Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Nienluan quyen tu do ngon luan bao chi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.26 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
❧ ❧ ❧❧ ❧ ❧

NIÊN LUẬN
Đề Tài:

BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO
NGÔN LUẬN, TỰ DO BÁO CHÍ
CỦA CÔNG DÂN Ở VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn

HUẾ, 03/2016

Sinh viên thực hiện:


MỤC LỤC:
A. Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Kết cấu của niên luận
B. Phần nội dung
Chương 1. Những vấn đề về lý luận và quy định của pháp
luật về bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của
công dân ở Việt Nam
I.1 Những vấn đề về lý luận
1.1.1 Khái quát về quyền tự do ngôn luận và quyền tự do báo chí


1.1.2. Đặc điểm
1.1.3 Ý nghĩa
I.2 Quy định của pháp luật về quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí của công dân ở Việt Nam
I.2.1 Công ước quốc tế
I.2.2 Hiến pháp
I.2.3 Văn bản quy phạm pháp luật
Chương 2. Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về
bảo đảm quyền tự do ngôn luận tự do báo chí của công dân
ở Việt Nam
2.1 Thực trạng
2.1.1 Kết quả đạt được
2.1.2 Hạn chế và vướng mắc


2.2 Nguyên nhân
2.3 Kiến nghị giải pháp
C. Kết luận


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
2. Mục đích nghiên cứu
Với mục đích là nhằm nâng cao hiểu biết về những chính
sách và pháp luật mà Nhà nước ta đã đề ra để bảo đảm thực
hiện quyền tự do ngôn luận tự do báo chí cho công dân ở
Việt Nam. Tiếp đến là tìm hiểu vấn đề thực thi pháp luật về
bảo đảm quyền này có được cơ quan nhà nước thực hiện tốt
hay không, những kết quả đạt được và hạn chế còn mắc phải
trong quá trình thực hiện. Mục đích cuối cùng của quá trình

nghiên cứu là trang bị cho mình những kiến thức hữu ích
trong lĩnh vực về quyền con người nói chung và quyền tự do
ngôn luận tự do báo chí nói riêng. Đồng thời, với vốn hiểu
biết của mình, từ đó có một số đề xuất đóng góp nhằm phục
vụ cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài niên luận là pháp luật về
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân ở Việt
Nam.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu về các vấn đề lý luận
về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân ở Việt
Nam; phân tích, đánh giá quy định của pháp luật Việt Nam
về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; thực trạng áp dụng
pháp luật trong đời sống xã hội; những nguyên nhân và giải
pháp đề ra.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các vấn đề do đề tài đặt ra, Niên luận
được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –


Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta hiện nay về pháp luật về quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí.
Bên cạnh đó tác giả sử dụng phương pháp phân tích,
phương pháp khái quát hoá, phương pháp liệt kê và phương
pháp tổng hợp để nghiên cứu niên luận này.
5. Kết cấu của niên luận
Chương 1: Những vấn đề về lý luận và quy định của pháp
luật về bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của
công dân ở Việt Nam

Chương 2. Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về
bảo đảm quyền tự do ngôn luận tự do báo chí của công dân
ở Việt Nam
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ
DO NGÔN LUẬN, TỰ DO BÁO CHÍ CỦA CÔNG DÂN
Ở VIỆT NAM
1.1 Những vấn đề về lý luận
1.1.2 Khái quát về quyền tự do ngôn luận và quyền tự do báo
chí
Tự do ngôn luận và tự do báo chí là hai quyền cơ bản của
con người, không chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp nước
Việt Nam mà còn được ghi nhận cả trong Bản tuyên ngôn
nhân quyền và Dân quyền của pháp, các điều ước quốc tế...
Ngoài ra, quyền tự do báo chí còn được quy định tại luật


báo chí 1989 sửa đổi năm 1999 và nhiều văn bản quy phạm
pháp luật khác.
Trước hết, đi tìm hiểu từng khái niệm:
- Tự do là một phạm trù triết học chỉ khả năng biểu hiện ý chí,
làm theo ý muốn của mình trên cơ sở nhận thức được quy
luật phát triển của tự nhiên và xã hội.
- Báo chí là các loại hình tuyên truyền; là cơ quan ngôn luận
của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội; là
diễn đàn của nhân dân.
- Ngôn luận là phát biểu, bày tỏ ý kiến một cách công khai,
rộng rãi về những vấn đề chung như chính trị, kinh tế, xã
hội…

Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một văn bản quy phạm pháp
luật nào quy định rõ khái niệm quyền tự do ngôn luận, quyền
tự do báo chí là gì. Theo Công ước ICCPR thừa nhận quyền
tự do ngôn luận là "quyền giữ quan điểm mà không bị can
thiệp. Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận":
“Mọi người đều có quyền giữ vững quan điểm mà không bị can
thiệp. Mọi người đều có quyền tự do thể hiện; quyền này bao
gồm quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt thông tin và ý
tưởng của tất cả các loại, không kể biên giới, bằng miệng, bằng
văn bản hoặc ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi
phương tiện truyền thông khác của sự lựa chọn của mình”.
Tự do ngôn luận, tự do báo chí là nền tảng mà không có nó,
nhiều quyền con người khác cũng không thực hiện được. Nó là
một quyền cơ bản của con người không phân biệt về văn hóa,
chính trị, tôn giáo, dân tộc hay các yếu tốc khác. Quyền được


giữ quan điểm và tự do ngôn luận là cơ sở để thực hiện đầy đủ
nhiều quyền con người khác, ví dụ để hưởng quyền tự do hội
họp, lập hội, quyền bầu cử, ứng cử thì quyền tự do ngôn luận là
cơ sở để con người thực hiện đầy đủ các quyền này. Mặt khác,
cũng như các quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí có mối quan hệ chặt chẽ với các quyền khác.
Các quyền bất khả xâm phạm về đời tư và nhân thân, quyền tự
do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo, quyền tham gia quản lý nhà
nước và xã hội và quyền của người thiểu số đều có nội dung, yêu
cầu được bảo đảm quyền giữ quan điểm riêng và quyền tự do
ngôn luận. Hơn nữa, các quyền con người khác lại là cơ sở, thậm
chí là điều kiện quan trọng và thiết yếu để quyền tự do ngôn luận
được thực hiện, ví dụ quyền sống; quyền bất khả xâm phạm về

thân thể quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền tiếp cận thông
tin…

Một số nhà lập pháp và học giả cho rằng, tự do ngôn luận là
một quyền đa diện và đa chiều (a multi-faceted right) vốn
không chỉ bao gồm quyền biểu đạt, hay được phổ biến, chia
sẻ thông tin và ý tưởng mà còn bao gồm ba khía cạnh đặc
trưng sau đây: 1) Quyền tìm kiếm thông tin và ý tưởng; 2)
Quyền tiếp nhận thông tin và ý tưởng; 3) quyền được phổ
biến thông tin và ý tưởng. Như vậy, tự do ngôn luận và
quyền tự do ngôn luận có mối liên hệ mật thiết với các
quyền như quyền tự do biểu đạt, tự do thông tin, tự do báo
chí... Trong đó, quyền tự do báo chí chính là quyền tự do
ngôn luận trên báo chí. Thuật ngữ tự do biểu đạt (freedom
of expression) đôi khi còn được dùng để đề cập đến cả hành
động tìm kiếm, tiếp nhận, và chia sẻ thông tin hoặc quan


niệm, bất kể bằng cách sử dụng phương tiện truyền thông
nào.
Có thể hiểu ngắn gọn:
- quyền tự do ngôn luận là quyền của công dân được tham gia
bàn bạc, thảo luận, đóng góp ý kiến vào những vấn đề
chung của đất nước, xã hội.
- quyền tự do báo chí là một hình thức của quyền tự do ngôn
luận trên báo chí.
Hay nói tóm lại tự do ngôn luận và tự do báo chí là sự phát
biểu, tiếp nhận thông tin, tuyên truyền thông tin, bày tỏ
chính kiến, giữ quan điểm của bản thân mà không bị hạn
chế, cấm đoán.

