Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Khoá luận tốt nghiệp Tiếp cận kiểu truyện người con riêng trong kho tàng cổ tích Việt Nam từ góc nhìn thi pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.98 KB, 63 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

LƢU THỊ THỦY

TIẾP CẬN KIỂU TRUYỆN NGƢỜI CON RIÊNG
TRONG KHO TÀNG CỔ TÍCH VIỆT NAM
TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

LƢU THỊ THỦY

TIẾP CẬN KIỂU TRUYỆN NGƢỜI CON RIÊNG
TRONG KHO TÀNG CỔ TÍCH VIỆT NAM
TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan

HÀ NỘI, 2019




LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan và
các thầy cô trong Tổ bộ môn Văn học Việt Nam, khoa Ngữ Văn - Trƣờng Đại
học Sƣ Phạm Hà Nội 2 đã hƣớng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi giúp em hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này.
Xin cảm ơn những ngƣời bạn đã luôn đồng hành cùng em trong suốt
quãng thời gian nghiên cứu.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Lƣu Thị Thủy


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Tiếp cận kiểu truyện người con riêng trong
kho tàng cổ tích Việt Nam từ góc nhìn thi pháp” là công trình nghiên cứu
độc lập của bản thân tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của TS Nguyễn Thị Ngọc Lan.
Các trích dẫn và nội dung tham khảo có nguồn gốc rõ ràng, trung thực. Nếu vi
phạm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Lƣu Thị Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 6
6. Đóng góp ....................................................................................................... 6
7. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: THI PHÁP NHÂN VẬT TRONG KIỂU TRUYỆN NGƢỜI
CON RIÊNG ..................................................................................................... 7
1.1. Hệ thống nhân vật ...................................................................................... 7
1.1.1. Nhân vật chính ........................................................................................ 8
1.1.2. Nhân vật đối thủ .................................................................................... 10
1.1.3. Nhân vật trợ thủ..................................................................................... 11
1.2. Đặc điểm nhân vật .................................................................................... 14
1.3. Phƣơng thức xây dựng nhân vật .............................................................. 17
Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................ 19
CHƢƠNG 2: THI PHÁP LỰA CHỌN VÀ MIÊU TẢ XUNG ĐỘT TRONG
KIỂU TRUYỆN NGƢỜI CON RIÊNG ......................................................... 20
2.1. Xung đột mẹ kế - con chồng .................................................................... 21
2.1.1. Ngƣời con riêng bị hành hạ ngƣợc đãi .................................................. 22
2.1.2. Ngƣời con riêng bị bức hại ................................................................... 27
2.1.3. Ngƣời con riêng báo thù........................................................................ 30
2.2. Xung đột chị em gái ................................................................................. 37
2.3. Xung đột anh em trai ................................................................................ 41
Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................ 42
CHƢƠNG 3: THI PHÁP THỜI GIAN, KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG KIỂU TRUYỆN NGƢỜI CON RIÊNG .......................................... 44
3.1. Thời gian nghệ thuật ................................................................................ 44
3.1.1. Khái niệm .............................................................................................. 44



3.1.2. Biểu hiện của yếu tố thời gian trong kiểu truyện ngƣời con riêng ....... 45
3.2. Không gian nghệ thuật ............................................................................. 48
3.2.1. Khái niệm .............................................................................................. 48
3.2.2. Biểu hiện của yếu tố không gian trong kiểu truyện ngƣời con riêng.... 50
Tiểu kết chƣơng 3............................................................................................ 51
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 53
DANH MỤC 25 TRUYỆN KHÓA LUẬN KHẢO SÁT
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ở lĩnh vực nghiên cứu khoa học, truyện cổ tích đƣợc coi là một bộ
phận chiếm vị trí đặc biệt trong nền văn học dân tộc. Truyện cổ tích hội tụ
nhiều kiểu truyện: ngƣời mồ côi, ngƣời em út, ngƣời lao động giỏi, ngƣời đội
lốt... đã tạo nên sự đa dạng và phong phú trong tƣ duy nghệ thuật của ngƣời
xƣa, góp phần tạo nên diện mạo của truyện cổ tích Việt Nam còn có sự góp
mặt không nhỏ của kiểu truyện ngƣời con riêng. Truyện cổ tích với cốt
truyện, xung đột và nhân vật đặc sắc đằng sau đó là cả một bài học triết lý
giáo dục con ngƣời một cách sâu sắc, kiểu truyện ngƣời con riêng đã thu hút
sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu văn học dân gian. Sự quan tâm đƣợc
thể hiện qua các công trình, giáo trình Đại học và Cao đẳng...
Tuy nhiên, việc tìm tòi đánh giá kiểu truyện này từ góc nhìn thi pháp
còn ở mức khái quát chƣa sâu, chƣa cụ thể. Chính vì vậy, vấn đề ngƣời con
riêng vẫn là vấn đề cần khai thác. Do đó, chúng tôi muốn đóng góp thêm cái
nhìn cụ thể và chi tiết thấu đáo hơn về vấn đề này, chúng tôi chọn lựa đề tài:
“Tiếp cận kiểu truyện người con riêng trong kho tàng cổ tích Việt Nam từ
góc nhìn thi pháp”.

1.2. Truyện cổ tích - thể loại lớn đƣợc đƣa vào nhà trƣờng ở các cấp
học khác nhau, từ Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, Cao đẳng
và Đại học để giảng dạy. Việc đƣa vào chƣơng trình nhƣ vậy là bởi chức năng
của truyện cổ tích là chức năng giáo dục với giá trị đạo đức sâu sắc. Còn với
kiểu truyện ngƣời con riêng: hình tƣợng nhân vật ngƣời con hiền thảo tốt
bụng, ngƣời dì ghẻ tham lam độc ác sẽ đem lại cho trẻ nhỏ những xúc cảm
nghệ thuật một cách sâu sắc, rồi từ đó các em có những nhận thức thiết thực
về cái thiện, cái ác, cái xấu và ƣớc mơ về lẽ công bằng trong xã hội. Bằng lối
kết thúc có hậu với sự ban thƣởng hậu hĩnh cho nhân vật lƣơng thiện và sự
trừng trị thích đáng với nhân vật xấu xa phi nghĩa, truyện cổ tích đã làm yên
lòng trẻ thơ và niềm tin cho các em vào một cuộc sống bình đẳng tốt đẹp của
thế giới con ngƣời.

1


Tuy vậy, việc tiếp nhận của học sinh hiện nay, đôi khi chƣa đúng với
bản chất của truyện cổ tích nhƣ việc các em vẫn cho rằng Tấm ác, tác giả dân
gian trừng phạt mẹ con Cám quá dã man... Vì vậy, nhiệm vụ của các nhà sƣ
phạm cần quan tâm đặc biệt tới tâm lý tiếp nhận của học sinh trong quá trình
giảng dạy và giúp các em hƣớng đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
1.3. Còn có lý do khác để chúng tôi lựa chọn đề tài này xuất phát từ
chính sự yêu thích của bản thân với truyện cổ tích. Chính vì vậy, “Tiếp cận
kiểu truyện người con riêng trong kho tàng cổ tích Việt Nam từ góc nhìn
thi pháp” mang một vẻ đẹp hấp dẫn không chỉ trẻ em mà còn đem đến cho
ngƣời lớn tuổi những rung cảm sâu lắng, đƣa tâm hồn mình đến một thế giới
khác hẳn, một thế giới trong đó “sự giản dị đẹp đẽ, sự dốt nát kì diệu của
người thời cổ... được bảo quản tươi nguyên như hoa với cả hương thơm” (Aphơ-răng-xơ) [10]. Truyện cổ tích đã khơi sâu trong con ngƣời những dòng
suối cảm xúc, những khát khao và hi vọng hạnh phúc với thực tại trần trụi,
ganh ghét. Truyện cổ tích nuôi dƣỡng tâm hồn, những giá trị tinh thần làm

