Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Khi cu chinh hinh rang mat co dinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.15 KB, 11 trang )

KHÍ CỤ CHỈNH HÌNH RĂNG MẶT CỐ ĐỊNH
MỤC TIÊU
1. Nêu được những vật liệu tạo lực chỉnh hình răng khí cụ cố định
2. Mô tả được các thành phần của khí cụ edgewise hiện nay
3. Trình bày được các tính chất của dây sử dụng trong chỉnh hình răng mặt
1. NHỮNG VẬT LIỆU TẠO LỰC CHỈNH HÌNH
1.1. Vật liệu đàn hồi
- dây cung môi

Hình 1: dây cung môi
- các loại lò xo ruột gà

Hình 2: lò xo
- thun kéo trong một hàm hoặc liên hàm
- thun kéo của khí cụ ngoài mặt
- dây thun dạng mắt xích hoặc dạng ống
1.2. Vật liệu không đàn hồi
- Các loại ốc nới rộng


Hình 3: ốc nới rộng
Khí cụ cố định là khí cụ được gắn dính vào các răng. Lực tác động lên răng
được tạo ra bởi các vật liệu đàn hồi
2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KHÍ CỤ CỐ ĐỊNH
Pierre Fauchard (1678-1761) đã sử dụng cung nới rộng cố định

Hình 4
Edward H. Angle (1855-1930) được xem là “ người cha của chỉnh hình
răng mặt hiện đại” vì có những đóng góp lớn cho ngành chỉnh hình răng mặt.
Ngoài việc đưa ra cách xếp hạng khớp cắn vẫn còn sử dụng cho đến ngày nay,
Angle còn sáng tạo và phát triển loại khí cụ chỉnh hình cố định. Hầu hết khí cụ cố


định đang dùng hiện nay dựa vào phác hoạc ủa Angle từ đầu thế kỷ 20. Angle đã
phát triển 4 hệ thống khí cụ chính: cung E, khí cụ chốt và pin, khí cụ dây ruy băng,
khí cụ Edgewise

Hình 5
2.1. Cung E
Khí cụ chỉ tạo lực mạnh, gián đoạn, làm nghiêng răng về vị trí mới nên
không thể sắp xếp các răng đúng đắn


Hình 6
2.2. Khí cụ dùng chốt và ống
- Khâu trên mỗi răng có hàn chốt theo chiều đứng, dây được uốn theo cung
răng và chốt sẽ được cài vào trong các ống của khâu
- Chuyển động của răng được thực hiện bằng cách điều chỉnh các chốt
trong mỗi lần tái khám
Trên lý thuyết, khí cụ này có thể di chuyển các răng chính xác nhưng khí cụ
lại rất khó sử dụng trên lâm sàng. Dây cung làm tựa tương đối cứng nên không có
tính đàn hồi.
2.3. Khí cụ dùng dây ruy băng
- Mắc cài được hàn trên khâu, có rãnh nằm theo chiều đứng
- Dây cung môi được làm bằng kim loại vàng, có thiết diện hình chữ nhật
(10x20) và được giữ trong mắc cài bằng chốt
- Dây cung môi có thể sắp xếp có hiệu quả các răng sai vị trí, nhưng dây
ruy băng không thể tạo lực torque di chuyển chân răng được

Hình 7
2.4. Khí cụ Edgewise
Để khắc phục những nhược điểm của dây ruy băng, Angle đã cải tiến:
- Chuyển hướng rãnh mắc cài từ chiều đứng sang chiều nằm ngang, rãnh

mở về phía má


- Dây cung môi có thiết diện hình chữ nhật, được gắn vào mắc cài với góc
độ 90o so với vị trí gắn dây ruy băng lúc trươc, do đó mới có tên gọi là khí cụ
“edgewise”
- Dây cung môi hình chữ nhật nằm trong rãnh mắc cài cũng có hình chữ
nhật cho phép kiểm soát hoàn toàn vị trí của thân và chân răng trong không gian
Sau khi ra đời vào nằm 1928, khí cụ edgewise trở thành khí cụ cố định điều
trị chủ yếu, mặc dù khí cụ dùng dây ruy băng vẫn được sử dụng thêm 10 năm nữa