1.1.2. Đặc điểm
- Tự do ngôn luận, tự do báo chí là những quyền dân chủ. Bởi
tự do, dân chủ thực chất chỉ là một, khi có tự do sẽ có dân
chủ và có dân chủ sẽ có tự do. Hay nói cách khác đó là
quyền nhân dân làm chủ. Nghĩa là người dân được tự do về
lời nói, thông tin, có quyền đưa ra những ý kiến của mình
mà không chịu bất kỳ sự ràng buộc nào, có thể là những
nhận xét, phán xét về các cơ quan nhà nước, có thể là những
câu nói, những bài báo viết về các lĩnh vực,…
- Tự do ngôn luận, tự do báo chí là quyền chính trị. Bởi việc
phát ngôn không chỉ là giữa những cá nhân với cá nhân mà
còn là việc đưa ra quan điểm về các hoạt động của bộ máy
nhà nước, góp ý kiến vào chính sách của nhà nước. Biểu
hiện ở chỗ người dân có thể thông qua những người đại diện
để chất vấn những đại biểu trong quốc hội. Người dân có
quyền nhận xét, đưa ra ý kiến của mình về việc thực thi các


văn bản pháp luật. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí theo quy định của pháp luật. Công dân sử dụng
quyền tự do ngôn luận trong các cuộc họp ở cơ sở, trên các
phương tiện thông tin đại chúng, kiến nghị với đại biểu quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong dịp tiếp xúc với cử tri
hay đóng góp ý kiến vào các dự thảo cương lĩnh, chiến lược,
dự thảo văn bản luật, bộ luật quan trọng. Sử dụng quyền tự
do ngôn luận phải tuân theo quy định của pháp luật để phát
huy tích cực và quyền làm chủ của công dân, góp phần xây
dựng nhà nước, quản lí xã hội.
- Tuy nhiên xét về khía cạnh áp dụng vào thực tế thì không
phải tự do ngôn luận, tự do báo chí là muốn nói gì thì nói,

muốn viết gì thì viết. Tự do ngôn luận, tự do báo chí bị hạn
chế khi nó trái với các quyền và giá trị khác. Cụ thể như
hành vi trái với thuần phong mỹ tục, hạ thấp danh dự người
khác. Tự do ngôn luận, tự do báo chí ở một quốc gia luôn
phụ thuộc vào nền dân chủ của quốc gia đó. Không thể có tự
do ngôn luận, tự do báo chí ở một đất nước phi dân chủ,
hoặc bị áp bức, bóc lột, thống trị của ngoại bang. Hơn 70
năm qua (1945 - đến nay), dân tộc Việt Nam đã anh dũng
đứng lên đấu tranh, hy sinh, xây dựng, củng cố nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa - nền dân chủ thực sự - phù hợp với quy
luật phát triển của nhân loại. Hiện nay, quyền con người,
quyền công dân trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của người
dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được
bảo đảm bằng luật pháp, phù hợp với thực tiễn phát triển
của đất nước và thông lệ quốc tế.
- Quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí thuộc về giá trị đặc
thù của một xã hội dân chủ. Trong nền dân chủ, các cử tri
đều quan tâm đến việc lắng nghe nhiều ý kiến khác nhau và


tranh luận với những ý kiến đó, đồng thời quan tâm đến việc
nắm bắt các sự kiện và các lối lý giải, cũng như các quan
niệm đối lập ngay cả khi họ tin rằng các quan niệm được thể
hiện ra ấy có tính chất công kích về phương diện chính trị,
đạo đức hay cá nhân. Những ý kiến này không phải lúc nào
cũng có thể được truyền thông trực tiếp qua báo chí, truyền
thanh và truyền hình, mà chúng còn thường được trình bày
trong các loại hình nghệ thuật: tiểu thuyết, thi ca, điện ảnh,
biếm họa, và ca từ. Chúng cũng có thể được thể hiện một
cách tượng trưng bằng những hành vi như đốt một lá cờ,

hay như nhiều người Mỹ phản đối Chiến tranh xâm lược
Việt Nam đã làm là đốt thẻ quân dịch. Các thành viên của
một nền dân chủ cũng quan tâm đến việc đại đa số các công
dân phải là người chủ động tham gia tích cực vào sự bàn
luận chính trị chứ không phải là người tiếp nhận thụ động
chính sách từ trên ban xuống.
- Quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí thường không phải
là một vấn đề có liên quan đến các hoạt động riêng tư, mà
liên quan đến các hoạt động truyền thông đại chúng như:
công bố một quyển sách, một bài thơ, một bài báo, hay một
bức ảnh, phát sóng một chương trình phát thanh hay truyền
hình, sáng tác và triển lãm một tác phẩm nghệ thuật, đọc
một bài diễn văn trong một cuộc mít-tinh chính trị, hay có
thể là đăng tải một lời công kích trên nhật ký web (weblog)
hay thu âm vào một hệ thống podcast .

