TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
NGUYỄN THỊ THANH LAN
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
PHÁP LUẬT
(Báo Đời sống& Pháp luật và báo Pháp luật 4 phương)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
HÀ NỘI - 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
NGUYỄN THỊ THANH LAN
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
PHÁP LUẬT
(Báo Đời sống& Pháp luật và báo Pháp luật 4 phương)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ HIỀN
HÀ NỘI - 2019
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận này được hoàn thành, ngoài sự cố gắng của bản thân, em xin gửi
lời cảm ơn chân thành nhất đến Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
và tất cả các thầy cô khoa Ngữ văn đã tạo những điều kiện tốt nhất để em có thể học
tập, rèn luyện bản thân. Đồng thời, các thầy cô đã truyền đạt cho em những kiến
thức quan trọng, cần thiết trong quãng thời gian học tập tại trường.
Tiếp đến, em xin đặc biệt gửi tới Tiến sĩ Nguyễn Thị Hiền lòng biết ơn sâu
sắc nhất. Em cảm ơn cô vì sự tận tụy, tận tình chỉ bảo, định hướng kiến thức cho em
trong suốt quá trình nghiên cứu.
Cuối cùng, em xin được gửi lời cảm ơn tới báo Pháp luật 4 phương và báo
Đời sống&Pháp luật đã có những tài liệu cụ thể giúp em rất nhiều trong khóa trình
làm khóa luận này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2019
Người thực hiện
Nguyễn Thị Thanh Lan
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là công trình nghiên cứu của riêng tôi cùng
với sự hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Thị Hiền và các thầy cô trong tổ Ngôn ngữ
khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Công trình này chưa được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào
khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2019
Người thực hiện
Nguyễn Thị Thanh Lan
DANH MỤC VIẾT TẮT
1
1. Báo ĐS&PL
Báo Đời sống& Pháp luật
2
2. Báo PL4P
Báo Pháp luật 4 phương
3
3. Tỉ lệ %
Tỷ lệ phần trăm
4
4. STT
Số thứ tự
5
5. NXB
Nhà xuất bản
6
6. ĐHSPHN2
Đại học Sư Phạm Hà Nội 2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1.Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu ......................................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 3
5. Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu ........................................................... 3
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn ............................................................................ 4
7. Bố cục của khóa luận ...................................................................................... 4
NỘI DUNG ......................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .................... 5
1.1.Khái quát ngôn ngữ báo chí ......................................................................... 5
1.1.1.Phong cách ngôn ngữ báo chí .................................................................... 5
1.1.2. Chức năng của ngôn ngữ báo chí ............................................................. 5
1.1.3. Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí ................................................................ 7
1.1.4. Một số thể loại báo chí tiêu biểu ................................................................ 9
1.2. Báo chí Pháp luật ......................................................................................... 10
1.2.1. Các phương tiện truyền thông của báo chí Pháp luật hiện nay ................ 10
1.2.2. Định hướng truyền thông của báo chí Pháp luật ...................................... 11
1.2.3. Chức năng của báo chí Pháp luật ............................................................. 11
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................... 14
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM NGỮ ÂM, TỪ VỰNG CỦA NGÔN NGỮ BÁO
CHÍ PHÁP LUẬT .............................................................................................. 15
2.1. Đặc điểm ngữ âm ......................................................................................... 15
2.1.1. Về chính tả ................................................................................................. 15
2.1.2. Về viết tắt ................................................................................................... 16
2.1.3. Về cách Viết hoa ........................................................................................ 19
2.1.4. Nhận xét và kiến nghị về đặc điểm ngữ âm ............................................... 20
2.2. Đặc điểm từ vựng ......................................................................................... 21
2.2.1. Đặc điểm từ vựng xét về mặt phạm vi sử dụng .......................................... 21
2.2.2. Đặc điểm từ vựng xét về mặt nguồn gốc .................................................... 25
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................... 33
Chương 3: LẬP LUẬN TRONG NGÔN NGỮ BÁO CHÍ PHÁP LUẬT ........ 34
3.1. Khái quát về lập luận................................................................................... 34
3.1.1. Các quan niệm về lập luận ........................................................................ 34
3.1.2. Mô hình cấu tạo của một lập luận ............................................................ 34
3.2. Các yếu tố của lập luận ................................................................................ 35
3.2.1. Luận cứ ...................................................................................................... 35
3.2.2. Kết luận...................................................................................................... 37
3.2.3. Chỉ dẫn lập luận ........................................................................................ 37
3.3. Các phương pháp lập luận .......................................................................... 38
3.4. Các kiểu lập luận trong báo chí Pháp luật ................................................. 40
3.4.1. Lập luận đơn giản...................................................................................... 40
3.4.2. Lập luận phức tạp (tam đoạn luận) ........................................................... 45
3.4.3. Lập luận phức hợp..................................................................................... 46
3.4.4. Mạng lập luận............................................................................................ 48
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................... 52
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, công cụ tư duy và giao tiếp. Nó
chính là phương tiện giúp con người có thể giao tiếp với nhau, trao đổi tâm tư,
nguyện vọng cho nhau. Trong pháp luật, ngôn ngữ có thể nói là phương tiện đặc
biệt quan trọng thể hiện ý chí, quan điểm của cấp có thẩm quyền, Nhà nước dùng
ngôn ngữ để tạo nên các văn bản pháp luật. Ngôn ngữ cũng là một công cụ để giao
tiếp giữa đối tượng với chủ thể quản lý.
Đối cới xã hội, pháp luật là phương tiện đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển
bình thường của xã hội. Pháp luật không chỉ là một phương tiện để quản lý nhà
nước, mà còn tạo ra môi trường cho ý thức đạo đức được phát triển. Chính vì vậy,
việc truyền bá và thông tin về pháp luật là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của báo chí
Pháp luật.