Hình 8
2.5. Khí cụ BEGG
Raymond Begg học cách sử dụng khí cụ dùng dây ruy băng tại trường học của
Angle, sau đó Begg trở về Úc trong những năm 1920, ông đã cải tiến khí cụ dùng
dây ruy băng để khí cụ này có thể kiểm soát tốt vị trí của chân răng
- Thay dây ruy băng bằng dây thép không rỉ có thiết diện tròn
- Đổi ngược vị trí của mắc cài sao cho rãnh đứng của mắc cài mở về phía
nướu thay vì về phía mặt nhai
- Sử dụng những lò xo phụ để kiểm soát vị trí của chân răng
Hiện nay, tuy khí cụ Begg vẫn còn được sử dụng nhưng không phổ biến.
Đây là khí cụ kiểm soát tốt vị trí của thân và chân răng trong không gian. Tuy
nhiên, trong giai đoạn cuối của điều trị, lại khó sắp xếp chính xác vị trí của các
răng

Hình 9


2.6. Khí cụ chỉnh hình gắn ở mặt trong răng
Khí cụ được phát triển trong thập niên 1970, ngay sau khi có vật liệu dán,

nhằm khắc phục hạn chế về mặt thẩm mỹ của khí cụ gắn ở mặt ngoài răng
Tuy nhiên, khí cụ này có nhiều nhược điểm: chỉ thích hợp với những lệch
lạc khớp cắn đơn giản, khí cụ khó điều chỉnh, thời gian điều trị kéo dài, và chi phí
điều trị rất cao

Hình 10
3. KHÍ CỤ EDGEWISE HIỆN NAY
3.1. Thành phần
- mắc cài, và ống ở răng cối: thành phần liên kết rắn chắc
- dây cung môi, và những vật liệu đàn hồi khác: nguồn tạo lực
- những thành phần hỗ trợ (có thể cần thiết cho quá trình điều trị)
3.2. Mắc cài
3.2.1. Kích thước rãnh mắc cài
Hiện nay, có 2 loại kích thước rãnh mắc cài được dùng trong khí cụ
edgewise: 0.018 x 0.022 và 0.022 x 0.028. Chiều sâu của rãnh mắc cài thường là
0.03, sâu hơn rãnh mắc cài thời Angle. Rãnh mắc cài sâu cho phép lắp được dây
lớn hoặc hai dây nhỏ cùng một lúc nếu cần

Hình 11


3.2.2. Mắc cài của khí cụ dây thằng:
Trước đây, Angle dùng cùng một loại mắc cài cho tất cả các răng. Đến thập
niên 1980, Andrew cải tiến mắc cài Edgewise sao cho có thể dùng cho từng răng
khác nhau, nhằm loại bỏ giai đoạn bẻ dây phải lặp đi lặp lại trong quá trình điều trị
vì sự khác nhau về đặc điểm giải phẩu giữa các răng. Khí cụ “dây thẳng” ra đời.
Đây là bước quan trọng để nâng cao hiệu quả điều trị của khí cụ edgewise
*Những đặc điểm của khí cụ dây thẳng
- Thay đổi chiều dày của mắc cài để bù vào độ dày khác nhau giữa các
răng: trong khí cụ edgewise nguyên thủy, những đoạn bẻ dây theo chiều

ngoài-trong hay là lệnh thức nhất là cần thiết để bù vào những thay đổi
của độ cong của mặt ngoài của từng răng. Trong khí cụ dây thẳng, sự
bù trừ này được thể hiện bằng chiều dày của nền mắc cài với độ dày,
mỏng khác nhau giữa các răng. Tuy là giảm nhu cầu bẻ dây nhưng
không phải là loại bỏ hẳn do tính đa dạng giữa các răng
-

Hình 12
-

Độ nghiêng gần-xa của rãnh mắc cài: góc độ của rãnh mắc cài liêng
quan đến chiều hướng của trục răng. Trong khí cụ dây thẳng, góc độ
mắc cài/ rãnh mắc cài giúp chân răng ở vị trí đúng. Trước đây, vị trí của
chân răng theo chiều gần-xa đòi hỏi phải bẻ dây tạo góc hay là bẻ lệnh
thứ hai. Góc độ của mắc cài hay rãnh mắc cài “dây thẳng” làm giảm
hoặc loại bỏ nhu cầu bẻ dây này