1.1.3 Ý nghĩa pháp lý của bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí


-

Có thể nói, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí có những
đóng góp tích cực vào những khía cạnh khác của xã hội. Đó
là một nền xã hội quản trị tốt, pháp quyền và dân chủ.
Phương tiện truyền thông có một vai trò quan trọng trong
việc rà soát và đánh giá các hành động của chính phủ, buộc
họ phải quản lý các nguồn lực và thiết lập các chính sách
một cách minh bạch và công bằng. Chính phủ có nhiệm vụ
để loại bỏ các rào cản đối với tự do phát biểu và thông tin,

và tạo ra một môi trường mà trong đó tự do ngôn luận và
truyền thông tự do phát triển.

- Ủy ban Nhân quyền khẳng định trong Bình luận chung số
34 rằng quyền được giữ quan điểm của mình và quyền tự do
ngôn luận là điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển đầy
đủ của mỗi người. Chúng rất cần thiết cho bất cứ xã hội nào
và tạo thành nền tảng vững chắc cho tất cả các xã hội tự do
và dân chủ. Hai quyền này liên quan chặt chẽ với nhau bởi
lẽ tự do ngôn luận sẽ cung cấp phương tiện để trao đổi và
phát triển các ý kiến.
- Tự do ngôn luận là một điều kiện cần thiết cho việc thực
hiện các nguyên tắc minh bạch và trách nhiệm giải trình,
đây là các nguyên tắc cần thiết cho việc thúc đẩy và bảo vệ
nhân quyền. Có một số các điều khoản khác có nội dung
đảm bảo quyền được giữ quan điểm của mình và quyền tự
do ngôn luận. Hai quyền này là cơ sở để thực hiện đầy đủ
một loạt các quyền khác của con người. Ví dụ, tự do ngôn
luận là không thể thiếu được hưởng các quyền tự do hội họp
và lập hội, và thực hiện quyền bầu cử.


I.3 Quy định của pháp luật về quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí của công dân ở Việt Nam
I.3.1 Công ước quốc tế
Nước ta đã tham gia bảy văn kiện pháp lý chính yếu và
nhiều điều ước quốc tế khác liên quan đến quyền con người.
Trong đó có 2 văn kiện thể hiện rõ quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí của công dân. Cụ thể là:
-


Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền: là tuyên ngôn về các
quyền cơ bản của con người được Đại Hội đồng Liên Hiệp
Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 ở Paris, Pháp,
là tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên trên thế giới, trong đó liệt
kê các quyền cơ bản mà mọi cá nhân được hưởng, không
phân biệt chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo,
quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác, quốc tịch
hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những
hoàn cảnh khác là giá trị phổ dụng.

-

Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (viết
tắt tiếng Anh là CCPR): là một công ước quốc tế do Đại Hội
đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 16 tháng
12 năm 1966 và có hiệu lực từ ngày 23tháng 03 năm 1976,
nêu tổng quan các quyền dân sự và chính trị cơ bản của con
người. Cụ thể, các bên tham gia ký kết sẽ phải tôn trọng các
quyền dân sự và chính trị của từng cá nhân, bao gồm quyền
sống, quyền tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do hội họp,
quyền bầu cử và quyền được xét xử bình đẳng và theo đúng
trình tự pháp luật.


Đây là kết quả to lớn của các cố gắng của Nhà nước và nhân
dân ta trong hội nhập quốc tế về cam kết bảo đảm tôn trọng
và thực hiện các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về nhân quyền.
I.3.2 Hiến pháp:
-


Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là một trong những
quyền quan trọng của con người. Bởi vậy, quyền này được
bảo vệ ở cấp độ đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất của quốc
gia là Hiến pháp. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, quyền tự do ngôn
luận đã được đề cập tại Điều 10 như sau:

“Công dân Việt Nam có quyền:
-

Tự do ngôn luận

-

Tự do xuất bản

-

Tự do tổ chức và hội họp

-

Tự do tín ngưỡng

-

Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.