Ngôn ngữ báo chí gồm có ngôn ngữ phát thanh và truyền hình, ngôn ngữ
quảng cáo... Sứ mệnh của báo chí là truyền đạt tin tức tới độc giả. Vì vậy, ngôn ngữ
báo chí phải chuẩn mực, chính xác, dễ lĩnh hội cho người đọc, người nghe. Ngôn
ngữ báo chí Pháp luật cũng vậy. Song, trong lịch sử nghiên cứu, cho đến nay vẫn
chưa có ai tìm hiểu, nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí Pháp luật Việt Nam trên các
bình diện: ngữ âm, từ vựng và ngữ dụng (lập luận). Chính vì vậy, việc nghiên cứu
“đặc điểm ngôn ngữ báo chí Pháp luật” là điều thiết yếu nhằm phát hiện ra những
đặc trưng riêng biệt của ngôn ngữ báo chí Pháp luật so với các ngôn ngữ báo chí
khác. Xuất phát từ các lí do trên đây, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Đặc điểm
ngôn ngữ báo chí Pháp luật (báo Đời sống& Pháp luật và báo Pháp luật 4 phương)”
làm đối tượng nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ báo chí
Báo chí gắn liền với sự mới mẻ của thông tin, gần gũi trong cuộc sống; hay
những thông tin, sự kiện nổi bật được bạn đọc quan tâm; thông tin tác động đến
nhận thức, tâm lý của người đọc, người xem, người nghe. Khi nhận được sự giúp đỡ
của những tiến bộ khoa học công nghệ, các nhà báo phải rất nhanh nhạy, cập nhật
tin tức chính xác, kịp thời, khách quan, hấp dẫn. Cùng với đó, người làm báo phải
hiểu từ ngữ, vững chính tả, ngữ pháp và cách dùng dấu câu.
1
Khi nghiên cứu về báo chí, các nhà nhiên cứu quan tâm đến các vấn đề như
tác dụng của báo chí, bản chất tin tức hay vai trò của phóng viên…
Dương Quảng Hàm trong “Việt Nam văn học sử yếu” (1941) đã nêu lên tác
dụng của báo chí là “thông tin tin tức ở trong xứ và ban bố các mệnh lệnh của chính
phủ, giúp cho việc thành lập quốc văn, sáp nhập vào tiếng ta nhiều danh từ mới về
triết học và khoa học, giúp cho sự thống nhất của tiếng nói ba kỳ” [10, 428]
Hay như Vũ Quang Hào trong cuốn “Ngôn ngữ báo chí” ông đã nêu lên đặc
điểm chung về ngôn ngữ của báo chí và đặc điểm của phong cách ngôn ngữ chính
luận, phong cách ngôn ngữ khoa học, phong cách ngôn ngữ hành chính. [11]
Gaillard trong Nghề làm báo [1, 41-50] đã trình bày vai trò của phóng viên
và tòa soạn với việc đưa tin, người làm báo phải biết lựa chọn sự kiện theo các tiêu
chuẩn:
- Thời sự nóng hổi: Công chúng luôn chờ đợi lời giải đáp cho câu hỏi: “có gì
mới không?”.
- Ý nghĩa: Áp dụng cho sự kiện và phạm vi tác động của sự kiện.
- Sự quan tâm: Ý nghĩa và tính thời sự của tin được công chúng quan tâm ở
mức độ nào?
Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề bản chất của tin tức trong
cuốn Nhà báo hiện đại. Theo đó, thông tin phải có những tính chất sau: tính đa
dạng, tính tương tác, tính liên quan, có chiều sâu…
Ngoài ra, có thể kể thêm một số sách, luận văn, luận án nghiên cứu về ngôn
ngữ báo chí như: Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí [3]; Các thể ký báo
chí [8]; Viết báo như thế nào? [9]; Luận bàn về thể loại báo chí [13]; Ngôn ngữ báo
chí Sài Gòn- thành phố Hồ Chí Minh [14]; Ngôn ngữ báo chí [16] ...
2.2. Lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ báo chí pháp luật
Theo chúng tôi tìm hiểu, nghiên cứu về ngôn ngữ pháp luật chưa nhiều, mới
chỉ có một số nghiên cứu như: “Hoàn thiện pháp luật về gia đình ở Việt Vam hiện
nay” [5]; “Khảo sát đặc điểm ngôn ngữ văn bản quy phạm pháp luật” [15]; “Vấn
đề an ninh con người trong pháp luật quốc tế hiện đại” [12]; “Thực trạng pháp luật
Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” [4] ... Nội dung của các nghiên cứu
này là tìm hiểu về pháp luật quốc tế, các chính sách và pháp luật ở Việt Nam; quá
trình phát triển pháp luật về gia đình ở Việt Nam; hay nghiên cứu về đặc điểm cấu
trúc nội dung của văn bản quy phạm pháp luật, đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ văn
bản quy phạm pháp luật…
2
Như vậy, đặc điểm ngôn ngữ báo chí Pháp luật hầu như chưa ai đề cập đến,
nhất là về các phương diện ngữ âm, từ vựng, ngữ dụng, nên chúng tôi đã chọn đề tài
này làm đối tượng nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là toàn bộ đặc điểm về ngữ âm, từ vựng,
lập luận trong báo chí Pháp luật Việt Nam. Cụ thể là đặc điểm ngữ âm, từ vựng và
đặc điểm lập luận trong hai báo Pháp luật 4 phương và báo Đời sống&Pháp luật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi chúng tôi nghiên cứu là các bài báo được đăng trên hai tờ báo: Đời
sống & Pháp luật (với các số báo 26, 27, 79, 85, 91) và Pháp luật 4 phương (với
các số báo 160, 161, 162, 163, 164) được phát hành trong năm 2018.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi nhằm phát hiện những đặc điểm về ngữ
âm, từ vựng, lập luận trong báo pháp luật. Đồng thời chỉ ra những cách dùng ngôn
ngữ chưa chuẩn xác, chưa phù hợp hay chưa nhất quán, từ đó đề xuất, đưa ra những
giải pháp khắc phục hữu hiệu để cải thiện những hạn chế đó.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhận diện, thống kê, phân loại, phân tích cách sử dụng ngôn ngữ trong việc
truyền tải thông tin tới công chúng qua các báo: Đời sống& Pháp luật với các số
báo 26, 27, 79, 85, 91 được xuất bản trong năm 2018; Pháp luật 4 phương với các
số báo 160, 161, 162, 163, 164 phát hành trong năm 2018.
Phân tích, đánh giá đặc điểm của ngôn ngữ báo chí Pháp luật trên ba bình
diện: ngữ âm, từ vựng, lập luận để đưa ra những đề xuất, giải pháp khắc phục cho
những vẫn đề còn tồn tại.
5. Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
5.1.1. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được sử dụng nhằm miêu tả đặc điểm của ngôn ngữ báo
chí Pháp luật, qua đó có thể nhận biết được những đặc điểm đặc thù của ngôn ngữ
báo chí Pháp luật.
3
5.1.2. Phương pháp hệ thống hóa
Phương pháp này được sử dụng để hệ thống hóa các cách sử dụng ngôn ngữ
khác nhau của các bài báo với nhau, từ đó có cái nhìn rõ nét, cụ thể hơn, có sự so
sánh chuẩn xác giữa các tờ báo với nhau trong việc sử dụng ngôn ngữ.
