý niệm.
Theo đó, các bài nghiên cứu cũng chỉ ra có các loại ẩn dụ ý niệm: ẩn dụ vật
chứa, ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ định hướng…
2.2. Nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm miền ý niệm bộ phận cơ thể người
Nhìn một cách khái quát, hiện nay, đã có rất nhiều nghiên cứu trong và
ngoài nước đã nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm miền ý niệm bộ phận cơ thể người.
Đó là một số nghiên cứu tiêu biểu như của Tomita KenJi người Nhật, công
trình nghiên cứu về các từ chỉ bộ phận cơ thể người của Tiếng Việt và Tiếng
Nhật qua sự tương quan so sánh. Bên cạnh đó, ở Việt Nam đã có nhiều nhà
nghiên cứu về vấn đề này trong đó có thể kể đến luận án của tác giả Trịnh Thị
Thanh Huệ đã chỉ ra sự tương đồng và khác biệt trong cách tư duy của hai dân
tộc Việt - Hán qua đề tài “Nghiên cứu so sánh đối chiếu ẩn dụ trong tiếng
Việt và tiếng Hán từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận (trên tư liệu bộ phận cơ
thể người)”; luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Hoàng Linh với đề tài “Đặc
trưng tri nhận văn hóa của người Việt (Qua nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể
người)... Những nghiên cứu trên đã lý giải cơ chế tri nhận của ẩn dụ qua
những yếu tố văn hóa, địa lý và qua cách thức tư duy của mỗi dân tộc.
Như vậy, các từ chỉ BPCTN là nhóm từ vựng cơ bản, “thuần chất” của
mỗi ngôn ngữ. Nhóm từ chỉ BPCTN đã được nghiên cứu theo nhiều góc độ.
Tuy những công trình này đã được nghiên cứu khá tỉ mỉ và công phu xong nó
là những điểm khái quát nhất nhưng phương diện này chưa được đề cập tới
trong thơ Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Vì vậy, trong khóa luận của mình tôi
tập trung làm rõ những điểm cụ thể về phương thức ẩn dụ ý niệm chỉ bộ phận
cơ thể người trong thơ của hai tác giả nói trên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các ẩn dụ ý niệm miền bộ phận cơ thể người trong
thơ Xuân Diệu và Xuân Quỳnh.
3



3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu nghiên cứu các ẩn dụ ý niệm miền bộ phận cơ thể
người trong các tập thơ của Xuân Diệu: Thơ thơ, Gửi hương cho gió (2012),
NXB Văn học và các tập thơ của Xuân Quỳnh Tự hát, Hoa dọc chiến hào,
Không bao giờ là cuối (2012), NXB văn học.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là tìm hiểu các ẩn dụ ý niệm trong
những tập thơ: Thơ Thơ, Gửi hương cho gió (2012,) của nhà thơ Xuân Diệu
và các tập thơ: Tự hát, Hoa dọc chiến hào, Không bao giờ là cuối (2012) của
tác giả Xuân Quỳnh. Qua đó, thấy được đặc điểm tư duy của dân tộc qua niềm
ý niệm BPCTN, và qua cơ chế của ẩn dụ chúng ta sẽ hiểu một cách rõ nét
những cảm nhận tinh thế cũng như cái nhìn sâu sắc của hai tác giả này. Và có
sự phân biệt chính xác giữa ẩn dụ ý niệm và đặc trưng phong cách của nhà văn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, chúng tôi thực hiện các nhiệm
vụ như sau:
- Hệ thống các cơ sở lý thuyết về ẩn dụ và ẩn dụ ý niệm.
- Khảo sát các mô hình ẩn dụ ý niệm miền bộ phận cơ thể người.
- Phân tích, miêu tả, lí giải sự tri nhận trong các mô hình ẩn dụ ý niệm
miền BPCTN.
- Đánh giá, so sánh phong cách nghệ thuật của các tác giả qua các ẩn dụ
ý niệm.
- Kết luận làm rõ ý nghĩa của ẩn dụ ý niệm trong thơ của Xuân Quỳnh
và Xuân Diệu nói riêng và trong văn học nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích, miêu tả
Sử dụng phương pháp phân tích miêu tả để chỉ ra những đặc điểm cụ

thể của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người trong thơ Xuân Diệu và Xuân
Quỳnh dưới góc độ của ngôn ngữ học tri nhận.