cho con ngƣời xích lại gần hơn với cuộc sống bộn bề, vất vả. Nó nhƣ nốt trầm
hòa vào bản nhạc trầm bổng để con ngƣời cảm nhận, nghiền ngẫm và thanh
lọc tâm hồn mình. Từ đấy, con ngƣời biết sống, hành động và ƣớc mơ đến
một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Chính vì sự hấp dẫn của truyện cổ tích nói chung và của kiểu truyện
ngƣời con riêng nói riêng, đã tạo hấp dẫn và hứng thú đặc biệt cho chúng tôi
tiếp cận đề tài này.
2. Lịch sử vấn đề
Đặt kiểu truyện ngƣời con riêng trong tƣơng quan với các kiểu truyện
khác, nó đã mang đến cho kho tàng cổ tích Việt Nam một sức hấp dẫn, lôi
cuốn. Chính vì thế trong vài thập kỷ trƣớc đến nay, đã có khá nhiều nhà
nghiên cứu tìm hiểu bình phẩm về kiểu truyện ngƣời con riêng trong các công
trình nghiên cứu của mình.
Trong cuốn Tìm hiểu tiến trình Văn học dân gian Việt Nam của Cao
Huy Đỉnh, xuất bản năm 1976, ở phần phân loại văn học dân gian cổ truyền,
tác giả đã nhận định đƣợc những xung đột trong nội bộ gia đình phụ quyền, lý

2


tƣởng hoá những nhân vật bất hạnh và chỉ ra đề tài và cốt truyện trong thời kỳ
đầu của xã hội có giai cấp xoay quanh: “số phận của những con người mồ côi
(Sọ Dừa), người em út (Cây khế) và người con riêng của chồng (Tấm Cám)
và ước mơ hạnh phúc của họ. Đó là những con người bị gạt ra khỏi gia đình
phụ quyền bị ngược đãi khổ sở, gặp nhiều tai hoạ và chịu nhiều thử thách gay
go, nhưng cũng là những con người hiền lành, đẹp đẽ, tài giỏi, siêng năng,
kiên trì và quả cảm, được nhân dân yêu quý, giúp đỡ, che chở và cuối cùng
được hạnh phúc”. Ở công trình này, tác giả mới chỉ bàn đến số phận ngƣời
con riêng mà chƣa xem xét vấn đề kiểu truyện một cách cụ thể, toàn diện và
thấu đáo.

Năm 1982, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi ở
phần: Đặc điểm truyện cổ tích Việt Nam cuối tập 5 cũng cho rằng: “Đối
tượng mà truyện cổ tích ra sức bênh vực là những nhân vật nghèo khổ, bất
hạnh, những kẻ bị áp bức, bóc lột, những người xấu số là đối tượng của xung
khắc gia đình: con côi, em út, con vợ trước, ngốc nghếch”. Rõ ràng, tác giả
cũng chỉ mới đề cập đến kiểu nhân vật “con vợ trƣớc” (ngƣời con riêng) mà
chƣa xem xét kiểu truyện ngƣời con riêng trong kho tàng văn học dân gian
Việt Nam một cách thấu đáo.
Giáo trình văn học dân gian Việt Nam của tác giả Trần Gia Linh, xuất
bản năm 1991, khi giới thuyết và phân loại truyện cổ tích cũng đã đề cập đến
nguồn gốc ra đời của truyện cổ tích cũng nhƣ kiểu truyện:“Truyện xuất hiện
rất xưa nhưng chủ yếu phát triển ở thời kỳ đã phân chia giai cấp. Chế độ tư
hữu tài sản và gia đình riêng đã tạo nên những xung đột gay gắt đe dọa số
phận con người. Những nhân vật bất hạnh trong xã hội như những người đi
ở, con riêng, em út, mồ côi... đã trở thành những nhân vật được quan tâm
biểu hiện đặc biệt”. Kiểu truyện ngƣời con riêng còn đƣợc thể hiện qua phần
nội dung của truyện, có ví dụ minh hoạ về nội dung và nhân vật song còn
riêng lẻ và chƣa cụ thể: “Nội dung của truyện hướng về những con người
bình thường, bất hạnh để nêu bật số phận bi thảm của những con người thấp
cổ bé họng. Đó là những con người mồ côi, bơ vơ, không nơi nương tựa bị
hất ra lề đường kiểu Thạch Sanh mình trần khố có một manh nơi gốc đa. Đó
là những người con riêng bị đày đọa, chết đi sống lại nhiều lần mà vẫn chưa
3


hết khổ kiểu cô Tấm. Đó là những người em bị tước đoạt mọi quyền lợi như
chàng trai truyện Cây khế ...”
Trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường của tác giả
Nguyễn Xuân Lạc, xuất bản năm 1998, tác giả đã có nhận xét sâu sắc về vai
trò, chức năng của truyện cổ tích, đồng thời cũng có những nhận định khái

quát chung nhất về các kiểu truyện, kiểu nhân vật và motif nghệ thuật. Ớ đây,
khi xác định về kiểu truyện tác giả nêu: “Tập hợp những truyện có cùng chủ
đề và cốt truyện tương tự nhau được gọi là kiểu truyện và lấy ví dụ: “kiểu
truyện Tấm Cám ở Việt Nam gồm có các truyện Tấm Cám của người Việt,
truyện Tuagia - Tuanhi của người Tày tác giả gọi kiểu truyện bằng tên truyện
chứ không phân biệt thành kiểu truyện người con riêng, mà chỉ có những kiểu
nhân vật bất hạnh (người em út, người mồ côi, người con riêng, người xấu xí,
người đi ở...).”
Cùng năm 1998, cuốn Văn học tập 2, giáo trình đào tạo giáo viên Tiểu
học hệ cao đẳng sƣ phạm và sƣ phạm do tác giả Đỗ Bình Trị và Trần Đình Sử
(chủ biên) cũng chỉ ra một vài khía cạnh cơ bản có liên quan đến kiểu truyện
ngƣời con riêng trong mục xung đột trong truyện cổ tích thần kỳ. Theo hai tác
giả: “Nhân vật trung tâm của truyện kể được gọi là “Tự sự xã hội” này (tức
truyện cổ tích) là nhân vật bất hạnh - loại nhân vật xuất hiện lần đầu trong
truyện kể dân gian. Xung đột xã hội trong truyện cổ tích đặc biệt trong truyện
cổ tích thần kỳ, thường diễn ra trong phạm vi nhiều quan hệ gia đình. Ta hiểu
vì sao nhân vật bất hạnh lại luôn luôn là những thành viên lép vế nhất trong
gia đình gia trưởng ngày xưa: người em út, người con riêng. Mỗi một quan
điểm đều có hàm nghĩa riêng nhất định, dù có tính chất điển hình, sơ lƣợc,
khái quát, nhƣng quan điểm của Đỗ Bình Trị và Trần Đình Sử đã cung cấp
cho chúng tôi cách nhìn ban đầu, sơ khai về nhân vật trung tâm của kiểu
truyện ngƣời con riêng.
Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam - Đinh Gia Khánh (chủ biên)
Nxb Giáo Dục năm 2002, tác giả đặt vấn đề nguồn gốc ra đời của truyện cổ
tích thông qua khái quát vấn đề mâu thuẫn trong truyện cổ tích: “Khi chế độ
cộng sản nguyên thuỷ tan rã và xã hội chuyển sang chế độ có giai cấp, thì
công xã thị tộc cũng tan rã và được thay thế bằng gia đình riêng lẻ. Nếu
4