5.2. Thủ pháp nghiên cứu
5.2.1. Thủ pháp so sánh
Nhằm so sánh cách sử dụng ngôn ngữ giữa hai tờ báo Đời sống& Pháp luật
và Pháp luật 4 phương và các loại báo chí khác.
5.2.2. Thủ pháp thống kê, phân loại
Sử dụng thủ pháp này giúp chúng tôi thống kê, phân loại được số lượng, tỷ
lệ, tần số xuất hiện của các hiện tượng ngôn ngữ mang đặc trưng của ngôn ngữ báo
chí Pháp luật.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lí luận
- Củng cố các lí thuyết của ngôn ngữ học thông qua các ngữ liệu thực tiễn.
- Giúp báo chí pháp luật có được thêm những cơ sở lí luận về ngôn ngữ học
và báo chí học trong việc truyền tải thông tin đến đọc giả được trọn vẹn và hiệu quả
hơn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Giúp cho việc giảng dạy ngôn ngữ có thêm nguồn ngữ liệu mới.
- Đề xuất cách sử dụng ngôn ngữ, cách trình bày nội dung thông được rõ
ràng, logic, mạch lạc hơn. Từ đó, độc giả sẽ nắm bắt, lĩnh hội thông tin nhanh,
chuẩn xác và hiệu quả nhất.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa
luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài
Chương 2: Đặc điểm ngữ âm, từ vựng của ngôn ngữ báo chí Pháp luật
Chương 3: Lập luận trong ngôn ngữ báo chí Pháp luật
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.Khái quát ngôn ngữ báo chí
1.1.1.Phong cách ngôn ngữ báo chí
Phong cách ngôn ngữ báo chí là khuôn mẫu thích hợp để xây dựng lớp văn
bản trong đó thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực báo chí. Nói
cụ thể hơn đó là vai của những nhà báo, người đưa tin, người cổ động, người quảng
cáo… tất cả những ai tham gia vào hoạt động thông tin của xã hội về tất cả các vấn
đề thời sự [14]. Có thể kể đến một số thể loại văn bản báo chí như: bản tin, phóng
sự, tiểu phẩm. Với bản tin thì thời gian, địa điểm, sự kiện chính xác nhằm cung cấp
tin tức cho người đọc. Phóng sự: cung cấp tin tức nhưng mở rộng phần tường thuật
chi tiết sự kiện, miêu tả bằng hình ảnh, giúp người đọc có một cái nhìn đầy đủ, sinh
động, hấp dẫn. Tiểu phẩm, với giọng văn thân mật, dân dã, thường mang sắc thái
mỉa mai, châm biếm nhưng ẩn chứa một chính kiến về thời cuộc. Bên cạnh đó còn
một số thể loại khác như: Phỏng vấn, bình luận, thời sự, trao đổi ý kiến, thư bạn
đọc... [21]
Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ dùng để thông báo tin tức thời sự trong nước
và quốc tế. Đồng thời, phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng, nhằm
thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Ngôn ngữ báo chí tồn tại ở hai dạng chính là dạng viết
(báo viết) và dạng nói (báo nói), ngoài ra còn có báo hình, báo điện tử. [21]
1.1.2. Chức năng của ngôn ngữ báo chí
1.1.2.1. Chức năng thông báo
Chức năng thông báo là chức năng quan trọng hàng đầu của báo chí. Báo chí
ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin giao tiếp của quần chúng và sự phát triển
của báo chí cũng dựa trên sự gia tăng nhu cầu thông tin-giao tiếp trong xã hội. Một
xã hội từ thời nguyên thủy cũng đã có nhu cầu thông tin, kết nối xã hội, hợp tác lao
động, chống lại các mối nguy hiểm… sự ra đời của báo chí chính là một cột mốc
quan trọng đánh dấu nhu cầu thông tin-giao tiếp đã đạt tới mức độ nóng bỏng, cấp
thiết hơn nhiều và khả năng đáp ứng của các phương tiện truyền tin đã đạt tới trình
độ cao hẳn so với trước đó.
1.1.2.2. Chức năng định hướng dư luận
5
Ngôn ngữ báo chí có vai trò đó là nắm bắt, gây dựng và định hướng dư luận
xã hội. Dư luận xã hội là bộ phận dễ bị tác động nhất, và khi bị tác động dễ tạo nên
những chuyển biến và hành động xã hội tức thì. Do vậy, tác động đúng mức, đúng
cách, hợp lí vào dư luận xã hội có thể tạo nên các phong trào xã hội, giải quyết được
các nhiệm vụ cấp bách và nhiệm vụ lâu dài.
Báo chí có khả năng truyền tải thái độ, tình cảm, nhận thức của quần chúng
nhân dân đến bộ máy công quyền nhằm phát ra những thông điệp cần thiết, từ đó để
điều chỉnh và xử lí các vấn đề mà quần chúng quan tâm.
1.1.2.3. Chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng
Báo chí là cơ quan ngôn luận của quần chúng nhân dân trong cả nước. Nó
đóng một vai trò rất lớn trong việc tập hợp và tổ chức quần chúng. Trong những cột
mốc lịch sử của dân tộc, báo chí đã góp phần to lớn vào việc khích lệ tinh thần nhân
dân, là một món quà tinh thần rất lớn với nhân dân, hướng nhân dân tới những tổ
chức, khuynh hướng tiến bộ.
1.1.2.4. Chức năng thẩm mỹ
Không chỉ trở thành một nguồn cổ vũ tinh thần dân tộc mà báo chí với ngôn
ngữ sử dụng mang đậm tính thẩm mỹ, với những câu từ được trau chuốt, được lựa
chọn, cân nhắc một cách tỉ mỉ cùng với sự sáng tạo vô tận của người viết. Thông
qua những bài báo, độc giả khắp cả nước có thể biết đến nhiều tác giả nổi tiếng, các
tác giả có văn phong đặc biệt. Vì lẽ đó, báo chí với ngữ đặc trưng của mình đã trở
thành một phần trong cuộc sống tinh thần của nhân dân.
1.1.2.5. Chức năng giáo dục
Cùng với sự tái hiện, phản ánh những vấn đề nóng hổi, tức thì của xã hội, thì
báo chí dùng ngôn ngữ của mình đan xen những bài học nhân sinh vô cùng sâu sắc,
nhẹ nhàng mà thâm thúy. Từ đó góp phần giáo dục con người, giúp cho con người
được hoàn thiện hơn, làm tiền đề cho xã hội phát triển.