4


5.2. Phương pháp phân tích nghĩa tố
Sử dụng phương pháp này nhằm phân tích ý nghĩa gốc của các từ chỉ
bộ phận cơ thể người và sự biến đổi ý nghĩa của nó qua các miền ý niệm trong
thơ Xuân Diệu và Xuân Quỳnh.
5.3. Phương pháp phân tích ý niệm
Phương pháp được sử dụng để phân tích các ý niệm miền BPCTN
trong thơ Xuân Diệu và Xuân Quỳnh, qua đó để thấy được cơ chế của ẩn dụ ý
niệm và phân biệt giữa ẩn dụ ý niệm và đặc trưng phong cách của nhà văn.
5.4. Thủ pháp thống kê, phân loại
Khóa luận đã sử dụng thủ pháp trên để phân loại, thống kê các ẩn dụ ý
niệm miền BPCTN trong thơ của Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Thủ pháp này
đã giúp khóa luận rút ra nhận xét, về sự chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ bộ
phận cơ thể người trong thơ của hai tác giả nói trên, và rút ra được bảng phân
loại với các tiêu chí cụ thể như sau:
STT Từ chỉ BPCTN Số lần xuất hiện/ Tác phẩm Tỉ lệ % Ví dụ
1

xx

xx

xx

xx


2
3
....
6. Đóng góp của khóa luận
Kết quả của khóa luận là những đóng góp mới nhất về sự tìm hiểu,
phân tích cơ chế chuyển nghĩa của lớp ẩn dụ ý niệm chỉ bộ phận cơ thể người
trong thơ Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Qua việc khảo sát, phân tích những ngữ
liệu cụ thể giúp người đọc có cái nhìn chính xác về ý niệm và ẩn dụ ý niệm.
Những kết quả nghiên cứu của khóa luận cung cấp thêm về mặt ngữ liệu cho
việc nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ và văn chương.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận được triển khai theo 2 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Các loại ẩn dụ ý niệm miền bộ phận cơ thể người trong thơ
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh

5


Chương 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Ngôn ngữ học tri nhận
Ngôn ngữ học tri nhận (Congnitivelinguistics), là một khuynh hướng
nghiên cứu ngôn ngữ, trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự cảm thụ của con
người về thế giới khách quan cũng như cách mà con người tri giác và ý niệm
hóa các sự việc, sự tình trong thế giới khách quan đó.
Như vậy, có thể khẳng định rằng: “ Ngôn ngữ học tri nhận là một
khuynh hướng ngữ nghĩa coi trọng sự tri nhận trong quá trình tri nhận về thế
giới xung quanh. Nó đề cao sự tri giác, nhận thức và năng lực của tư duy

trong việc phân tích, miêu tả nghĩa của ngôn ngữ”. Vượt lên những hạn chế
của những khuynh hướng ngôn ngữ học trước đó, ngôn ngữ học tri nhận quan
niệm: “Ngôn ngữ là một năng lực tinh thần và khả năng ngôn ngữ của con
người được xác định như một hình thức của tri thức, của khả năng tri nhận”.
Ngôn ngữ học tri nhận đã xác định nghĩa của từ không phải là cái có
sẵn, không tồn tại độc lập mà nó được bắt nguồn từ ý thức, từ sự hiểu biết và
cảm nhận của con người: “Nó là ý niệm, sự hình dung, tưởng tượng của người
nói khi dùng tín hiệu ngôn ngữ, thổi vào tín hiệu ngôn ngữ trong nói năng,
giao tiếp, suy tưởng” [6,54]. Bởi vậy thuật ngữ quan trọng nhất của ngôn ngữ
học tri nhận chính là ý niệm.
Hiện nay, khuynh hướng nghiên cứu về ngôn ngữ học tri nhận đã thu
hút được sự quan tâm của nhiều nhà ngôn ngữ ở những khía cạnh khác nhau,
và đã mang lại những kết quả phong phú. Trong phần này, để phục vụ nhiệm
vụ nghiên cứu, khóa luận đã trình bày những vấn đề cơ bản nhất về ngôn ngữ
học tri nhận liên quan trực tiếp đến đề tài.
1.2. Ẩn dụ ý niệm
1.2.1. Các quan niệm về ẩn dụ
Quan điểm truyền thống cho rằng “Ẩn dụ được coi là cách thức chuyển
đổi tên gọi dựa theo sự so sánh ngầm giữa hai sự vật có nét tương đồng hoặc
giống nhau [3;10]”. Quan điểm này đã được nêu rõ qua các công trình của
Bain 1887, Bafile 1962, Black 1969…

6


Theo ngôn ngữ học tri nhận, Lakoff cho rằng: “Ẩn dụ ẩn chứa trong
ngôn ngữ sinh hoạt và trong ca dao, tục ngữ. Ẩn dụ không chỉ là vấn đề từ
ngữ mà là lý tưởng, cho phép con người thể hiện suy nghĩ về bản thân và thế
giới. Hay nói cách khác hệ thống ý niệm của con người được cấu trúc và xác
định theo ẩn dụ” [5;12].