những mâu thuẫn trong xã hội được truyện cổ tích phản ánh qua cuộc đấu
tranh giữa chủ nô và nô lệ, giữa địa chủ và nông dân thì những mâu thuẫn
trong gia đình được truyện cổ tích phản ánh qua cuộc đấu tranh giữa mẹ ghẻ
và con chồng, anh cả và em út, vợ cả và vợ lẽ”. Tuy nhiên, nguồn gốc ra đời
của truyện cổ tích thông qua các mâu thuẫn chƣa đƣợc cụ thể hoá mà mới chỉ
dừng ở mức độ khái quát.
Trong luận án Tiến sĩ Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội, Đƣờng Tiểu
Thi đã đi “so sánh kiểu truyện “Cô lọ lem” của một số dân tộc miền Nam
Trung Quốc với kiểu truyện “Tấm Cám” của Việt Nam.” Ở luận văn này, ta
có cái nhìn sâu sắc hơn về motif, type truyện “Cô lọ lem” ở miền Nam Trung
Quốc và Việt Nam. Bƣớc đầu có sự so sánh đánh giá nhƣng lại chƣa đánh giá
hết kiểu truyện ngƣời con riêng của các dân tộc thiểu số của Việt Nam mà chỉ
dừng lại ở truyện “Tấm Cám”.
Tóm lại, vấn đề kiểu truyện ngƣời con riêng luôn đƣợc các nhà nghiên
cứu quan tâm nhƣng chƣa thực sự đƣợc coi là vấn đề lớn cần giải quyết một
cách cụ thể, chi tiết và triệt để. Mỗi tác giả nghiên cứu kiểu truyện ngƣời con
riêng lại ở mức nông sâu khác nhau. Nhƣng những thành quả này đã giúp cho
chúng tôi có nhiều ý tƣởng khi đi sâu nghiên cứu khóa luận một cách tốt hơn.
“Tiếp cận kiểu truyện người con riêng trong kho tàng cổ tích Việt Nam từ
góc nhìn thi pháp” với mục đích kế thừa, phát triển ý kiến của tác giả đi
trƣớc và cố gắng nghiên cứu một cách cụ thể hơn để tìm ra những nét độc đáo
và hấp dẫn của kiểu truyện ngƣời con riêng này.
3. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ vấn đề kiểu truyện ngƣời con riêng từ góc nhìn thi pháp học
qua việc khảo sát đặc điểm nhân vật, xung đột giữa các thành viên trong gia
đình phụ quyền thời cổ và yếu tố không gian, thời gian nghệ thuật của kiểu
truyện này.
- Thông qua việc nghiên cứu, khảo sát chúng ta sẽ thấy rõ hơn về nhân
vật, xung đột, thế giới nghệ thuật góp phần lý giải sức hấp dẫn riêng của kiểu
truyện ngƣời con riêng so với những kiểu truyện khác trong kho tàng truyện

cổ tích Việt Nam. Ngoài ra, còn nâng cao năng lực nghiên cứu, tập làm khoa
học và phục vụ giảng dạy cho bản thân.

5


4. Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
- Kiểu truyện ngƣời con riêng trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam
với các biểu hiện thi pháp cụ thể.
4.2. Phạm vi
- Nội dung: Khóa luận tập trung khảo sát, nhận diện và đi sâu phân tích các
yếu tố thi pháp nổi bật của kiểu truyện ngƣời con riêng nhƣ thi pháp nhân vật, thi
pháp lựa chọn và miêu tả xung đột, thi pháp không - thời gian nghệ thuật.
- Tƣ liệu: Chúng tôi khảo sát 12 tập truyện cổ tích Việt Nam và tập hợp
đƣợc 25 truyện thuộc kiểu truyện ngƣời con riêng. Đây là cơ sở quan trọng để
chúng tôi có thể nghiên cứu về kiểu truyện này một cách cụ thể và rõ ràng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống
- Phƣơng pháp so sánh
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp
- Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành
6. Đóng góp
Với hƣớng nghiên cứu này kết hợp với nghiên cứu văn bản sẽ mang lại
cái nhìn bao quát, trọn vẹn về văn học dân gian dƣới góc độ thi pháp. Tiếp
cận đƣợc những thay đổi cả về chất lẫn lƣợng của những tác phẩm văn học
dân gian đang sống trong đời sống so với những tác phẩm đã đƣợc in thành
văn bản trên các kệ sách. Với hƣớng tiếp cận này, việc giảng dạy trong nhà
trƣờng, giúp học sinh nắm vững các truyện cổ tích về ngƣời con riêng của các
dân tộc và nhận ra đƣợc mã chung cho truyện về ngƣời con riêng một cách

đầy đủ hơn, củng cố tình cảm và niềm tin của học sinh.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính
của khóa luận gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Thi pháp nhân vật trong kiểu truyện ngƣời con riêng
Chƣơng 2: Thi pháp lựa chọn và miêu tả xung đột trong kiểu truyện
ngƣời con riêng
Chƣơng 3: Thi pháp thời gian, không gian nghệ thuật trong kiểu truyện
ngƣời con riêng.

6


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: THI PHÁP NHÂN VẬT TRONG KIỂU TRUYỆN
NGƢỜI CON RIÊNG
1.1. Hệ thống nhân vật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học do nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) định nghĩa: “Nhân vật văn học là
con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có
thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha) cũng có thể không có tên như
thằng bán tơ, một mụ nào đó trong Truyện Kiều. Trong truyện cổ tích, ngụ
ngôn, đồng thoại, thần được đưa ra để nói chuyện con người. Khái niệm nhân
vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ
thể nào cả, mà chỉ là một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm... Nhân
vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó
với một con người có thật trong đời sống” [7-tr.193].
Trong cuốn Lí luận văn học của Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử lại định
nghĩa nhƣ sau: “Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả,
thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Đó là những nhân vật có

tên như Tấm, Cám, Thạch Sanh, Thúy Kiều... Đó là những nhân vật không có
tên như thằng bán tơ trong truyện Kiều, những kẻ đưa tin, lính hầu, chạy hiệu
thường thấy trong kịch. Đó là những con vật trong truyện cổ tích, đồng thoại,
bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ, những con vật mang nội dung và ý
nghĩa con người...”[16-tr.114]. Khái niệm nhân vật có khi còn đƣợc sử dụng
theo lối ẩn dụ, không chỉ một con ngƣời nào cụ thể mà chỉ một hiện tƣợng nổi
bật trong tác phẩm... Nhân vật văn học là một hiện tƣợng nghệ thuật ƣớc lệ,
có những dấu hiệu, công thức chung để ta nhận biết.
Nhƣ vậy, các nhà nghiên cứu lí luận văn học, bằng cách diễn đạt này
hay khác khi đề cập về nhân vật văn học vẫn gặp gỡ ở điểm không thể thiếu
khái niệm nhân vật văn học. Từ đó, ta có thể nhận thấy rằng tính cách là hạt
nhân tạo nên nhân vật. Trong tác phẩm văn học, có nhân vật đƣợc miêu tả
tính cách nhiều, có nhân vật đƣợc miêu tả tính cách ít nhƣng cũng có nhân vật
không đƣợc khắc họa tính cách mà tiêu biểu là các nhân vật trong các tác
phẩm văn học dân gian đặc biệt là truyện cổ tích thần kì.
7