-


Đến Hiến pháp 1959, quyền tự do ngôn luận tiếp tục

được tái khẳng định trong Điều 25 và quy định trách nhiệm của
Nhà nước trong việc đảm bảo quyền này trong thực tế. Điều 25 ghi
rõ: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có các quyền tự
do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo
đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng
các quyền đó”. Hiến pháp 1980 tiếp tục ghi nhận quyền tự do
ngôn luận với những quy định chi tiết hơn về cơ chế thực hiện,
trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền này.
-

Điều 67 Hiến pháp 1980 qui định: “Công dân có các quyền tự

do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu


tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân.
Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các
quyền đó. Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm
phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân”.
-

Hiến pháp 1992 và 2013 một lần nữa khẳng định đây là quyền

cơ bản của công dân với ghi nhận công dân có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập
hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
Bản Hiến pháp 2013 quy định:

Điều 14:
1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng đồng.
Điều 25:
Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền
này do pháp luật quy định.
Có thể nhận thấy quyền tự do ngôn luận đã được qui định ngay
từ bản Hiến pháp đầu tiên và được cụ thể hóa trong tất cả các
bản Hiến pháp sau này. Với tư cách là văn bản pháp lý có giá trị
cao nhất, Hiến pháp còn quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước
trong việc phải tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân
thực hiện các quyền con người cơ bản, trong đó có quyền tự do


ngôn luận. Đối với mỗi cá nhân, không ai được lợi dụng các
quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của
nhân dân. Như vậy, pháp luật Việt Nam ta đã tuân thủ đúng tinh
thần của các Công ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập. Việt
Nam tôn trọng và bảo vệ các quyền con người ấy, đi theo xu
hướng phát triển của nhân loại.
I.3.3 Văn bản quy phạm pháp luật
- Luật báo chí 1989 ( sửa đổi năm 1999): Ngay trong Lời nói đầu
đã nêu rõ Luật Báo chí ra đời để bảo đảm quyền tự do báo chí,

quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, phù hợp với
lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân. Đồng thời, “Nhà
nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do
báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát
huy đúng vai trò của mình. Báo chí, nhà báo hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ ; không một tổ
chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt
động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự
do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
tập thể và công dân. Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in,
phát sóng”.Đây là những quy định cụ thể nhất, thể hiện sự tôn
trọng, thừa nhận các quyền con người cơ bản của công dân,
trong đó có quyền tự do ngôn luận Nhiệm vụ và quyền hạn của
báo chí tổ chức báo chí và nhà báo quản lý nhà nước về báo chí
khen thưởng và xử lý vi phạm.
Luật Báo chí (1989) đã tách một phần của Điều 69 ( Hiến pháp
1992) hình thành các quy định cụ thể về quyền tự do báo chí
với hai nội dung “quyền tự do báo chí” và “quyền tự do ngôn
luận trên báo chí”. Theo đó, công dân có quyền được thông tin
qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới cũng


như tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà
báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không
chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin. Đặc biệt, công
dân có quyền phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới;
tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước (Điều 4). Đối với
các cơ quan báo chí, các cơ quan phải có trách nhiệm đối với

các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và
thành viên của các tổ chức đó. Điều đó thể hiện cụ thể ở trách
nhiệm của cơ quan báo chí.
- Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004: Điều 20
Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt
động xã hội
1. Trẻ em có quyền được tiếp cận thông tin phù hợp với sự phát
triển của trẻ em, được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về những vấn
đề mình quan tâm.
Như vậy, trẻ em cũng được thừa nhận một phần quyền tự do
ngôn luận trong vấn đề quan tâm.
- Việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí đã được thể
chế hóa một phần bằng những qui định về việc công khai, minh
bạch hoạt động của bộ máy nhà nước trong Luật thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, Luật phòng chống tham nhũng. Cụ thể:
✓ Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí quy định:
Điều 6: Công dân có quyền giám sát việc thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí thông qua hình thức tố giác, khiếu nại, tố cáo
hoặc thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành
viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; phát hiện và kịp thời phản


ánh cho tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về các hành vi gây lãng
phí.
Điều 9: Thông tin phát hiện lãng phí bao gồm: a) Tin, bài trên
các phương tiện thông tin đại chúng; b) Phản ánh dưới hình
thức khác của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
✓ Điều 6 Luật phòng chống tham nhũng:
Công dân có quyền phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng; có
nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền trong việc phát hiện, xử lý người có hành vi tham nhũng.


-

Thông tư số 04/2014/TT-BTTTT: Quy định chi tiết và hướng
dẫn thực hiện một số Điều của Nghị định số 88/2012/NĐ-CP
ngày 23 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ về hoạt động
thông tin, báo chí của báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện
nước ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.