Với cách hiểu ẩn dụ là phương tiện của tư duy, Lý Toàn Thắng đã
khẳng định về tầm quan trọng của ẩn dụ với ngôn ngữ học tri nhận, trong
công trình nghiên cứu của mình, tác giả đã đặt ẩn dụ trong quan niệm truyền
thống và tu từ học và đưa ra kết luận: “Ẩn dụ truyền thống và văn học tu từ
thường được coi là một trong hai kiểu chính của phép tu từ dùng theo nghĩa
bóng dựa trên những khái niệm tương tự và so sánh giữa nghĩa đen và nghĩa
bóng của từ ngữ”. Ông đã đưa ra cách hiểu mới về ẩn dụ: “Ẩn dụ ý niệm là
một trong sự di chuyển, hay một sự đồ họa cấu trúc và các quan hệ nội tại
của một lĩnh vực hay một mô hình tri nhận đích” [3;12].
Như vậy, đã có nhiều quan điểm về ẩn dụ truyền thống và tất cả các
quan điểm này đều cho rằng ẩn dụ là sự so sánh ngầm, là cách gọi tên sự vật
hiện tượng này bằng tên của sự vật khác dựa trên sự tương đồng về các mặt
như hình thức, cách thức, phẩm chất… Với cách nghĩ trên, ẩn dụ truyền thống
là một biểu tượng tri thức dưới dạng ngôn ngữ [12].
1.2.2. Khái niệm ẩn dụ ý niệm
Ẩn dụ ý niệm hay ẩn dụ tri nhận (Conpeptual metaphors) là một cơ chế
tri nhận, trong khoa học tri nhận thì tri nhận biểu hiện một quá trình nhận thức
hoặc tổng thể những quá trình tri giác - tâm lý - tất cả những cái tạo thành
hành vi của con người. Quá trình của nó bắt đầu từ quá trình nhận thức, ý
niệm hóa, và cải biến các dữ liệu trong bộ não của con người nhờ đó con
người có sự nhận thức về thế giới.
“Theo Lakoff, ẩn dụ ý niệm (conceptual metaphor) là các ánh xạ có
tính hệ thống giữa hai miền ý niệm: miền nguồn là một phạm trù trải nghiệm
được ánh xạ hay phóng chiếu vào miền đích là một miền trải nghiệm khác”.
Như vậy ta có thể hiểu rằng ẩn dụ ý niệm hay ẩn dụ tri nhận là một trong
những hình thức ý niệm hóa, là cách nhìn sự vật sự việc đối tượng này qua
một đối tượng khác, nó có chức năng biểu hiện và hình thành những ý niệm
mới, không có
7



quá trình này thì không thể nhận được tri thức mới, và theo nét nghĩa này ẩn
dụ ý niệm là một trong những phương thức biểu tượng tri thức dưới dạng
ngôn ngữ.
Về nguồn gốc, ẩn dụ ý niệm đáp ứng nhu cầu nhận thức thế giới của
con người. Đó là cách con người ý niệm hóa một miền tâm trí qua một miền
tâm trí khác, các ẩn dụ này hoạt động như là những công cụ tri nhận, phản ánh
quá trình ý niệm hóa thế giới, cách thức mà con người suy nghĩ về sự vật.
Các ẩn dụ ý niệm thường được diễn đạt theo công thức A như (là) B.
“Trong ẩn dụ ý niệm, một miền ý niệm đích có thể được hiểu qua nhiều miền
ý niệm nguồn khác nhau theo kiểu A  B1, B2….Bn ” như các ẩn dụ: Cuộc đời
là những chuyến đi, trong đó cuộc đời là đích và những chuyến đi chính là
những chặng đường mà con người phải trải qua; hoặc cũng có thể hiểu những
chuyến đi là khó khăn, thử thách cũng như sự mới mẻ trong cuộc đời mỗi
người. Hoặc những ví dụ khác như: Nhà là nơi để về trong đó: Nhà là đích
đến, và nơi để về chính là địa điểm hướng đến, nhà tôi (ám chỉ đối tượng
được nhắc đến có thể người vợ/ người chồng chỉ mối quan hệ giữa vợ chồng
“Tôi yêu nhà tôi lắm” ); nhà Trắng là nhà nơi ở của Tổng thống Hoa Kì.
Về cấu ẩn dụ ý niệm được tạo ra trên quan điểm nhận thức, đó là cơ chế
chuyển nghĩa từ miền Nguồn đến miền Đích, trong đó những tri thức ở miền
Nguồn ánh xạ lên miền Đích, và những đặc tính của miền Đích được gán cho
miền Nguồn. Theo nguyên lý tri nhận đã nêu ở trên ẩn dụ ý niệm là cách hiểu
đối tượng này qua cách nhìn một đối tượng khác, nghĩa là Nguồn có chức
năng cung cấp tri thức mới và chuyển tri thức mới đó cho miền Đích. Ta có
một số ví dụ về ẩn dụ tri nhận trong sách “Metaphors we live by” của Lakoff
và Johnson như sau:
“THỜI GIAN LÀ TIỀN BẠC; TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH;
TÌNH YÊU LÀ CHIẾN TRANH; HẠNH PHÚC ĐỊNH HƯỚNG LÊN
TRÊN; BẤT HẠNH ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG DƯỚI”. Trong đó nguồn ở
đây chính là (tiền bạc, cuộc hành trình, chiến tranh, lên trên, xuống dưới) bởi