Nếu nhƣ ở xã hội loài ngƣời có ngƣời thiện - kẻ ác, ngƣời tốt - kẻ xấu
và xã hội thần linh, các nhân vật thần kì trong truyện cổ tích cũng đƣợc chia
thành 3 tuyến nhân vật đó là nhân vật chính (đại diện cho cái thiện), nhân vật
đối thủ (đại diện cho cái ác) và nhân vật trợ thủ (giúp đỡ cho cái thiện). Cuộc
đấu tranh vô cùng ác liệt nhƣng luôn theo quy luật thiện luôn thắng ác.
1.1.1. Nhân vật chính
Nhân vật trong truyện cổ tích thần kì thƣờng phức tạp, đa dạng phong
phú và mang tính hiện thực rõ hơn nhân vật trong thần thoại, truyền thuyết.
Nhân vật chính trong truyện cổ tích thần kì dân gian Việt Nam thƣờng là
những con ngƣời nhỏ bé nhƣng lại có số phận bất hạnh và đóng vai trò quan
trọng xuất hiện từ đầu cho đến cuối tác phẩm. Nhân vật chính theo PGS.
Nguyễn Bích Hà nhận định: “nhân vật chính của truyện cổ tích là con người

trong mối quan hệ xã hội. Lần đầu tiên các nhân vật nhỏ bé tầm thường trở
thành nhân vật trung tâm của văn học dân gian, hơn nữa họ còn là đại diện
cho cái đẹp, cái thiện cái cao cả, thánh thiện theo quan điểm của người dân.
Nhân vật trong truyện cổ tích mang diện mạo của cá nhân là những người
bình thường nhỏ bé chưa có cá tính mà chỉ mang tính đại diện. Họ đại diện
cho một kiểu người, một lối sống phát ngôn cho một quan niệm đạo đức nhân
sinh nhất định. Vì vậy, họ không có tính cách và phát triển tính cách, họ phụ
thuộc vào bất cứ hoàn cảnh nào nhưng những con người ngoài đời sống hoặc
như những nhân vật văn học sau này.”[6-tr.103]. Nhân vật chính trong truyện
cổ tích thần kì là ngƣời con riêng - những con ngƣời khốn khổ, chịu đau khổ
mọi bề. Họ bị ghẻ lạnh, áp bức và ngƣợc đãi vật chất lẫn tinh thần, bị tƣớc
đoạt quyền sống, quyền mƣu cầu hạnh phúc. Ngƣời con riêng ngoan hiền,
chăm chỉ, tốt bụng, vị tha... song luôn bị thiệt thòi và bất hạnh. Sự bất hạnh đó
đƣợc thể hiện ngay trong cách đối xử cả ngƣời dì ghẻ với ngƣời con riêng.
Nếu nhƣ mụ dì ghẻ và con riêng của mụ dƣ thừa, no đủ về vật chất, đƣợc ăn
ngon mặc đẹp, đƣợc nhàn hạ không phải làm việc gì thì ngƣời con riêng lại
đối nghịch hoàn toàn, phải làm việc quần quật suốt ngày, cơm không đủ no áo
lành không đủ mặc, Vua mở hội cũng không đƣợc đi trẩy hội.
Ngƣời con riêng trong “Tấm Cám” (dân tộc Việt), “Con côi dì ghẻ”
(dân tộc Mƣờng), “Ò Ché và Hùm tinh” (dân tộc Nùng), “Tuagia - Tuanhi”
(dân tộc Tày) là minh chứng tiêu biểu. Họ bị đẩy vào cuộc sống éo le không
8


vật chất, không chốn nƣơng tựa, địa vị thấp hèn trong xã hội và bị ức hiếp đến
mức thảm hại. Họ đại diện cho những con ngƣời trong xã hội bị bạc đãi, thấp
cổ bé họng không kêu đến tận mây xanh về lẽ công bằng trong xã hội. Điển
hình trong truyện “Tấm Cám” (dân tộc Việt), cô Tấm - một cô gái xinh đẹp,
hiền dịu, nết na nhƣng lại mồ côi cả cha lẫn mẹ phải ở với dì ghẻ, từ đây cuộc
sống của nàng nhƣ địa ngục giữa trần gian. Cô Tấm bị mụ dì ghẻ hãm hại hết

lần này đến lần khác, chết đi sống lại nhiều lần nhƣng cô vẫn ánh ngời vẻ đẹp
của sự lƣơng thiện, lấy cái thiện để trừng trị cái ác. Cuộc sống nghèo khổ đã
khiến con ngƣời vất vả nhƣng bất hạnh hơn khi mồ côi cha mẹ, phải gồng
mình lên lo toan mọi việc. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, nhân vật ngƣời
con riêng vẫn sáng lên vẻ đẹp nhân cách: hiền lành, thật thà và chân chất.
Ngƣời Việt đã xây dựng thành công ngƣời con riêng là Tấm (Tấm Cám), Văn
Linh (Người dì ghẻ ác nghiệt hay là sự tích con dế). Tấm và Văn Linh đều mồ
côi cha mẹ và luôn bị ngƣời mẹ kế hãm hại, ức hiếp nếu nhƣ Tấm đƣợc Bụt
giúp đỡ khi gặp khó khăn thì nhân vật Văn Linh lại nhận đƣợc sự giúp đỡ của
ngƣời mẹ cùng cha khác mẹ và đƣợc ngƣời mẹ hóa thân thành chim che chở,
chăm sóc. Kết truyện là hình ảnh cô Tấm xinh đẹp hơn xƣa hạnh phúc bên
nhà vua còn Văn Linh hạnh phúc bên vợ hiền và chàng thi đỗ tiến sĩ trở về
làng với niềm vui vỡ òa. Hay trong truyện “Ò Ché và Hùm Tinh” (dân tộc
Nùng), Ò Ché cũng là cô gái “ngoan ngoãn, ôn hòa, vui tính” nhƣng lại bất
hạnh bị mụ dì ghẻ độc ác bắt phải làm việc quần quật suốt ngày đêm vì sự
ghen ghét đố kị. Hay nàng Biooc Rồm xinh đẹp tài năng nhƣng nàng bị dì ghẻ
đầy đọa và còn bị giết chết nhƣng nhờ con chó nên nàng thoát chết, Biooc
Rồm gặp Hoàng tử trong rừng đi săn và hạnh phúc bên nhau. Mâu thuẫn sâu
sắc nhất chúng tôi nhận thấy là mâu thuẫn về vật chất và tinh thần, mâu thuẫn
về sắc đẹp, tài năng và phẩm chất đạo đức. Những cô Tuagia, cô Tấm, Văn
Linh, Ò Ché, Sao Gia... những hình tƣợng tiêu biểu và đặc trƣng của đứa trẻ
mồ côi bị dì ghẻ áp bức, ngƣợc đãi.
Trong 25 truyện chúng tôi tìm hiểu, nhân vật ngƣời con riêng luôn xuất
hiện ở tuyến trung tâm xuyên suốt câu chuyện khắc họa rõ nét mâu thuẫn
xung đột dì ghẻ - con chồng từ đơn giản đến phức tạp. Để làm nổi bật phẩm
chất, tính cách, số phận của ngƣời con riêng tác giả dân gian luôn đặt nhân vật
của mình vào hoàn cảnh là ngƣời không có hạnh phúc của gia đình bình
9