-

-

Hình 13

Độ nghiêng ngoài-trong của rãnh mắc cài: độ nghiêng ngoài trong của
mặt ngoài từng răng thay đổi tùy theo vị trí. Do vậy, trong khí cụ
edgewise ban đầu phải xoắn dây hay bẻ lệnh thức bao (torque theo từng
đoạn của dây (thiết diện hình chữ nhật hoặc vuông) để dây được lắp thụ
động vào rãnh mắc cài. Bẻ torque phải được thực hiện trên từng dây
cung môi cho mỗi bệnh nhân, không chỉ vì nhu cầu di chuyển chân

răng về phía ngoài hoặc phía trong mà còn để tránh những chuyển động
sơ ý của các răng đang ở đúng vị trí. Rãnh mắc cài trong khí cụ
edgewise hiện nay được làm nghiêng để bù vào độ nghiêng của mặt
ngoài răng, do đó làm giảm nhu cầu bẻ torque trong điều trị


3.2.3.Các loại mắc cài khác

Hình 14
3.2.3.1. Mắc cài tự cài dây cung môi
3.2.3.2. Mắc cài có màu trong hoặc giống màu răng
Cũng nhằm mục đích thẩm mỹ, mắc cài nhựa trong và dây cung môi được
bọc nhựa ra đời trong thập niên 1970, nhưng ngay sau đó đã bộc lộ nhiều nhược
điểm. Mắc cài nhựa dễ đổi màu và dễ vỡ, lớp nhựa bọc dây cung môi cũng dễ
phai. Hơn nữa, dây cung môi không thể trượt tự do trong mắc cài nhựa.
Mắc cài sứ ra đời vào cuối thập niên 1980, có ưu thế hơn hẳn mắc cài nhựa
về tính thẩm mỹ. Tuy nhiên, mắc cài sứ cồng kềnh, do đó chỉ có thể dùng hạn chế
ở các răng cửa hàm trên

Hình 15


3.3. Các thành phần đặt ở khâu răng cối
Móc phụ phía má
Ống edgewise chính: để dây cung môi chính đi qua
Ống edgewise phụ: sử dụng khi có dây cung môi phụ hoặc lò xo kéo răng
nanh
Ống mang headgear
Các thành phần gắn ở mặt trong khâu răng cối
3.4. Dây cung môi

Dây cung môi sử dụng trong chỉnh hình răng mặt có các thiết diện: tròn,
vuông và hình chữ nhật

Hình 16
3.4.1. Tính chất của dây chỉnh hình răng măt
Độ đàn hồi = 1/ độ rắn chắc
Độ rắn chắc ~ 1/(chiều dài)3
Độ rắn chắc ~ (đường kính)4
3.4.2. Dây cung môi uốn sẵn theo hình dạng cung răng
Nguyên tắc cơ bản về hình dạng cung răng trong điều trị chỉnh hình là phải
bảo tồn hình dạng cung răng ban đầu của bệnh nhân. Đa số các bác sĩ chỉnh hình
đều công nhận rằng điều này sẽ giữ răng ở vị trí ổn định nhất, và những nghiên
cứu theo dõi kết quả điều trị lâu dài nhận thấy rằng những thay đổi sau điều trị xảy
ra nhiều hơn khi hình dạng cung răng bị thay đổi so với khi được bảo tồn. Tuy
nhiên, tính đa dạng về hình dạng cung răng không được thể hiện trong những dây
cung môi uốn sẵn trên thị trường. Trong điều trị chỉnh hình, nếu sử dụng dây cung
môi uốn sẵn, hình dạng của dây cung môi phải được xem như là dạng khởi đầu để
điều chỉnh theo cung răng bệnh nhân.


Hình 17
3.5. Những thành phần hỗ trợ trong điều trị

Hình 18


Hình 19

Hình 20: face mask
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

 Bộ môn CHRM, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh: Chỉnh hình răng mặt, sách
giáo khoa. Nhà xuất bản Y học, 2004.
 Muller Louis: Cephalometrie et orthodontie. SNPMD editeur Paris. 1983
 Jacobson Alexander : Radiographic cephalometry. From basics to videomaging.
Quintessence Publishing Co. Inc. IL 1995.
 Contemporary orthodontics, third edition. St Louis, Mosby, Inc 2000.



×