đây là những tri thức được chuyển gán cho miền đích (thời gian, tình yêu,
hạnh phúc, bất hạnh).
Để thấy rõ được cơ chế chuyển nghĩa từ của hai miền, ta cùng phân
tích ví dụ: TÌNH YÊU LÀ MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH thì có thể dẫn đến
những nét hiểu như: “chiến thắng, thất bại, bị thương, tổn thất, hạnh phúc,

8


xung đột… rồi đem gán chúng cho miền đích tình yêu. Do đó ý niệm cuộc
hành trình từ đây có những nét thuộc tính mới.
Ta có bảng so sánh:
Miền nguồn
Miền đích
Cãi vã, xung đột

Đau khổ trong tình yêu

Ít cãi vã

Tình yêu vui vẻ

Đấu tranh để xây dựng tình yêu

Tình yêu hạnh phúc

Qua bảng so sánh trên, ta thấy miền nguồn là là một sự chuyển dịch
trong không gian (hành trình), và miền đích (tình yêu) là một điều trừu tượng.
Về ý nghĩa ẩn dụ tri nhận giúp chúng ta hiểu được những khái niệm
tương đối trừu tượng những thuật ngữ mang tính khái quát trở nên dễ hiểu

hơn. Ví dụ như trong ẩn dụ tri nhận THỜI GIAN LÀ TIỀN BẠC những ý
niệm như giữ gìn, tiết kiệm thời gian trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn.
Ngoài ra, ẩn dụ ý niệm cũng là một phạm trù của ý thức, nên chúng ta
chỉ có thể cảm nhận và thông hiểu chúng, khi ẩn dụ ý niệm được thực hiện
bằng những biểu thức ẩn dụ (Metaphorical expression) trong đó ẩn dụ ý niệm
là ý niệm còn câu chữ chính là biểu thức chứa các ý niệm trên. “Ngoài ra, ý
niệm còn chứa đựng sự hiểu biết của con người và thế giới được hình thành
trong ý thức, trong quá trình tri nhận và hiện thân trong ngôn ngữ, bởi vậy
trong ý niệm có cái phổ quát và cái đặc thù” [12].
1.2.3 Phân loại ẩn dụ ý niệm
1.2.3.1. Ẩn dụ cấu trúc (Structural metaphors)
Ẩn dụ cấu trúc (Structural metaphors), là tạo ra một cấu trúc ý niệm
này từ một cấu trúc ý niệm khác, dùng các từ ngữ thuộc vùng ý niệm này để
bàn về ý niệm khác” [11-tr 243]. Nói cách khác ẩn dụ cấu trúc là hiện tượng
cấu trúc lại ý niệm ở miền đích về mặt ý nghĩa khi nhận được những nét thuộc
tính mới do ý niệm ở miền nguồn ánh xạ lên miền đích. Ví dụ, trong ẩn dụ:
“Thời gian là tiền bạc”, ta thấy miền nguồn ở đây là tiền bạc, miền đích là
thời gian, miền nguồn đã cấu trúc hóa ý niệm ở miền đích là thời gian, làm
cho hai khách thể này trở nên tương đồng, và làm xuất hiện những biểu thức
như sau:
Chị tôi đã sử dụng toàn bộ thời gian để xem phim.
9