6
1.1.3. Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí
1.1.3.1. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ sự kiện
Ngôn ngữ sự kiện là linh hồn của ngôn ngữ báo chí bởi nó là nền tảng cho sự
tồn tại của ngôn ngữ báo chí và là trung tâm của ngôn ngữ báo chí.
Ngôn ngữ sự kiện là ngôn ngữ bám sát sự kiện có thật và nguyên dạng để
phản ánh. Các nhà báo chỉ được quyền nói cái thật mà độc giả, khán giả, thính giả
đều cảm nhận được ngay trong cuộc sống xung quanh họ. Nhà báo không được bịa
ra sự thật hay tưởng tượng ra sự thật. Đồng thời cái có thật mà mình phản ánh phải
để nguyên dạng chứ không được thêm bớt hay tô vẽ. Sự thêm bớt hay tô vẽ vào cái
thật của cuộc đời chỉ khiến tác phẩm của mình thiếu sức thuyết phục.
Ngôn ngữ sự kiện là ngôn ngữ bám sát sự kiện hiện hữu để phản ánh. Sự
kiện hiện hữu là sự kiện đang diễn ra trong cuộc sống hiện tại, đang là vấn đề thời
sự, là vấn đề được xã hội quan tâm.
Ngôn ngữ sự kiện là ngôn ngữ bám sát sự vận động của sự kiện để phản ánh.
Đây là nội dung rất quan trọng của đặc điểm ngôn ngữ sự kiện. Nhà báo bao giờ
cũng có ham muốn viết lên sự thật, hơn thế, toàn bộ sự thật. Đó là ham muốn chính
đáng nhưng lại là điều bất khả kháng không chỉ đối với người làm báo mà đối với
cả nhân loại.
1.1.3.2. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ có tính ngắn gọn và biểu cảm
Xuất phát từ tính chất vốn có là tức thời và nhanh chóng, ngôn ngữ báo chí
luôn mang tính chất ngắn gọn, súc tích. Những chữ không cần thiết sẽ được loại bỏ
tối đa. Nếu như bài báo có dung lượng quá lớn thì sẽ thực hiện giải pháp, đó là đăng
nhiều lần trong các số báo khác nhau.
Ngoài ra, ngôn ngữ báo chí còn có tính biểu cảm. Tính biểu cảm ấy được thể
hiện qua việc dùng các từ ngữ giàu hình ảnh, cách nói ví von đặc sắc cũng như lối
hành văn mới lạ đã khiến cho độc giả luôn cảm thấy bị thu hút. Để có được tính biểu
cảm đó, ngôn ngữ báo chí đã sử dụng những từ những tục ngữ, ca dao đến lối nói lái,
chơi chữ, pháp ẩn dụ... Có thể nói rằng, tính chất biểu cảm vô cùng quan trọng với
báo chí, nếu không có nó thì việc truyền tải thông tin đến bạn đọc sẽ rất khó, đồng
thời ngôn ngữ báo chí sẽ trở nên khô khan, không hấp dẫn được người đọc.
1.1.3.3. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ có tính chiến đấu mạnh mẽ
7
Tính chiến đấu mạnh mẽ của ngôn ngữ báo chí được thể hiện rõ nhất đó
chính là, báo chí là nơi mà mọi tầng lớp nhân dân có quyền đấu tranh, chống lại cái
ác, bảo vệ cái tốt. Nó được coi là một diễn đàn công khai của quần chúng nhân dân
trên toàn quốc. Ở đó, họ đấu tranh chỉ nhằm hướng tới mục tiêu cáo cả, đó là làm
cho xã hội được văn minh hơn, đất nước được phát triển hơn.
1.1.3.4. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ mang tính hấp dẫn và thuyết phục
Phong cách báo chí luôn quan tâm đến việc làm sao có thể thu hút được độc
giả tìm hiểu vấn đề. Chính vì vậy, trong mỗi tờ báo ngay từ tiêu đề đến cách kết cấu
và cách sử dụng từ ngữ, câu văn đến những hình ảnh minh họa đều được chú trọng,
chọn lựa kĩ lưỡng nhằm mang lại sự hấp dẫn, khơi gợi trí tò mò và mong muốn tìm
hiểu sự việc của độc giả.
Bên cạnh đó, với những ngôn từ được trau chuốt, những lập luận sắc bén, lí
lẽ, dẫn chứng thực tế ở trong mọi lĩnh vực, mọi vấn đề của mỗi bài báo thì báo chí
đã thuyết phục người đọc tuyệt đối.
1.1.3.5. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ có tính cụ thể và tính chính xác
Tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí được thể hiện ở hai phương diện chính,
đầu tiên đó là về nội dung hiện thực được các nhà báo miêu tả, tái hiện phải cụ thể,
chi tiết tới từng tình tiết nhỏ, từ đó độc giả mới cảm nhận được mình là người trực
tiếp đang chứng kiến các sự kiện xảy ra. Thứ hai, tính chất này còn nằm ở việc giúp
cho đối tượng được phản ánh có sự xác định, để đạt được điều này, ngôn ngữ báo
chí cần hạn chế tối đa việc dùng các từ ngữ, câu văn hay cấu trúc không mang tính
xác định hay có ý nghĩa mơ hồ như “một người nào đó”, “vào khoảng”, “hình như”
… sẽ khiến người đọc rơi vào trạng thái mơ hồ, không xác định được vấn đề.
Đối với ngôn ngữ báo chí, tính chính xác có ý nghĩa rất quan trọng. Do xuất
phát từ chức năng định hướng dư luận xã hội nên chỉ cần một lỗi sai nhỏ về ngôn từ,
báo chí sẽ làm người đọc, người nghe khó hiểu hoặc hiểu sai về thông tin. Và muốn
sử dụng ngôn ngữ một cách chuẩn chỉ, các nhà báo phải am hiểu và hiểu rõ về tiếng
mẹ đẻ, có một vốn từ rộng, ngữ pháp chuẩn, nắm chắc về mặt ngữ âm. Đồng thời,
các nhà báo phải phán ánh sự việ một cách chân thật và khách quan nhất, tránh
trường hợp thêm bớt làm sai sự thật sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cơ quan phụ trách tờ
báo đó.
1.1.3.6. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ mang tính đại chúng
8
Như chúng ta đã biết, báo chí luôn gắn trong mình một sứ mệnh, đó là
phương tiện thông tin đại chúng. Mọi tầng lớp nhân dân từ già đến trẻ, từ người có
học thức đến người không có học thức, từ người có địa vị cao đến người có địa vị
thấp,... thì đều là đối tượng mà báo chí phục vụ. Báo chí là nơi mỗi người có thể
tiếp nhận, thu lượm thêm những thông tin, song bên cạnh đó, chính họ cũng có thể
bày tỏ suy nghĩ, đưa ra những chính kiến riêng về mọi vấn đề. Do vậy, ngôn ngữ
báo chí phải có tính phổ cập rộng rãi.