thƣờng luôn bị bạc đãi, áp bức bóc lột sức lao động hơn nữa còn bị giết hại
nhƣng ở ngƣời con riêng vẫn ánh lên những phẩm chất tốt đẹp và đƣợc hƣởng
hạnh phúc bên những ngƣời mà họ yêu thƣơng. Những truyện cổ tích về
ngƣời con riêng đã đề cập đến vấn đề quan trọng và gây nhức nhối của gia
đình phụ quyền. Trong xã hội cũ, trong gia đình cũ, ngƣời con riêng là một
trong những kẻ đau khổ bất hạnh nhất. Nhân dân lao động đã lí tƣởng hóa
nhân vật của mình và ngầm truyền tải thông điệp, một sứ mệnh đặc biệt dành
cho những đứa trẻ mồ côi đó là lẽ công bằng, khát vọng, ƣớc mơ của con
ngƣời khi thời kì cộng đồng bộ tộc đã qua, mƣợn nhân vật ngƣời con riêng để
thể hiện quan niệm “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”.
1.1.2. Nhân vật đối thủ
Nếu nhƣ nhân vật chính là ngƣời lƣơng thiện, xinh đẹp và tài năng thì
nhân vật đối thủ là những kẻ chuyên đi gây hấn, gieo rắc những bất hạnh cho
ngƣời khác. Nói cách khác, đây là những con ngƣời ức hiếp bạc đãi ngƣời con
riêng trong truyện cổ tích thần kì: mụ dì ghẻ, cha dƣợng. Dân gian có câu:
“Bao giờ bánh đúc có xƣơng/ Mấy đời dì ghẻ lại thƣơng con chồng”. Ngƣợc
dòng lịch sử, chúng tôi đi nghiên cứu truyện cổ tích thần kì của Việt Nam
không có loại nhân vật đối thủ là phù thủy nhƣ truyện cổ tích của nhiều quốc
gia trên thế giới. Nhân vật đối thủ là ngƣời đặc biệt là ngƣời có tính cách độc
ác, ức hiếp ngƣời khác. Khi công xã nguyên thủy tan rã, xã hội có sự phân
chia giai cấp giàu nghèo sâu sắc, con ngƣời đối xử với nhau cũng hoàn toàn
khác. Họ tranh giành ganh ghét nhau nhằm thu lợi ích về mình. Và một gia
đình phụ quyền trong xã hội phân chia giai cấp nhƣ vậy cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Bà cả mất, bà hai - mụ dì ghẻ tác oai tác quái hành hạ đánh
đập con riêng, hay cha đẻ mất cha dƣợng thay thế chăm sóc con riêng nhƣng
đây chỉ là hình thức trá hình bên ngoài mà thực chất bên trong là cả một thế
giới của sự ngƣợc đãi, ngƣời con riêng bị hành hạ bóc lột áp bức để phục vụ
cho nhu cầu của cha dƣợng, dì ghẻ. Dƣới quan điểm của dân gian, những
ngƣời mẹ ghẻ thƣờng đối xử bất công với con chồng còn bao điều tốt đẹp thì
dành hết cho con đẻ của mình. Dì ghẻ là ngƣời có quyền lực trong gia đình

hơn nữa lại tham lam, độc ác, danh mãnh đứng trƣớc ngƣời con riêng nghèo
khổ bất hạnh thì mụ dì ghẻ càng căm phẫn, dã tâm làm hại bằng đƣợc cho hả
dạ mƣu đồ của mình.
10


Trong truyện “Sao Gia Sao Nhi” (dân tộc Tày) cha Sao Gia là ngƣời
lấy gáo nƣớc đánh vào gáy vợ để rồi Sao Gia phải mồ côi. Sao Gia nhỏ ngƣời
gầy yếu, dì ghẻ luôn “hay kiếm cớ đánh đập Sao Gia, mong muốn Sao Gia
ngày càng gầy yếu thêm và chết non”. Hay trong truyện “Sự tích chim đa đa”
(dân tộc Hà Nhì) là mối mâu thuẫn giữa bố ghẻ với con riêng của vợ. Bố ghẻ
tìm mọi cách giết hại con riêng của vợ hết lần này đến lần khác cuối cùng
ngƣời con riêng chết hóa thành chim đa đa. Rồi “Sự tích Chim quốc” (dân tộc
Kinh) thì lại là mối quan hệ mâu thuẫn giữa ngƣời mẹ với con chung, con
chồng. Mẹ ghẻ coi con chồng nhƣ kẻ thù nên tìm cách làm cho chết đi nhƣng
không ngờ lại hại chính đứa con đẻ của mình chết, hóa thành chim đỗ quyên
kêu “Khổ quá, khổ quá! Mẹ đồ chín vừng làm hại con”. Kết cục của truyện là
ngƣời con riêng hay chính con đẻ của mình bị chết biến thành chim. Ngƣời bố
dƣợng hoặc mẹ ghẻ hại con riêng của vợ hoặc của chồng đều phải chết mất
xác. Truyện về hai ngƣời con trai Cốc và Nhì, sự độc ác của mụ dì ghẻ đƣợc
thể hiện ở chỗ bắt Cốc (anh cả) con vợ cả làm việc suốt ngày đêm không cho
ăn uống do vậy mà Cốc thành thạo mọi công việc, chịu khó. Nhì - con mụ
chiều chuộng sinh ra lƣời nhác chẳng biết làm việc gì cả. Truyện “Ngƣời dì
ghẻ ác nghiệt hay sự tích con dế” (dân tộc Kinh) lấy bản chất độc ác của mụ
dì ghẻ làm nhan đề cho câu chuyện góp thêm tiếng nói phê phán tố cáo tội ác
của hạng ngƣời độc ác trong xã hội một cách gay gắt, quyết liệt. Văn Linh là
đứa con của vợ cả nhƣng dì ghẻ coi anh nhƣ kẻ thù ngày ngày chỉ mong Văn
Linh chết đi để chiếm lấy hết tài sản nhƣng kết cục không những không hại
đƣợc con riêng mà chính mụ ta lại tự đƣa mình đến cái chết.
Qua 25 truyện chúng tôi khảo sát, chúng tôi thấy rằng nhân vật đối thủ

chủ yếu là mụ dì ghẻ chiếm 96% , cha dƣợng, bố ghẻ chỉ chiếm 4% bởi xã hội
có sự phân chia giai cấp mà gia đình chủ yếu thời phong kiến bấy giờ là gia
đình phụ quyền nên mâu thuẫn sâu sắc nhất vẫn xoay quanh mối quan hệ giữa
dì ghẻ và con chồng, còn quan hệ giữa cha dƣợng và con riêng thì ít đƣợc đề
cập hơn trong truyện.
1.1.3. Nhân vật trợ thủ
So sánh với xung đột trong truyện cổ tích sinh hoạt và truyện cổ tích về
loài vật thì xung đột trong truyện cổ tích thần kì luôn đƣợc giải quyết nhờ sự
phù trợ, giúp đỡ của các lực lƣợng thần kì. “Giáo trình văn học dân gian Việt
11