Anh ta không có thời gian dành cho tôi.
Chiếc máy tính giúp chúng ta tiết kiệm thời gian.
Bài tập này làm tôi tốn mất năm giờ đồng hồ để làm nó.
Đừng để thời gian trôi qua một cách lãng phí như vậy.
Qua những biểu thức trên, ta thấy các biểu thức đều được tạo ra từ ý
niệm về việc sử dụng thời gian. “Như vậy, bản chất của ẩn dụ cấu trúc là sự

ngữ nghĩa hóa và cảm nhận những hiện tượng cùng loại này trong thuật ngữ
những biểu tượng cùng loại khác” [12].
1.2.3.2. Ẩn dụ vật chứa (Metaphorical container)
Ẩn dụ vật chứa (Metaphorical container), được hiểu là “những cách
thức nhìn nhận các sự kiện, các hoạt động, cảm xúc, ý tưởng,… như các vật
thể và vật chất”. Vật chứa là những vật bị giới hạn bởi một không gian nhất
định và tách biệt khỏi thế giới bên ngoài bởi bề mặt của nó. Mỗi bộ phận cơ
thể con người cũng có thể được xem như những vật chứa như đầu là cơ quan
của đầu não, vật chứa bộ não con người, bụng chứa suy nghĩ và tình cảm, tim
gan, dạ chứa đựng tình cảm của con người.
Bên cạnh đó, mỗi một bộ phận cơ thể con người là là những vật chứa
như đầu là vật chứa bộ não của cơ thể con người, đây là cơ quan điều khiển
cao nhất mọi hoạt động của cơ thể con người, lòng, bụng dạ, tim, gan là
những vật chứa cho suy nghĩ, tình cảm của con người.
Mỗi một vật chứa là một ẩn dụ tri nhận, cho phép con người hình thành
ranh giới để tri nhận về đối tượng. Đặc biệt, ẩn dụ vật chứa bộ phận cơ thể
người được ý niệm qua mô hình: Bộ phận cơ thể người là vật chứa có thể dãn
nở, co kéo, di chuyển chứa bên trong nó những tâm trạng khác nhau của con
người như vui, buồn, hờn giận, lo lắng, đau đớn, hạnh phúc… Chúng ta có thể
khái quát bộ phận cơ thể người là vật chứa qua bảng sau:
Bộ phận cơ thể
người
Lòng

Ẩn dụ vật chứa

Biểu thức
Tôi cứ bắt lòng tôi đau đớn mãi,

Vật chứa cảm

xúc

Đau vô duyên, đau không để làm gì
(Thở than - Xuân Diệu)

10


Dạ yêu đời thỏa mấy vẫn chưa an,
Và lòng ta như vậy đó nhân gian
(Mênh mông - Xuân Diệu)

Dạ

Qua ánh mắt anh hiểu điều lo lắng
Anh nghĩ gì khi nhìn xuống bàn tay
(Bàn tay em - Xuân Quỳnh)

Mắt
Đầu, óc

Vật chứa lí trí

Ý tưởng đã có sẵn trong đầu

Trái tim

Vật chứa tình
yêu


Bàn tay

Vật chứa tình
cảm

Nghìn trái tim mang trong một trái
tim
(Cảm
Bàn tay ấm, mái
tóc xúc
mềm- Xuân
buôngDiệu)
xõa
Ánh mắt nhìn như chấp cả vô biên
(Thơ tình cho bạn trẻ - Xuân Quỳnh)

..vv
1.2.3.3. Ẩn dụ định hướng (Orientational metaphors)
Ẩn dụ định hướng là “cấu trúc hóa một số miền và tạo nên một hệ
thống ý niệm hóa chung cho chúng, chúng liên quan đến việc định hướng
trong không gian với những đối lập kiểu như lên - xuống, vào - ra, sâu - cạn,
trung tâm - ngoại vi” [5-tr31]. Trong tiếng Việt thường có một số ẩn dụ định
hướng liên quan đến bộ phận cơ thể người như ẩn dụ định hướng lên xuống,
ta có hướng lên là vui, hướng xuống thể hiện nỗi buồn với những biểu thức
như sau: VUI LÀ HƯỚNG LÊN: Mắt sáng lên, hai tay reo hò, khi cánh tay
dang ôm cả sơn hà, chân vút thẳng sắp lên đường vượt trải [5-tr4]. BUỒN LÀ
HƯỚNG XUỐNG với các biểu thức như: Chớ mộng cánh tay cành chuốt
ngọc/ Mơ chi con mắt lặng gieo sầu. Tay em thả xuôi xuôi như bay vào cõi
mộng. Ngoài ra, còn có ẩn dụ định hướng ra vào trong đó định hướng VÀO
LÀ TẬP CHUNG, RA LÀ THIẾU TẬP CHUNG. Ví dụ VÀO LÀ TẬP

CHUNG NHƯ SAU:
Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!
Hãy trộn nhau đôi mái tóc dài
(Xa cách - Xuân Diệu)