Còn đối với ngôn ngữ không mang tính đại chúng, tức ngôn ngữ đó chỉ dành
cho một bộ phận độc giả nhất định và như vậy, báo chí sẽ không hoàn thành được
nhiệm vụ thiết yếu là thông tin đến mọi tầng lớp nhân dân. Đây chính là nguyên do
khiến cho báo chí hạn chế tối đã sử dụng tiếng lóng, từ địa phương hay từ ngữ
chuyên biệt của những chuyên ngành hẹp.
1.1.4. Một số thể loại báo chí tiêu biểu
Cũng giống với các loại hình nghệ thuật khác, báo chí cũng gồm nhiều thể
loại khác nhau. Trong quá trình hình thành và phát triển các thể loại cũng được hình
thành và xác lập, phù hợp với nội dung, mục đích và tôn chỉ hoạt động. Trước đây,
một số người quan niệm, trong báo chí cách mạng Việt Nam chỉ có hai thể loại cơ
bản, đó là tin tức và bình luận. Trong từng thể loại, theo quan niệm của tác giả “đều
đưa ra cách hiểu của mình theo từng thể loại nhưng khái niệm chung về thể loại thì
chưa có”.
Tác giả Tạ Ngọc Tấn trong cuốn “Tác phẩm báo chí”, tập một, cho rằng:
“Thể loại tác phẩm là một khái niệm để tính quy luật loại hình của tác phẩm báo
chí. Thể loại là sự thống nhất có tính quy luật lặp lại của các yếu tố trong một loại
tác phẩm báo chí” [18].
Hay như khái niệm mới nhất về thể loại báo chí của tác giả Dương Xuân Sơn
trong cuốn “Các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật” viết: “Thể loại báo chí là
hình thức biểu hiện cơ bản thống nhất và ổn định của các bài báo, là cách lựa chọn
công cụ, phương tiện, phương pháp và hình thức trình bày tác phẩm báo chí để phù
hợp với nội dung, thích ứng với từng tình huống sự kiện, và có thể chứa đựng được
nội dung hình thức bài báo cần trình bày” [19].
Trong phần nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra các thể loại của báo chí bao
gồm:
9
- Các thể loại báo chí thông tấn bao gồm: tin, phỏng vấn, tường thuật, điểm
báo… Các thể loại này đều có các đặc trưng chung đó là: mang tính thời sự cao,
luôn cung cấp những thông tin kịp thời, phản ánh những sự kiện nóng hổi của xã
hội. Vì yêu cầu chỉ thông báo, phản ánh nên các thể loại trong nhóm này không
nhất thiết phải đi sâu vào phân tích vấn đề. Tóm lại, thông tin sự kiện mang yếu tố
bình luận là đặc điểm cơ bản của nhóm này.
- Các thể loại báo chí chính luận gồm: bình luận, xã luận, chuyên luận, bài
phê bình
Đặc điểm của các loại thể chính luận đó là: dựa vào những số liệu được
thống kê, những sự kiện, quá trình diễn ra, để từ đó tiến hành bình luận, phân tích,
đánh giá sự việc theo các mục đích cụ thể. Các tác giả của những thể loại này đều
phải rất linh hoạt, vừa kết hợp những hiểu biết xã hội vốn có vừa phải vận dụng tư
duy để giải quyết vấn đề. Trong từng bài viết phải có luận cứ, luận chứng, lí lẽ
thuyết phục, lập luận chặt chẽ. Khi đi vào phân tích các vấn đề thì phải có cái nhìn
bao quát, cả bên trong lẫn bên ngoài. Hơn thế nữa, đối với những vấn đề phức tạp
thì cần đưa ra những quan điểm, hướng giải quyết vấn đề. Mục tiêu của nhóm này là
để thuyết phục độc giả, giúp bạn đọc hiểu thấu sự việc thật bằng những luận cứ,
luận chứng và lý lẽ.
- Các thể loại báo chí chính luận-nghệ thuật gồm: phóng sự, kí chân dung,
bút kí báo chí, nhật kí, sổ tay phóng viên, phỏng vấn nghệ sĩ.
Những thể loại báo chí thuộc nhóm này mang đặc điểm: đó là kết hợp giữa
hai yếu tố là chính luận và nghệ thuật với nhau để phản ánh sự việc. Với sự cộng
hưởng của cảm xúc đã tạo điều kiện cho bạn đọc được đến gần hơn với nghệ thuật.
Đồng thời, người viết cũng thể hiện được tay nghề của mình thông qua cách viết
thuyết phục.
Như vậy, ba nhóm thể loại cơ bản trên đã tạo thành một hệ thống thể loại báo
chí tương đối hoàn chỉnh. Sự phân chia thành nhóm và các thể loại trên dựa vào đặc
điểm và tính trội của mỗi thể loại là chủ yếu và nó cũng chỉ mang tính tương đối.
1.2. Báo chí Pháp luật
1.2.1. Các phương tiện truyền thông của báo chí Pháp luật hiện nay
Ngày nay, với sự phát triển của lĩnh vực truyền thông cùng với việc thực hiện
nhiệm vụ truyền bá, trang bị kiến thức pháp luật tới mọi tầng lớp nhân dân mà báo
chí pháp luật đã có rất nhiều những tờ báo, trang tin điện tử được sử dụng như:
10
- Nhóm báo điện tử: Báo Đời sống& Pháp luật, Báo Pháp luật Việt Nam, Báo
Bảo vệ pháp luật, Báo Công lí, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật…
- Nhóm trang tin điện tử: Truyền hình &Pháp luật, Hội Luật gia Việt Nam,
Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh…
- Nhóm báo in: Báo Pháp luật 4 phương, Báo Thanh Tra, Tạp chí nghề luật,
Tạp chí Pháp lí…
1.2.2. Định hướng truyền thông của báo chí Pháp luật
Hiện nay, truyền thông đối với pháp luật là vô cùng quan trọng. Pháp luật sử
dụng truyền thông để đưa những tin tức, truyền đạt những kiến thức pháp luật đến
với mọi người dân. Các hoạt động truyền thông của pháp luật có thể do nhà nước,
các cơ quan chuyên ngành đặt ra hoặc do những tập thể, những tòa soạn sẽ làm
nhiệm vụ này. Tóm lại, truyền thông của pháp luật hướng tới sử dụng các phương
tiện thông tin đại chúng nhằm tuyên truyền những điều lệ, những quy định của pháp
luật hay cập nhật những thay đổi trong hệ thống pháp luật kịp thời đến nhân dân.