Nam” của PGS. TS. Nguyễn Bích Hà có viết “lực lƣợng kì ảo” (thần kì) hay
còn gọi là yếu tố kì ảo (thần kì) là “kết quả của những hư cấu dưới ánh sáng
của trí tưởng tượng kì ảo và bay bổng của nhân dân. Trong truyện cổ tích, lực
lượng kì ảo bao gồm một số loại: nhân vật kì ảo, đồ vật hoặc vật thể kì ảo,
động thực vật kì ảo những biến hóa kì ảo”. Nhân vật trợ giúp thần kì và yếu
tố thần kì là loại nhân vật không thể thiếu trong truyện cổ tích thần kì. Sự xuất
hiện của nhân vật trợ thủ thỏa mãn nhu cầu tâm lý của con ngƣời thời xƣa.
Nhân vật trợ thủ xuất hiện chịu ảnh hƣởng tác động của tôn giáo, tín ngƣỡng
nơi mà các bản truyện kể tồn tại và truyền miệng từ đời này qua đời khác.
Trong truyện cổ tích “Tấm Cám” (dân tộc Việt) nhân vật trợ thủ quen thuộc là
ông Bụt hiền từ đức độ, mỗi khi Tấm khóc là Bụt lại hiện lên giúp đỡ. Do vậy
mà Tấm vƣợt qua khó khăn, thử thách mà mụ dì ghẻ dành riêng cho Tấm.
Truyện về ngƣời con riêng ở các dân tộc thiểu số, nhân vật trợ thủ thƣờng
xuất hiện với các dạng thức đặc biệt. Dạng một là ngƣời mẹ đã chết hiện về
và các hình thức hóa thân khác nhau của ngƣời mẹ (10/25 truyện: 40%), dạng
hai: nhân vật trợ thủ là loài vật cụ thể là trâu, hổ, con quạ, con cá chép... (4/25
truyện: 16%), dạng ba nhân vật trợ thủ là Bụt, bà Tiên, Trời, Sét chiếm số
lƣợng ít (2/25 truyện: 8%), còn lại 36% không xuất hiện nhân vật trợ thủ.

Chúng ta thấy dạng thức nhân vật trợ thủ ở dạng một liên quan đến ngƣời mẹ
đã chết chiếm tỉ lệ lớn nhất. Đó là ngƣời mẹ hiện về trong những hình dáng
một bà lão, ngƣời đàn bà hoặc hóa thân vào một số loài vật nhƣ hổ, trâu.
Trong truyện “Sao Gia Sao Nhi” (dân tộc Tày), Sao Gia đƣợc sự giúp đỡ của
mẹ, mẹ của Sao Gia hóa thân thành bà cụ có vết sẹo trên đầu “rẽ nước dẫn
con gái về Thủy phủ, bà cho con gái ăn đủ các thứ của ngon vật lạ” để có
thêm sức sống rồi giúp Sao Gia có quần áo đẹp và đôi hài cƣờm đến gặp
Hoàng tử. Với đặc điểm này, ta có thể lí giải từ phƣơng diện xã hội học. Sự
hình thành gia đình phụ quyền, ngƣời đàn ông có thể lấy nhiều vợ, lấy vợ lẽ
khi vợ cả mất. Vị trí vợ cả bị hạ thấp, đứa con của ngƣời vợ cả cũng bị rẻ rúng
khinh miệt, phải sống chung với dì ghẻ, chịu đựng sự ghẻ lạnh và sự ganh tị
của những chị, em cùng cha khác mẹ. Bởi vậy, các tác giả dân gian muốn thể
hiện sự thƣơng xót, cảm thƣơng và khẳng định sức sống mãnh liệt, tinh thần
đấu tranh của những ngƣời mẹ, ngƣời vợ bất hạnh bằng cách để nhân vật trợ

12


thủ ngƣời mẹ trở lại trực tiếp hoặc gián tiếp trợ giúp đứa con côi của mình.
Đó là tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên, ông bà cha mẹ chết đi sẽ trở nên linh thiêng
và thƣờng tìm cách phù trợ cho con cháu.
Trong các loài vật mà ngƣời mẹ hóa thân cũng đáng chú ý nhất là hình
ảnh con hổ và con trâu. Trong truyện “Ò Ché và Hùm Tinh” (dân tộc Nùng)
thấy con mình phải làm việc cả ngày lẫn đêm “ ngày đêm Ò Ché một mình ra
lều trên nương trông nom của cải, ban ngày em vừa thả đàn bò, đàn dê đi ăn
cỏ vừa chăn gà, vừa phải xua đuổi lợn rừng hươu, nai đến phá lúa” mẹ Ò
Ché chết hóa thành Hùm Tinh để chăm sóc cho con mình. Hàng ngày mang
thịt lợn, hƣơu hai mẹ con cùng ăn. Ò Ché đƣợc mẹ giúp đỡ không phải vất vả
nhƣ những năm xƣa nữa: đƣợc mẹ giúp trồng bông, kéo sợi, dệt vải. Ò Ché đã
có nhiều quần áo lành lặn. Truyện “Ú và Cao” (dân tộc Hơ rê), ngƣời mẹ chết

đi rồi lại quay trở về giúp đỡ đứa con mặc dù không đƣợc kể rõ về hình dạng
nhƣng ta có thể thấy rằng đó là những thuộc tính của loài cá. Rồi truyện
“Nàng Nảo và Sì Năng” (dân tộc H’mông) mẹ biến thành trâu để nàng Nảo có
gạo ăn và có quần áo đẹp đi chơi xuân. Truyện “Gầu Nà” (dân tộc H’mông)
con bò là sự hóa thân của ngƣời mẹ luôn theo sát bên con.
Sự lặp đi lặp lại hình ảnh con hổ với loài vật gần gũi khác là con trâu và
con bò hay con chó trong truyện “Nàng Biooc Rồm” (dân tộc Tày) phản ánh
dấu ấn cuộc sống nông nghiệp gắn liền với đồi núi, ruộng nƣơng. Bên cạnh
đó, tín ngƣỡng thờ cúng những con vật linh thiêng nhằm phù trợ ngƣời tốt,
trừng phạt kẻ ác.
Nhƣ vậy, chúng ta có thể kết luận rằng, nhân vật trợ thủ là thứ ngôn
ngữ không lời mang đậm dấu ấn văn hóa của mỗi dân tộc. Nhân vật trợ thủ là
một yếu tố không thể thiếu trong truyện cổ tích thần kì nhƣ một thứ gia vị
thêm phần hấp dẫn, li kì và đó cũng là một phao cứu trợ kịp thời cho ngƣời
con riêng khi bị mụ dì ghẻ đày đọa, áp bức. Truyện cổ tích có thể li kì hay
huyền ảo có thể thơ mộng và đầy hấp dẫn đối với ngƣời nghe, có thể phản ánh
sinh động khát vọng, ƣớc mơ của con ngƣời là nhờ vào nhân vật trợ thủ. Nhân
vật trợ thủ là cánh tay đắc lực cho nhân vật chính thể hiện lẽ công bằng trong
xã hội phong kiến lúc bấy giờ: cái thiện luôn chiến thắng cái ác, cái ác sẽ bị
trừng trị thích đáng.