-

Quyết định số 25/2013/QĐ-TTg: Ban hành Quy chế phát
ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí

-

Nghị định số 88/2012/NĐ-CP: Quy định về hoạt động thông
tin, báo chí của báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện nước
ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam

-

Thông tư số 21/2011/TT-BTTTT: Sửa đổi, bổ sung một số
quy định của Thông tư số 13/2008/TT-BTTTT ngày 31
tháng 12 năm 2008 hướng dẫn việc thành lập và hoạt
động của cơ quan đại diện, phóng viên thường trú ở
trong nước của các cơ quan báo chí và Quyết địnhsố
28/2002/QĐ-BVHTT ngày 21 tháng 11 năm 2002 của Bộ

trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành Quy chế xuất
bản bản tin, tài liệu, tờ rơi; phát hành thông cáo báo chí;
đăng, phát bản tin trên màn hình điện tử của các cơ
quan, tổ chức nước ngoài, pháp nhân có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam.

- Thông tư số 07/2011/TT-BTTTT: Quy định chi tiết và
hướng dẫn việc cấp Giấy phép hoạt động báo chí trong lĩnh
vực phát thanh, truyền hình.
Tuy nhiên, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí cũng phải chịu
những hạn chế nhất định. Những hạn chế đó được quy định
trong pháp luật và chỉ để nhằm các mục đích: nhằm tôn trọng
quyền hoặc uy tín của người khác; nhằm bảo vệ an ninh quốc


gia, hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công
chúng. Cụ thể hóa như sau:
Điều 88 Bộ Luật Hình Sự quy định Tội tuyên truyền chống Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm
đến mười hai năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt
gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung
chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm.


Điều 258 Bộ Luật Hình Sự quy định Tội lợi dụng các quyền tự do dân
chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân:
1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân
chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba
năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm
đến bảy năm.


Điều 10 Luật báo chí quy định những điều không được
thông tin trên báo chí, bao gồm:
1-

Không được kích động nhân dân chống Nhà nước

CHXHCN Việt Nam, phá hoại khối đoàn kết toàn dân.
2-

Không được kích động bạo lực, tuyên truyền chiến

tranh, gây hận thù giữa các dân tộc.
3-

Không được tiết lộ bí mật Nhà nước.

Không được đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống.”
- Dự thảo Luật báo chí sửa đổi: để triển khai thi hành Hiến pháp

năm 2013 và để các quy định của pháp luật về báo chí hiện
hành phù hợp với các yêu cầu mới do Hiến pháp năm 2013 đặt
ra. Đó là các vấn đề đảm bảo thực hiện quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân; quyền tiếp
cận thông tin của báo chí; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức
trong việc cung cấp thông tin cho báo chí; các hành vi, nội dung
bị cấm thông tin trên báo chí để bảo đảm “tôn trọng các quyền
hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự
công cộng; sức khỏe hoặc đạo đức xã hội.
Như vậy, bên cạnh các quy định về quyền tự do ngôn luận, pháp
luật Việt Nam cũng quy định rõ các hành vi bị nghiêm cấm
nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của Nhà nước cũng như của
công dân. Điều đó phù hợp với các quy định của pháp luật quốc
tế, cụ thể là Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
năm 1966. Việc ghi nhận quyền tự do ngôn luận của công dân
trong pháp luật nước ta, một mặt thể hiện đòi hỏi nội tại về phát
triển tự do của con người Việt Nam; mặt khác, thể hiện sự thực
thi cam kết của nước ta khi gia nhập các công ước quốc tế về
quyền con người. Theo đó, quyền tự do ngôn luận là quyền của


con người, là giá trị mang tính phổ quát được thừa nhận chung
và rộng rãi. Trong ý nghĩa tích cực của nó, cá nhân khi bày tỏ ý
kiến của mình là mong muốn được người khác, được xã hội biết
đến để cùng bàn luận, giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN TỰ DO
BÁO CHÍ CỦA CÔNG DÂN Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trạng của việc bảo đảm quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí của công dân ở Việt