11


Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt
(Xa cách - Xuân Diệu)
Ngược lại RA LÀ THIẾU TẬP CHUNG: Ngậm
ngùi tặng trái tim lưu lạc Anh chỉ
xin em về một chút hương
(Muộn màng - Xuân Diệu)
Như đối cùng ta dưới cảnh mưa
Mà lòng không hiểu, trán bơ vơ,
(Bên ấy bên này - Xuân Diệu)
“Ẩn dụ định hướng có sự khác biệt so với ẩn dụ cấu trúc ở chỗ đây là
loại ẩn dụ ý niệm không có sự sắp xếp lại về mặt cấu trúc một ý niệm này
trong thuật ngữ của một ý niệm khác, nhưng nó tồn tại tổ chức của cả một hệ
thống ý niệm theo mẫu của một hệ thống nào đó khác” [7].
Tóm lại, những ẩn dụ định hướng này được tích lũy từ lâu đời, được
xuất phát và lý giải từ kinh nghiệm văn hóa của con người, và có tác dụng lớn
trở thành cơ sở để các nhà văn nhà thơ khám phá, tìm tòi và sáng tạo, tạo nên
những phá cách hay và độc đáo góp phần hình thành phong cách văn chương
riêng của mỗi tác giả.
Qua ba loại ẩn dụ ý niệm mà khóa luận đã trình bày, chúng ta thấy rằng
phạm vi của ẩn dụ ý niệm được mở rộng rất nhiều so với phạm vi của ẩn dụ tu
từ theo quan điểm truyền thống chỉ coi ẩn dụ như một phương thức của tu từ

học thì đến đây ẩn dụ tri nhận được hiểu là cách nhìn đối tượng này thông qua
sự hiểu biết về một đối tượng khác đã biết.
1.3. Khái quát về ý niệm bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt
BPCTN là những bộ phận khác nhau, thực hiện những chức năng riêng,
được thống nhất làm nên chỉnh thể một cơ thể người.
Tuy nhiên việc phân loại tên gọi BPCTN còn gặp nhiều tranh cãi bởi sự
tồn tại của hai hệ thống tên gọi cùng lúc, đó là tên gọi theo khoa học và hệ

12


thống tên gọi theo thói quen. Trong khóa luận này chúng tôi lựa chọn cách gọi
theo thói quen và phân loại theo đặc điểm về vị trí thành ba nhóm lớn như sau:
- Nhóm trường nghĩa chỉ các bộ phận thuộc phần đầu bao gồm: Đầu,
mắt, não, tóc, sọ, tai, tóc, mắt, mũi, miệng, má, lông mi, lông mày, cằm, trán…
- Nhóm trường nghĩa chỉ các bộ phận thuộc phần nội tạng gồm: Lòng ,
dạ, gan, tim, ruột, mề, đại tràng,… Những bộ phận này tuy không được nhận
diện rõ ràng nhưng mỗi bộ phận lại có một chức năng riêng rất rõ ràng nên
chúng được sử dụng nhiều trong ẩn dụ và hoán dụ. Nó mang ý nghĩa biểu thị
cho tư tưởng, tình cảm, trạng thái tâm lý của con người.
- Nhóm trường nghĩa chỉ các bộ phận thuộc phần còn lại: Tay, chân,
đầu gối, bàn chân, lưng, ngón tay, eo, ngực, nách
Từ kết quả thống kê, theo bộ phận hành chức, chúng tôi nhận thấy các
tên gọi BPCTN xuất hiện không đồng đều trong các ẩn dụ. Ẩn dụ dựa vào
những đặc điểm về chức năng của bộ phận cơ thể người với những sự vật,
hiện tượng trong thế giới khách quan.
Trong tiếng Việt và đặc biệt là văn học, rất nhiều bộ phận cơ thể người
được sử dụng để biểu đạt những ý niệm trừu tượng về tâm lý, tính cách của
con người cho nên đã hình thành các mô hình tri nhận như BỘ PHẬN CƠ
THỂ ĐẠI DIỆN CHO TÂM LÍ, CẢM XÚC TRÍ TUỆ ví dụ như lòng, dạ,

gan là những bộ phận tiêu biểu đại diện cho PHẨM CHẤT TÍNH CÁCH
CỦA CON NGƯỜI: Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật/ Không cho dài
thời trẻ của nhân gian.
ĐẦU ÓC LÀ VẬT CHỨA CỦA TRÍ TUỆ: Đầu óc họ đã quen tính toán
/Mỗi khoản trong đời đều xếp ngăn.
TIM LÀ VẬT CHỨA CỦA TÌNH YÊU: Trái tim buồn sau lần áo mỏng
/Từng đập vì anh vì những trang thơ.
BÀN TAY LÀ VẬT CHỨA ĐỰNG TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ:
Tay cắm hoa, tay để treo tranh/ Tay thắp sáng ngọn đèn đêm anh đọc / Tay
em dừng trên vầng trán lo âu / Khi anh vắng bàn tay em biết nhớ.
MẮT LÀ VẬT CHỨA NHỮNG TÌNH CẢM CỤ THỂ: Mắt ướt trông nhau
lệ muốn tuôn/ Lưu luyến chi nhau để sớt buồn.