13


1.2. Đặc điểm nhân vật
Theo một số nhà nghiên cứu, nhân vật ở truyện cổ tích thần kỳ hầu nhƣ
không hề có sự thay đổi, phát triển tính cách. Nhân vật xuất hiện trong truyện
cổ tích từ đầu với tính cách nhƣ thế nào thì nó sẽ giữ nguyên đến cuối truyện
với tích cách nhƣ thế. Nhân vật trong cổ tích thần kì đƣợc tác giả dân gian xây
dựng mang tính chất nguyên phiến, không thay đổi một cách đột ngột về tính

cách, không có nhiều diễn biến tâm trạng hay độc thoại nội tâm nhƣ trong
truyện hiện đại, kịch, thơ nhƣ ngày nay.
Ngƣời con riêng thƣờng đƣợc tác giả khắc họa không rõ tính cách: tất
cả những nhân vật mồ côi đều có phẩm chất giống nhau, tính cách hao hao
giống nhau chỉ khác nhau ở tình huống, hành động nhân vật: Tấm là cô gái
hiền lành, xinh đẹp chịu thương chịu khó, Ò Ché hiền lành ngoan ngoãn, ôn
hòa, vui tính, Sao Gia xinh gái, hiền lành, ngoan ngoãn, Sằn Nhì càng lớn
càng đẹp trai khỏe mạnh, Vùi hiền dịu, duyên dáng. Nhân vật ác cũng tuân
theo motif, khuôn mẫu đã định sẵn: ức hiếp, ngƣợc đãi con riêng, cƣng chiều
con ruột hành hạ tƣớc đoạt mọi quyền lợi của con riêng để dành cho con đẻ.
Thậm chí, mụ dì ghẻ còn giết hại con riêng để con của mình đƣợc lên làm
hoàng hậu (Tấm Cám). Luật nhân quả luôn có trong cuộc sống, cuối cùng thì
con đẻ chết mụ dì ghẻ cũng phải chịu hậu quả chết mất xác hay phải cung
phụng con riêng cả đời (Người dì ghẻ độc ác). Kết thúc truyện số phận của
các nhân vật thần kì cũng có sự gặp gỡ: ngƣời tốt bụng hiền lành đƣợc hƣởng
giàu sang phú quý, hạnh phúc, đƣợc làm hoàng hậu, làm vua làm quan và lấy
đƣợc chồng tốt, vợ đẹp; kẻ xấu, độc ác bị trừng trị mất hết tài sản, cung phụng
ngƣời con riêng hoặc là chết.
Ngƣời con riêng trong truyện cổ tích thần kì là nhân vật giới thiệu, trình
bày cho một đặc điểm tính cách, một nét tính cách của phe thiện hoặc phe ác
mà phe thiện là những cô gái chàng trai có hoàn cảnh bất hạnh, số phận bất
hạnh về sau đƣợc hƣởng hạnh phúc còn phe ác đại diện là mụ dì ghẻ, cha
dƣợng với nét tính cách độc ác, tàn nhẫn, ngƣợc đãi con riêng.
Nhân vật chính không đƣợc tác giả quan tâm đến việc miêu tả ngoại
hình và tâm trạng nhân vật. Chúng tôi khảo sát 25 truyện hầu nhƣ không có
câu văn nào viết về ngoại hình, nƣớc da, dáng ngƣời hay đôi bàn chân, mà chỉ
chú ý đến miêu tả hành động nhân vật. Bởi thị hiếu của ngƣời nghe chỉ hứng
14



thú đến hành động của các nhân vật ra sao, kết quả nhƣ nào: ngƣời tốt, ngƣời
lƣơng thiện thì đƣợc đền đáp, còn kẻ xấu thì bị trừng trị. Nhân vật chính là
nhân vật chức năng, nhân vật thuyết minh trình bày đạo đức chứ không phải
là nhân vật cá nhân, nhân vật cá tính nhƣ trong truyện hiện đại ngày nay.
Chính vì đặc điểm này mà V.Ia Prôp đã kết luận rằng: “Cổ tích vấn đề quan
trọng không phải hành động do ai thực hiện mà nó được thực hiện như thế
nào?”. Ngƣời con riêng trong truyện “Sao Gia Sao Nhi” (dân tộc H’mông),
“Ò Ché và Hùm Tinh” (dân tộc Nùng), “Ngƣời dì ghẻ độc ác” (dân tộc Dao)
về chức năng và tính cách không khác gì nhau, họ đều hiền lành ngoan ngoãn
và không tham lam, không đố kị. Rồi “Tấm Cám” (dân tộc Việt) Tấm khổ đau
khi bị Cám cƣớp mất giổ tép, yếm đỏ... mỗi lần nhƣ thế chỉ thấy Tấm khóc.
Tác giả dân gian không hề miêu tả những tủi nhục, khổ đau trong tâm hồn
nàng. Vậy nét tính cách hay chức năng thuyết minh của loại nhân vật này là
không tham lam, không đố kị để đối lập với loại nhân vật mụ dì ghẻ tham lam
đố kị và xấu xa. Có thể thấy rằng, nhân vật thần kì là nhân vật chức năng,
Nguyễn Xuân Đức cho rằng nhân vật trƣớc hết hành động theo mạch cốt
truyện còn V.Ia Prôp trong “Folklore và hiện tại” lại nhận định rằng: “Trong
truyện cổ tích thần kì, nhân vật tự mình không có sức mạnh, nhưng khi nhân
vật không biết đường đi, anh ra bỗng gặp một bà già hay một mụ phù thủy (cổ
tích thần kì Việt Nam là tiên, bụt, hay các loài động vật) sẽ chỉ cho anh ta cần
đi đâu và giúp đỡ anh ta”. Hành động của nhân vật sẽ thể hiện nhân cách cái
mà đƣợc quy định sẵn từ cốt truyện: Tấm ngờ nghệch tin vào lời mụ dì ghẻ,
Sao Gia tin vào lời của bà vợ lẽ, Ò Ché cũng vậy. Sau hành động đó là hành vi
có chức năng mang bản sắc riêng của nhân vật: tốt vẫn tốt, xấu thì vẫn hoàn
xấu. Nhƣ vậy, nhân vật làm việc gì hành vi ra sao không phải là sự thôi thúc
của tính cách của chính bản thân mà bị chi phối bởi cốt truyện có chức năng,
bởi ý đồ của tác giả dân gian là xây dựng mẫu ngƣời nhất định với nét tính cách
chức năng nổi trội nhƣ Tấm hiền lành nết na, Nọng nghĩa tình, hiếu thảo, mụ dì
ghẻ ác độc, Cám mƣu mô, Ò Sáy tham lam muốn xinh hơn Ò Ché...
Nhân vật đối thủ cũng là nhân vật chức năng đại diện cho cái xấu cái ác

trong xã hội. Tác giả khi khắc họa kiểu nhân vật này thƣờng trang bị cho họ
những đức tính xấu nhất: cay nghiệt, độc ác, ác nghiệt... Khảo sát 25 truyện
cổ tích về ngƣời con riêng thì có 2/25 truyện (chiếm 8%) có nhan đề đã nói
15