Xuất phát từ tâm quan trọng vốn có của truyền thông mà những thông tin, những
nội dung trình trên các trang báo đưa đến nhân dân đều được chọn lọc, xem xét kĩ
lưỡng, hạn chế tối đa những sai lệch trong quá trình thực hiện, tránh xảy ra tình
trạng độc giả sẽ hiểu sai lệch về nội dung của luật pháp nước ta.
Như vậy, để phát huy hơn nữa vai trò của truyền thông đối với pháp luật Việt
Nam thì nhà nước, các nhà chức trách, các cơ quan có thẩm quyền cần quan tâm, đề
ra những phương hướng mới để truyền bá pháp luật rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân
dân. Bên cạnh đó, không chỉ hướng đến cho dân hiểu pháp luật trong nước mà cần
tích cực cập nhật, đưa tin về pháp luật của các nước trên thế giới, giúp cho nhân dân
có cái nhìn sâu hơn, rộng hơn về pháp luật.
1.2.3. Chức năng của báo chí Pháp luật
Cùng có chung chức năng của báo chí đó là chức năng thông tin, tuyên
truyền, phản ánh dư luận xã hội thì báo chí pháp luật cũng có những chức năng
riêng, tạo nên nét đặc trưng riêng biệt của mình. Báo chí Pháp luật Việt Nam bao
gồm các chức năng điển hình như:
Chức năng thông tin: báo chí Pháp luật có vai trò đưa tin, tuyên truyền, phổ
biến pháp luật tới mọi công dân của xã hội. Từ những bài báo nói về việ lấy ý kiến
của nhân dân, về việc thay đổi Hiến pháp cho đến những thông báo về việ ban hành
văn bản pháp luật của nhà nước. Ví dụ: trong số báo 385 của Công báo đã đưa
11
Thông tư số 13/2019/TT-BGTVT quy định chi tiết Chương trình an ninh hàng hải
và kiểm soát chất lượng an ninh hàng không Việt Nam. Thông qua việc đưa thông
tư mới nhất của bộ giao thông và vận tải lên báo pháp luật thì nhân dân cả nước, đặc
biệt là những tổ chức, cá nhân làm việc trong hai lĩnh vực hàng không và hàng hải
có thể nắm vững được những luật lệ, quy định mới của nhà nước.
Chức năng giáo dục: báo chí Pháp luật với những số báo được đầu tư chất
xám một cách nghiêm túc, nội dung từng bài báo được chắt lọc, để đưa đến cho quý
độc giả những trang báo chất lượng nhất. Thông qua nội dung truyền tải như những
kẻ tội phạm vi phạm pháp luật, các cơ quan nhà nước coi thường luật pháp… đã có
tác dụng giáo dục đến mọi người, giúp mọi người có thể hiểu pháp luật, chấp hành
luật pháp, từ đó trở thành những công dân có ích cho xã hội. Ví dụ: trong bài báo
đăng trên báo Pháp luật Việt Nam “Hai công an lao ra biển cứu mạng hai nam
sinh”. Sau khi đọc bài báo này, độc giả phần lớn sẽ cảm thấy xức động, ngưỡng mộ,
biết ơn vì sự hi sinh, tấm lòng cao cả của hai chiến sĩ công an đã cứu sống hai nam
sinh ở bãi biển Nhật Lệ. Từ đó, mọi người cũng sẽ học hỏi được tinh thần ấy từ hai
chiến sĩ công an, biết giúp đỡ mọi người xung quanh.
Chức năng giám sát và kiểm soát quyền lực nhà nước: với các tiêu chí khách
quan, phản ánh thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời, báo chí Pháp luật được
coi là phương tiện cho nhân dân tham gia giám sát hoạt động của cơ quan Nhà
nước như việc ban hành các văn bản pháp luật hay những sai lệch của các nhà chức
trách… Bởi lẽ, quần chúng nhân dân mới chính là người chủ thực sự, vì thế họ cần
họ cần được thông báo về những gì đang xảy ra do những người mà họ tạm trao
quyền để làm công việc chung. Ví dụ: trong bài báo có tên “Thủ tướng sắp dự Diễn
đàn “Vành đai và Con đường” tại Trung Quốc”, nhằm thông báo, cung cấp thông
tin đến dân chúng về công việc của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trong thời gian
sắp tới, đó chính là dự diễn đàn lớn tại Trung Quốc.
Chức năng giải trí: báo chí Pháp luật không chỉ nhằm truyền tải những luật
lệ, quy định, chính sách khô cứng, mà bên cạnh đó, hiện nay, các nhà biên soạn
cũng như những người viết báo cũng đã đưa những mẩu chuyện vui nhưng đầy
châm biếm về pháp luật, để từ đó độc giả có thể bật lên tiếng cười, nhưng là tiếng
cười thâm thúy. Như vậy, báo chí Pháp luật không chỉ cung cấp những thông tin về
pháp luật mà giờ đây, chúng ta có thể đọc báo pháp luật và coi đó như là một
phương tiện để giải trí, thư giãn sau những bộn bề của cuộc sống thường nhật. Ví
dụ: trong báo Đời sống& Pháp luật, ngoài những bài báo theo bố cục truyền thống,
12
thì báo còn đan xen bằng những bài với hình thức một cuộc hội thoại mang hàm ý
mỉa mai thông qua tiếng cười châm biếm. Với tiêu đề “Xin các vị dừng tay “vẽ””
nói về vấn đề tỉnh Thanh dự chi hơn trăm tỷ cho lễ kỉ niệm 990 năm danh xưng, với
những câu đối thoại mang đầy hàm ý “không thể hiểu nổi. nhà nghèo mà lại ham
chơi sang”, “dân chúng tôi cần gạo, cần điện, cần thuốc chữa bệnh, không cần ấm
chén”.
13
Tiểu kết chương 1
Như vậy, ở chương thứ nhất này, chúng tôi đã tìm hiểu các bài viết bàn về
đặc điểm ngôn ngữ báo chí nói chung và ngôn ngữ pháp luật nói riêng. Theo quan
sát của chúng tôi, cho đến nay mới chỉ có một số bài viết bàn về đặc điểm ngôn ngữ
báo chí Pháp luật trình bày khái quát về ngôn ngữ báo chí.