Nam
2.1.1 Kết quả
- Thực tế cho thấy, báo chí Việt Nam đã góp phần thỏa mãn
một phần nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân, đồng thời
đề xuất, phản biện một cách khoa học về các chủ trương,
đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Nhiều vụ vi phạm pháp luật, nhiều hành vi tham nhũng đã bị
báo chí phát hiện. Báo chí thật sự là công cụ bảo vệ lợi ích
xã hội, bảo vệ quyền của người dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) là tổ chức liên
minh các dân tộc, tầng lớp nhân dân, có vai trò quan trọng
trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước và
đại biểu dân cử. MTTQVN cũng tham gia phản biện xã hội
đối với các văn bản, chính sách của Nhà nước trước khi
được thông qua. Sự tham gia trực tiếp của người dân thông
qua các cơ chế pháp lý như bầu cử, ứng cử, chất vấn, khiếu
nại, tố cáo và quy chế phát huy dân chủ ở cơ sở thực sự là
cơ chế giám sát hiệu quả nhất đối với hoạt động của Nhà
nước. Báo chí Việt Nam trở thành diễn đàn ngôn luận của


các tổ chức xã hội, nhân dân và là lực lượng quan trọng
trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách,
pháp luật của các cơ quan Nhà nước, góp phần mạnh mẽ
vào quá trình chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam
- Bốn cơ quan báo chí chính thống lớn nhất nước (Thông tấn
xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt
Nam và báo Nhân dân) đã ký kết thỏa thuận phối hợp hành
động trong việc thông tin, tuyên truyền đến công chúng Việt
Nam. Các báo, đài, hãng thông tấn này đều là các cơ quan

ngôn luận chính thức của Đảng cộng sản, Nhà nước và
Chính phủ Việt Nam. Theo đó, các cơ quan báo chí này sẽ
thống nhất về quan điểm, chủ trương khi thông tin về các sự
kiện và các vấn đề quan trọng, nhạy cảm của Việt Nam và
thế giới. Thỏa thuận này cũng yêu cầu các bên “trao đổi
thông tin trước khi thực hiện” để đảm bảo “đúng định
hướng”. Các cơ quan thường trú tại nước ngoài của các cơ
quan này cũng được yêu cầu phải phối hợp và trao đổi thông
tin với nhau. Việc hợp tác này sẽ giúp xây dựng “dòng
thông tin chính thống đủ mạnh” để tạo sự đồng thuận cao
trong xã hội. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên trong
“những thời điểm khó khăn” hay trong những sự kiện chính
trị- xã hội quan trọng của đất nước là rất cần thiết để “tạo
thành sức mạnh” trong việc “định hướng dư luận”. Đây là
lần đầu tiên bốn cơ quan báo chí của Nhà nước này có một
chương trình phối hợp thông tin chính thức như vậy.
- Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin của người
dân Việt Nam được thể hiện rõ qua sự phát triển nhanh
chóng, đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung của
các phương tiện thông tin đại chúng Theo số liệu của cơ


quan chức năng, đến tháng 3 năm 2015, Việt Nam có 845 cơ
quan báo chí in, trong đó có 199 cơ quan báo in, 646 tạp chí
và 01 hãng thông tấn quốc gia (tăng 07 cơ quan báo chí in
so với năm 2013); 98 báo, tạp chí điện tử (tăng 06 báo, tạp
chí điện tử so với năm 2013); 67 đài phát thanh, truyền hình
Trung ương và địa phương; 180 kênh phát thanh, truyền
hình trong nước và 40 kênh phát thanh, truyền hình ở nước
ngoài; 05 đơn vị phát sóng truyền hình số mặt đất và 03 nhà

cung cấp dịch vụ truyền hình vệ tinh; 27 nhà cung cấp dịch
vụ truyền hình cáp. Số lượng thuê bao truyền hình số mặt
đất đạt 7.000.000, tăng gấp đôi so với năm 2013; 973.000
thuê bao truyền hình số vệ tinh và 4.300.000 thuê bao
truyền hình cáp. So với các quốc gia khác, Việt Nam có số
lượng người dùng internet nhiều thứ 8 trong khu vực châu Á
và đứng vị trí thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á. Việt Nam hiện
có gần 18 nghìn nhà báo được cấp thẻ Nhà báo và hơn 19
nghìn hội viên nhà báo cùng cộng tác viên trên khắp cả
nước. Đây chính là lực lượng quan trọng, góp phần phản
ánh một cách trung thực tình hình kinh tế - xã hội của đất
nước, luôn đi đầu trong đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, quan liêu, lãng phí. Ngoài hệ thống thông tin, báo
chí, truyền thông trong nước, người dân Việt Nam còn được
tiếp cận với hàng chục hãng thông tấn, báo chí và kênh
truyền hình nước ngoài, như Reuters, BBC, VOA, AP, AFP,
CNN và nhiều báo, tạp chí quốc tế lớn khác. Báo chí đã trở
thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân,
là công cụ quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội,
các quyền tự do của nhân dân và trong công tác kiểm tra,
giám sát việc thực thi chính sách và pháp luật của Nhà nước,
đặc biệt về quyền con người.


- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người. Trên tinh thần đó, chỉ trong một khoảng thời gian
ngắn, từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã ban hành và sửa
đổi khoảng 13.000 văn bản luật và dưới luật, trong đó các
quyền về dân sự, chính trị được quy định một cách cụ thể và

toàn diện hơn. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 ghi nhận đầy
đủ các quyền con người. Nội dung các quyền này đã được
thể hiện xuyên suốt qua các chương, mục của Hiến pháp và
được cụ thể hoá tại nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trực
tiếp liên quan đến lĩnh quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí:
Luật báo chí. Hơn 16 năm thi hành, Luật Báo chí và các
văn bản hướng dẫn thi hành luật đã tạo hành lang pháp lý để
hoạt động báo chí và các hoạt động liên quan đến báo chí
phát triển vượt bậc, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận
trên báo chí của nhân dân được bảo đảm và phát huy trong
khuôn khổ Hiến pháp 2013 và luật định; báo chí Việt Nam
phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, loại hình và chất lượng
thông tin, qua đó phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
- Dự án Luật Báo chí (sửa đổi) được xây dựng nhằm đảm bảo
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo
chí; phát huy tối đa những mặt tích cực, khắc phục tối đa
những thiếu sót, khuyết điểm trong hoạt động báo chí; bảo
đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về báo
chí, trên cơ sở pháp điển hóa những quy định pháp luật về
báo chí hiện hành; tính khả thi của các quy định pháp luật về
báo chí trong điều kiện chính trị, kinh tế-xã hội và hoạt
động báo chí ở Việt Nam. Luật Báo chí năm 1989 gồm 7
chương, 31 điều; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật


Báo chí năm 1999 có 36 điều. Dự thảo Luật Báo chí lần này
gồm 6 chương với 60 điều, trong đó có 31 điều xây dựng
mới, 29 điều sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Báo chí
hiện hành.

- Năm 2012, về số lượng người sử dụng internet, Tổ chức
Liên minh viễn thông quốc tế (ITU) xếp Việt Nam đứng thứ
ba tại Ðông- Nam Á, thứ 8 tại châu Á. Theo số liệu khảo sát
của WeAreSocial - tổ chức nghiên cứu độc lập về truyền
thông xã hội toàn cầu, tới tháng 12-2012 số người sử dụng
internet ở Việt Nam là 30,8 triệu, chiếm 34% dân số (mức
trung bình của thế giới là 33%). Tháng 10-2009, dịch vụ
truy cập internet qua mạng 3G có mặt tại Việt Nam, lập tức
góp phần tạo nên sự phát triển vượt bậc của internet băng
thông rộng, sau ba năm (tính đến tháng 7-2012), số lượng sử
dụng đạt con số 16 triệu người (chiếm khoảng 18% dân số).
Riêng với blog, trên cả nước hiện có gần 3 triệu người có
blog cá nhân. Ða số blogger sử dụng blog làm nơi bày tỏ
suy nghĩ, trao đổi tâm tình, kiến thức; thông qua blog đã
hình thành nhiều nhóm sinh viên, thanh niên rất tích cực
hoạt động xã hội như quyên góp giúp đỡ trẻ em nghèo, giúp
người không nơi nương tựa,... Hầu như các cơ sở công cộng
ở đô thị như nhà hàng, khách sạn, quán giải khát, nhà chờ
sân bay,... đều có Wifi miễn phí. Tại các địa phương có
ngành du lịch phát triển như Huế, Ðà Nẵng, Hội An,... kế
hoạch phủ sóng Wifi đã và đang được triển khai là bằng
chứng cho thấy sự quan tâm của chính quyền địa phương
với sự phát triển internet.
-

Trong nhiều trường hợp, việc sử dụng các quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí này là công cụ bảo vệ lợi ích xã hội, bảo



×