13


Như vậy, mỗi một bộ phận cơ thể người đại điện cho những miền tri
nhận khác nhau và mỗi bộ phận có một ý nghĩa riêng.
1.4. Khái quát về đặc điểm ngôn ngữ thơ Xuân Diệu và thơ Xuân Quỳnh
1.4.1. Khái quát đặc điểm ngôn ngữ thơ Xuân Diệu
Xuân Diệu (1916 -1985), tên thật là Ngô Xuân Diệu, ông được biết đến
như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ
mới”(Hoài Thanh), “ông hoàng của thơ tình”. Ông trở thành chủ soái của
phong trào thơ mới với những tập thơ tiêu biểu như “Thơ thơ (1938), Gửi
hương cho gió (1945)… và rất nhiều tập thơ khác đã làm nên tên tuổi của
Xuân Diệu.
Thơ ông thể hiện tâm sự của cái tôi cá nhân vừa mới lạ nhưng cũng rất
ý nhị, kín đáo. Nhà phê bình Hoài Thanh đã viết trong “Thi nhân Việt Nam”
rằng : “Tôi đã trót yêu cái hồn thơ Xuân Diệu, một hồn thơ luôn rộng mở,
chẳng bao giờ để lòng mình khép kín, một hồn thơ tha thiết, rạo rực, băn

khoăn” (1-tr137). Cũng chính những đặc điểm ấy đã tạo nên một lối thơ rất lạ,
rất duyên và cũng rất độc đáo mang tên Xuân Diệu.
Xuân Diệu đã thổi một làn gió mới vào văn đàn Việt Nam bởi sự táo
bạo và những cách tân mới mẻ của mình, không khó để bắt gặp sự cách tân
táo bạo này trong những trang thơ của ông. Trước hết đó là cách tổ chức hình
thức câu thơ mới mẻ, cùng một hệ thống ngôn ngữ đầy cá tính mà chúng ta
chưa từng bắt gặp trong thơ ca truyền thống, bài thơ Vội vàng là một ví dụ
điển hình cho phong cách ngôn ngữ thơ Xuân Diệu.
Những hình ảnh hết sức mới lạ, cùng cách dùng từ táo bạo như: “Hoa
bướm, đồng nội xanh rì” cùng với những cách kết hợp từ mới lạ:“Tháng
giêng ngon như cặp môi gần, Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa, Tôi
không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Không những thế cách sử dụng linh hoạt
nhịp thơ cũng góp phần tạo nên tính nhạc và diễn tả cảm xúc thay đổi đột ngột
khi sung sướng, vui vẻ nhưng mặt khác cũng đầy lo sợ.
Không phải ngẫu nhiên mà Hoài Thanh đã nhận xét rằng: “Xuân Diệu
là thế, lời thơ có lúc rất Tây, nhưng lại mang được cái cốt cách rất đáng trân
trọng, “cái dáng yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất
14


Việt Nam, đã quyến rũ lòng ta”. Ta đến với Xuân Diệu, ngoài những vần thơ
làm người ta rung động còn có cái gì đó ở Xuân Diệu mà ta rất đỗi nâng niu.
Đó là hồn thơ kết tinh của hai nền văn học Đông và Tây đã đưa Xuân Diệu
lên đến đỉnh cao nhất “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới”.Với những
tập thơ như:“Thơ Thơ, Gửi hương cho gió hay Anh đã giết em” đã góp phần
tạo nên tiếng nói riêng của Xuân Diệu trong văn học Việt Nam.
1.4.2. Khái quát đặc điểm thơ Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh (1942 - 1988), tên đầy đủ là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, là
một nữ thi sĩ nổi tiếng trong thi đàn văn học Việt Nam, Xuân Quỳnh xuất hiện
và để lại dấu ấn rất đặc biệt bởi một trái tim hồn hậu, và đầy nữ tính. Hồn thơ