Trong chương này, chúng tôi cũng đã hệ thống hóa các lí thuyết làm đường
hướng cho việc nghiên cứu như: phong cách ngôn ngữ báo chí; chức năng ngôn ngữ
báo chí; đặc điểm ngôn ngữ báo chí; một số thể loại báo chí. Đi sâu vào phần nội
dung, trước hết về chức năng ngôn ngữ báo chí bao gồm các chức năng như: chức
năng thông báo, chức năng giáo dục, chức năng định hướng dư luận, chức năng
thẩm mĩ và chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng.
Chúng tôi cũng nhấn mạnh đặc điểm của ngôn ngữ báo chí cũng như báo chí
Pháp luật, đó là: ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ sự kiện, ngôn ngữ báo chí là ngôn
ngữ có tính ngắn gọn và biểu cảm, ngôn ngữ báo chí có tính chiến đấu mạnh mẽ,
ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ có tính thuyết phục và hấp dẫn, ngôn ngữ báo chí có
tính đại chúng, ngôn ngữ báo chí có tính cụ thể và chính xác.
Tóm lại, tất cả những nội dung chúng tôi trình bày trong chương này là cơ
sở, tiền đề lí thuyết để chúng tôi đi nghiên cứu các nội dung về đặc điểm ngữ âm, từ
vựng và về lập luận được cụ thể trong chương 2 và chương 3.
14
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM NGỮ ÂM, TỪ VỰNG CỦA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
PHÁP LUẬT
2.1. Đặc điểm ngữ âm
Ngữ âm học là khoa học nghiên cứu âm thanh ngôn ngữ loài người. Ngữ âm
học có nhiệm vụ nghiên cứu tất cả các đơn vị âm thanh ở mọi trạng thái và chức
năng; nghiên cứu mối quan hệ giữa hình thức âm thanh và chữ viết của ngôn ngữ.
Ngữ âm là chất liệu để tạo nên tín hiệu ngôn ngữ. Khi đi vào nghiên cứu đặc điểm
ngữ âm trong báo chí Pháp luật, chúng tôi đã tìm hiểu và xét qua hình thức thể hiện
ở hai tờ báo Đời sống và Pháp luật (gồm các số 26, 27, 79, 85, 91); Pháp luật 4
phương (gồm các số 160, 161, 162, 163, 164). Từ đó, tiến hành nghiên cứu các vấn
đề liên quan đến đặc điểm ngữ âm của tiếng Việt bao gồm một số vấn đề như chính
tả, viết hoa tên riêng, viết tắt và phiên chuyển từ mượn nước ngoài.
2.1.1. Về chính tả
Trong ngôn ngữ học, chính tả là một hệ thống các quy tắc ghi chép lại lời
nói được cộng đồng người sử dụng, chấp nhận một cách chính thức qua các thể chế
của nhà nước. "Chính tả" là một từ Hán Việt, trong đó "chính" có nghĩa là đúng,
"tả" có nghĩa là viết, "chính tả" dịch sát nghĩa từng chữ là "viết đúng". Trong hệ
thống chính tả tiếng Việt, nhìn chung đều có sự thống nhất, nhưng vẫn còn một số
ngoại lệ chưa thực sự hợp lí do thói quen sử dụng.[22]
Qua khảo sát trên hai tờ báo, chúng tôi đã ghi nhận được thì có đến 82 lỗi
dùng sai chính tả, dấu câu và lỗi in ấn. Từ đó có thể thấy rằng lỗi về chính tả hay lỗi
viết sai quy tắc vẫn còn tồn tại trong báo chí Pháp luật.
Dưới đây, chúng tôi xin dẫn xuất một vài ví dụ về lỗi sai chính tả:
(1)“Nguyên nhân này cũng là một phần nhỏ để cậu Cẩn là bộ hạ có lí lẽ
khuyếch trương kinh tài muôn mặt.”
(YÊN QUẢNG, Biệt phủ Ngô Đình Cẩn xa hoa hơn dinh Độc Lập, Báo
PL4P, 09/07/2018)
(2)“Chẳng qua ông Ngô Đình Luyện là em của Tổng thống nên có sự dèm
pha.”
(LÊ TÁM, Trần Lệ Xuân 1 lời nói “LẬP CÔNG”, 3 NĂM “HƯỞNG LỘC”,
Báo PL4P, 06/08/2018)
15
(3)“Thời điểm khám phá đường dây tiêu thụ xe gian nói trên, công an thu hồi
25 xe máy các loại, trong đó xác định được 15 chiếc là xe trộm cắp ở nhiều địa bàn
quận, hiện khác nhau.”
(CÔNG THƯ, Bóc trần thủ đoản của đường dây “hóa kiếp” hàng trăm xe
gian, Báo ĐS&PL, số 26, 06/2018)
Ở cả ba ví dụ trên chúng tôi chỉ ra lỗi sai chính tả: khuếch trương thì tác giả
viết là “ khuyếch trương”, gièm pha thì viết là “dèm pha” hay huyện thì viết thành
“hiện”.
Nguyên do dẫn đến việc sai lỗi chính tả hay lỗi in ấn là do người viết, người
biên soạn chưa thực sự chú trọng, quan tâm đến vấ đề ngôn ngữ trong văn bản báo
chí. Đồng thời cũng là tần suất làm việc liên tục nên không tránh khỏi một số lỗi in
ấn không mong muốn và kiến thức chính tả hay ngữ âm của một số nhà báo còn
hạn chế. Vì vậy, khẩn thiết các nhà báo, các nhà biên soạn cần phải cẩn trọng, xem
xét, kiểm tra thật kĩ trước khi phát hành, để đưa đến cho độc giả những số báo chất
lượng nhất.
2.1.2. Về viết tắt
“Viết tắt là một dạng rút gọn cách viết của một từ hoặc từ ngữ. Thông
thường, nó bao gồm một hoặc nhiều chữ cái lấy từ chính từ ngữ được viết tắt.” [22]
Trong ngôn ngữ viết, viết tắt đã trở nên rất phổ biến, nó trở thành một phương tiện
hữu dụng dành cho các cụm từ dài và được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong cùng
một văn bản. Tuy nhiên, chúng ta không nên sử dụng quá nhiều việc viết tắt khi tạo
lập văn bản vì nó sẽ tác động tới sự lĩnh hội của bạn đọc. Để giải quyết thì trong
trường hợp có sử dụng viết tắt thì phải có chú thích trước và viết đầy đủ cụm từ
được viết tắt ít nhất một lần trước đó.
Trong quá trình khảo sát hai tờ báo Pháp luật 4 phương và Đời sống& Pháp
luật, chúng tôi đã thống kê được 877 lần có cách viết tắt không có chú thích hay
viết tắt chưa thống nhất giữa một bài báo, giữa hai bài báo với nhau hay giữa các tờ
báo với nhau.
2.1.2.1. Viết tắt không có quy ước từ trước
Việc người viết viết tắt không có quy ước từ trước sẽ khiến độc giả không
hiểu và gây khó khăn trong quá trình tiếp nhận. Đặc biệt với những cụm từ như
“Nông nghiệp và Phát triển nông thôn”, “Hội đồng xét xử”, “Cơ quan điều tra”,
“Viện kiểm sát nhân dân”, “Cảnh sát điều tra”, “Tòa án nhân dân”... Ví dụ:
16
(4) “Theo báo cáo mới nhất của tổng cục Thủy lợi, bộ NN&PTNN tại một
cuộc hội thảo vừa diễn ra ở TP.Đà Nẵng vào tháng 6/2018 vừa qua, khu vực miền
Trung- Tây Nguyên có 693/1.200 hồ hư hỏng, xuống cấp của nhà nước(chiếm
58%).”
(NHÂM THÂN, Người dân nơm nớp trước những trận động đất hoành hành
gần thủy điện, Báo ĐS&PL, 30/07/2018)
(5) “Thưa HĐXX, bị cáo khai tôi “bắt cá hai tay” là không đúng.”
(ÁNH DƯƠNG, Bản án cho kẻ cuồng ghen hại chết tình địch, Báo ĐS&PL,
số 26, 06/2018)
(6) “Đầu tháng 7, CQĐT- Công an quận Cầu Giấy, Hà Nội cho biết đã hoàn
tất điều tra vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với Đồng Phạm Nguyên (SN
1985, que quán An Nhơn, Bình Định) đồng thời chuyển hồ sơ đến Viện KSND cùng
cấp đề nghị truy tố về tội danh nêu trên.”
(ANH HẢI, Kẻ biến bị “gắn mác” Việt kiều Úc bất hạnh về đường tình duyên
và những cú lừa có một không hai, Báo ĐS&PL, số 27, 07/2018)
(7) “Sau một tuần xét xử chiều 29/6/2017, TAND TP.HCM trả hồ sơ vụ án
đề điều tra bổ sung, yêu cầu VKSND TP.HCM làm rõ 9 vấn đề còn nhiều mâu
thuẫn. Tháng 8/2017, cơ quan CSĐT Công an TP.HCM ra quyết định tạm đình chỉ
điều tra vụ án, tạm đình chỉ điều tra bị can đối với Nga và Dung.”
(CÔNG THƯ, Không khởi tố vụ án Vu khống trong “án tình” gây tranh cãi
của Hoa hậu Phương Nga, Báo ĐS&PL, 16/07/2018)
2.1.2.2. Viết tắt không thống nhất giữa hai tờ báo
Trong hai tờ báo Pháp luật 4 phương và báo Đời sống và Pháp luật đã có sự
không thống nhất trong việc viết tắt cách viết ngày tháng năm: mồng 9 tháng 9 với
30/6 và 15/06/2017 với 28/11/2017
(8) “Ngày mồng 9 tháng 9, giờ Mão (năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mệnh
thứ 17- khoảng 6h sáng ngày 18/10/1836) có 3 dải khí vàng ùn lên bắt đầu từ phía
đông nam, qua một giờ thì biến thành mây đen rồi mưa xuống.”
(KHỔNG ĐỨC THIÊM, Gia đình anh hùng Hoàng Hoan Thám: “HỔ PHỤ
SINH HỔ TỬ”, Báo PL4P, 30/07/2018)
17
(9) “Ngày 30/6, lãnh đạo Công an huyện Vân Hồ (Sơn La) cho biết hàng
chục cán bộ, chiến sĩ tiếp tục bảo vệ hiện trường tại khu nhà 2 của “ông trùm” ma
túy Nguyễn Thành Tuân và Nguyễn Văn Thuận ở bản Tà Dề, Lóng Luông.”
(NHÓM PV, Khi bị bắn hạ trong “đại bản doanh”, tay “ông trùm” vẫn khư
khư súng, Báo ĐS&PL, 02/07/2018)
(10) “Dưới ánh đèn lờ mờ vào tối 28/11/2017, Hoàng Văn Hải (SN 1998, trú
tại thị trấn Xuân Mai, huyện Chương Mỹ, Hà Nội) cùng 4 người bạn trong tình
trạng nồng nặc mùi rượu nhảy lên xe taxi.”
(TƯ VIỄN, Lỡ tay...giết người, bị cáo 8X khiến hai gia đình rơi vào bi kịch,
Báo ĐS&PL, 30/07/2018)
(11) “Ngày 15/06/2017, Thượng Viện Mỹ đã thông qua một dự luật đe dọa
trừng phạt, nghiêm cấm các ngân hàng và cấm dự đấu thầu các dự án tại Mỹ,
những doanh nghiệp châu Âu nào có tham gia vào việc xây dựng đường ống dẫn
Nord Stream II.”
(NGỌC AN, Tổng thống Mỹ mở “cuộc chiến” khí đốt mới?, Báo PL4P,
23/07/2018)
2.1.2.3. Viết tắt không thống nhất trong một tờ báo
- Cách viết tên chức vụ, học hàm của các bài báo trong cùng một tờ báo cũng
có sự khác nhau. Có tới ba cách viết như: Ths.BS, ThS- BS, Th- BS... Ví du:
(12) “ Theo Th-BS CKII Lê Thế Vũ (Chuyên ngành Phụ sản &Nam học,
Bệnh viện Phụ sản Hà Nội), việc các sản phụ đua nhau chọn một khung giờ mà họ
cho là đẹp để mổ bắt con sẽ gây ra tình trạng quá tải không cần thiết mà tình trạng
quá tải sẽ tạo áp lực cho bác sĩ và các nhân viên y tế.”
(TÂM ANH, Đau lòng sản phụ mất con lúc chờ sinh và lời cảnh báo của bác
sĩ về việc chọn “giờ vàng” sinh con, Báo ĐS&PL, số 27, 07/2018)
(13) “ ThS-BS Phạm Đình Nguyên (Bệnh viện Nhi Đồng 1) cũng khuyễn cáo
do hệ thống miễn dịch còn non yếu nên trẻ em thường dễ mắc bệnh truyền nhiễm
hơn người lớn.”
(AN HẢI, Nhiều bệnh viên ở Sài Gòn quá tải vì dịch bệnh hoành hành: Bố
mẹ bất lực nhìn con đau đớn khi “nhà nghèo bệnh trọng”, Báo ĐS&PL, số 27,
07/2018)
18