chị còn mang đậm những trăn trở,lo âu, khắc khoải ngay cả khi viết về những
điều bình dị nhất.
“Cái tôi trữ tình trong thơ chị là cái tôi được xây cất bởi những trạng
thái tâm hồn đầy mâu thuẫn của một trái tim đa cảm và tinh tế, cũng có lúc cái
tôi ấy tự tách mình, phân lập mình thành những thái cực khác nhau để tự mổ
xẻ, để thấu lý đạt tình sự vật hiện tượng và đặc biệt để nhận ra chính con
người mình” (2-tr142).
Có lẽ, nét riêng độ đáo trong thơ Xuân Quỳnh chính là giọng điệu thơ
luôn mãnh liệt, sôi nổi nhưng cũng rất chân thành, đằm thắm thể hiện tâm sự
của người phụ nữ trong tình yêu:
“Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ”
Mặt khác, nhà thơ thường viết về những điều bình dị nhất trong cuộc
sống như tiếng gà gáy, tình yêu cuộc sống, hay cả những loài hoa dại tưởng
chừng như không có gì đặc biệt.
Với những tác phẩm như: “Anh, Sóng, Thuyền và Biển, Mẹ của anh”…
Chính những đóng góp mệt mài của mình suốt 30 năm trong chặng đường sáng
tác, Xuân Quỳnh đã trở thành một trong những gương mặt nổi bật nhất của thơ
15


ca thời chống Mỹ, và chính những nỗ lực bền bỉ ấy đã được đền đáp bằng sự
yêu mến của độc giả ngay từ những ngày đầu cho đến ngày hôm nay.
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là hai nhà thơ sinh ra trong thời đại khác
nhau, nhưng đều có những đóng góp nổi bật cho văn học Việt Nam, đặc biệt
trong mảng thơ tình. Mỗi người có một phong cách nghệ thuật riêng, nhưng ta
bắt gặp ở họ một điểm chung trong tâm hồn, đó chính là khao khát đến cháy
bỏng trong tình yêu, chính vì vậy mang đến sự bất tử trong thơ viết về tình

yêu. Không đơn thuần là tình yêu đôi lứa mà còn là tình yêu thiên nhiên, tình
yêu cuộc sống, khát khao giao cảm mãnh liệt với đời. Tất cả điều đó đã tạo
nên hai đại diện thơ tình xuất sắc nhất trong văn học Việt Nam. Hoài Thanh
đã nói rằng: “Tôi trót yêu hồn thơ Xuân Diệu, một hồn thơ đang rộng mở,
chẳng bao giờ để lòng mình khép kín, một hồn thơ tha thiết, rạo rực, băn
khoăn” chính vì thế ông được mệnh danh là nhà thơ mới nhất trong những
nhà thơ mới. Ngược lại, ta bắt gặp một hồn thơ đôn hậu, đằm thắm, nhưng
cũng không kém phần mãnh liệt trong thế giới thơ tình Xuân Quỳnh.
Như vậy, ta thấy sự đồng điệu của hai nhà thơ trong đề tài thơ tình và
những cải biến về đặc điểm ngôn ngữ thơ, đặc biệt trong khóa luận này tôi
muốn đề cập đến những ẩn dụ ý niệm miền bộ phận cơ thể người trong thơ
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh, đặc biệt là loại ẩn dụ vật chứa được hai tác giả sử
dụng nhiều hơn cả.
Tiểu kết chương 1
Ngôn ngữ học tri nhận một khuynh hướng ngữ nghĩa, coi trọng sự tri
nhận về thế giới xung quanh. Đối với khuynh hướng nghiên cứu này, ý niệm
chính là thuật ngữ đầu tiên và quan trọng nhất.
Căn cứ vào những công trình nghiên cứu trước đây, có thể khẳng định
ẩn dụ ý niệm hay ẩn dụ tri nhận là một trong những hình thức ý niệm hóa. Ẩn
dụ ý niệm không chỉ là sự tương đồng giản đơn giữa sự vật, hiện tượng này
với sự vật hiện tượng khác mà nó là cách nhìn sự vật này qua một đối tượng
khác, qua đó hình thành những ý niệm mới, cơ chế tri nhận này mang tính dân
tộc và thời đại.
Nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người là nhóm từ cơ bản, thuần chất nhất
trong
16


hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ. Đây là nhóm từ có có số lượng lớn, xuất
hiện với tần xuất lớn trong ngôn ngữ sinh hoạt cũng như ngôn ngữ văn chương.

Ẩn dụ ý niệm gồm ba loại đó là ẩn dụ vật chứa, ẩn dụ định hướng, và ẩn
dụ cấu trúc. Ba loại ẩn dụ trên đã góp phần minh chứng cho quan niệm: “Ẩn
dụ không chỉ là cách nói bóng bẩy dựa trên sự tương đồng giữa các sự vật, hiện
tượng, mà bản chất của ẩn dụ tri nhận là ở sự ngữ nghĩa hóa và cảm nhận
những hiện tượng loại này trong thuật ngữ các hiện tượng loại khác”. Đây cũng
là những lí thuyết cơ sở giúp chúng tôi triển khai những chương sau của khóa
luận.

17


×