lên bản tính của mụ dì ghẻ. Nhân vật chính càng hiền lành tốt bụng bao nhiêu
thì mụ dì ghẻ càng độc ác, nham hiểm bấy nhiêu. Có lẽ, tác giả dân gian ngụ ý
xây dựng hai tuyến nhân vật nhƣ vậy để làm rõ xung đột trong gia đình phụ
quyền thời cổ. Ở đó, ngƣời con riêng bị chà đạp, mụ dì ghẻ thẳng tay đàn áp
và giết hại. Trong số 25 truyện cổ tích duy nhất có một truyện, ngƣời dì ghẻ
hiền lành đại diện cho lòng vị tha, đức hi sinh của ngƣời phụ nữa dành cho
con mà ở đó không phải là con mình mà là con riêng “Ngƣời mẹ kế và hai con
trai” (dân tộc Kinh) còn lại 24 truyện (chiếm 92%) mụ dì ghẻ đại diện tiêu
biểu cho cái xấu xa, độc ác nhất trong xã hội. Mụ dì ghẻ ghen tức nhan sắc
với ngƣời con riêng có thể thấy trong 10 truyện (chiếm 40%) nhƣ: “Tấm
Cám” (dân tộc Kinh), “Sằn Nhì” (dân tộc Dao), “Ò Ché và Hùm Tinh” (dân
tộc Nùng), “Tuagia Tuanhi” (dân tộc Tày), “Hai chị em Vùi và Lu” (dân tộc
Lô Lô),... ghen tức về địa vị (chị trở thành hoàng hậu, vợ của vua....anh đƣợc
truyền ngôi, làm quan) gồm 12 truyện (chiếm 48%) nhƣ: “Sao Gia Sao Nhi”
(dân tộc Tày), “Gầu Nà” (dân tộc H’mông), “Tấm Cám” (dân tộc Kinh),
“Nàng Nảo và Sì Năng” (dân tộc H’mông)... ghen tức về tài sản, của cải gồm
4 truyện (chiếm 16%) nhƣ: “Tua Pèng Tua Sẻn” (dân tộc Nùng), “Nàng
Màng Ji” (dân tộc H’mông), “Noọng và Eng” (dân tộc Tày), “Mẹ kế con
chồng” (dân tộc Tày Nùng)...
Cuối cùng, là nhân vật trợ thủ đây là kiểu nhân vật không đƣợc tác giả
dân gian khắc họa về tính cách, ngoại hình hay lời nói mà chủ yếu đƣợc thể
hiện qua hành động. Theo Nguyễn Xuân Đức trong cuốn “Thi pháp truyện cổ
tích thần kì ngƣời Việt” nhận định rằng: “Nhân vật trung gian không bao giờ
giữ vai trò chính hoặc vai trò trung tâm trong truyện, nó chỉ là nhân vật phụ

có tác dụng phân tuyến các nhân vật trung tâm”[4-tr.42]. Nhân vật trợ thủ
thƣờng đại diện cho lẽ công bằng, cái lƣơng thiện, cái tốt trong xã hội. Nhân
vật trợ thủ là nhân vật luôn giúp đỡ nhân vật chính, mỗi lần nhân vật chính
gặp khó khăn đều có sự ra tay giúp đỡ của nhân vật trợ thủ. Tấm khóc vì mất
giổ tép, không đƣợc đi dự hội là lại một lần Bụt hiện lên, Sao Gia khổ quá mẹ
biến thành bà cụ có vết sẹo về giúp đỡ con và xoa dịu nỗi đau thiếu thốn tình
mẹ, Ò Ché đƣợc Hùm Tinh giúp trông ngô, ngày nào cũng đƣợc ăn thịt và có
quần áo đẹp đi chơi hội... Nhân vật trợ thủ là nhân vật thực thi cái lẽ công

16


bằng không còn trên sách vở nữa mà đƣợc thực hiện bằng hành động. Họ là
những ngƣời tốt, yêu sự công bằng, ƣớc mơ của nhân vật chính.
1.3. Phƣơng thức xây dựng nhân vật
Nhân vật có đặc biệt thì câu chuyện mới hấp dẫn, kích thích trí tò mò
của ngƣời nghe. Để nhân vật độc đáo nhƣ vậy là sự góp mặt của các yếu tố
trong đó yếu tố quan trọng nhất là phƣơng thức xây dựng nhân vật. Nhân vật
thần kì cũng nhƣ những nhân vật trong truyện hiện đại ngày nay đều đƣợc xây
dựng với những phƣơng thức nghệ thuật khác nhau. Ở truyện cổ tích thần kì,
nhân vật chủ yếu đƣợc khắc họa dựa trên những phƣơng diện: xung đột, hành
động, chi tiết nghệ thuật.
Có thể thấy, trong kiểu truyện ngƣời con riêng, xung đột nổi cộm nhất
là xung đột gia đình, đó là xung đột giữa dì ghẻ - con chồng, cha dƣợng - con
riêng. Đây đƣợc coi là một phƣơng thức xây dựng nhân vật quen thuộc của
tác giả dân gian khi hình thành 2 tuyến nhân vật thiện - ác. Qua đó tác giả dân
gian ngầm đƣa ra quan niệm về cải tạo thực tế cuộc sống của con ngƣời sống
công bằng, không tham lam, đố kị.
Bên cạnh đó, nhân vật cổ tích thần kì chủ yếu đƣợc xây dựng dựa trên
hành động nhƣng chƣa có ý thức nội tâm hoặc nội tâm chƣa phát triển, không

thống nhất. Tâm lí nhân vật cổ tích thƣờng đơn giản do vậy hành động gây
hấn hay trả thù thực hiện cũng chóng vánh và dễ dàng có thể đoán đƣợc. Tấm
dễ dàng cho mẹ con Cám chặt cây cau, Sằn Nhì dễ dàng bị mụ dì ghẻ lừa leo
lên cây đào sau nhà hái quả để cúng mẹ, Ò Ché không dám cãi lời mụ dì ghẻ
một mình ra lều trên nƣơng trông nom của cải, Vùi vâng lời mẹ trèo lên cây
hái quả... nhƣng khi bị áp bức ngƣợc đãi nhân vật ngƣời con riêng vẫn nhẫn
nhịn cam chịu làm việc chỉ khi đến đỉnh điểm ngƣời con riêng mới vùng lên
từ thế bị động chuyển sang thế chủ động đòi lại lẽ công bằng. Cám bị Tấm dội
nƣớc sôi, mụ dì ghẻ ăn mắm của con rồi cũng chết (Tấm Cám).
Thông thƣờng, khi miêu tả hành động của nhân vật, tác giả dân gian
thƣờng kết hợp với những biểu hiện của nội tâm. Tác giả dân gian đƣa ra một
mã chung cho hành động của 2 tuyến nhân vật: thiện và ác. Đằng sau hành
động đó là một động cơ đƣợc tác giả ấn định riêng cho từng nhân vật. Ngƣời
tốt làm tròn bổn phận, trách nhiệm lời hứa của mình: Tấm, Ò Ché, Sằn Nhì,
Sao Gia, Tuagia là những ngƣời con riêng mang sứ mệnh cải tạo xã hội.
17


Trong gia đình phụ quyền, mụ dì ghẻ có độc ác đến mấy thì ngƣời con riêng
cũng phải đƣợc hƣởng hạnh phúc, đối xử công bằng. Còn kẻ ác là kẻ phá hoại
lẽ công bằng, kẻ cƣớp công cƣớp địa vị của ngƣời khác bằng bất cứ thủ đoạn
nào. Do vậy, đặc thù hành động của nhân vật trong truyện cổ tích thần kì về
ngƣời con riêng sẽ xoay quanh 2 vấn đề chính đó là ban thƣởng và trừng phạt.
Chƣa xong việc ban thƣởng và trừng phạt thì hành động của 2 truyến nhân vật
chƣa kết thúc. Đặc biệt là sự biến hóa, vòng đời của nhân vật chính: ngƣời
con riêng. Ngƣời con riêng mỗi lần thay đổi hình dạng của mình là một lần
nữa bị bàn tay độc ác của mụ dì ghẻ hãm hại. Dƣới đây, chúng tôi phác sơ đồ
biến hóa của con riêng:
- Truyện “Sao Gia Sao Nhi”:
Sao Gia trèo lên cây trám

màn

bị đốt

bị giết

quả trứng

chim yểng

bị giết

cây trúc

bị chặt

sào

Sao Gia.

-Truyện “Mùi Mụi Mùi Nái”:
Mùi Mụi trèo cây
trứng

bị giết

con chim

bị thịt


khóm tre

chặt

giƣờng

bị đốt

quả

Mùi Mụi.

-Truyện “Ú và Cao”:
Ú trèo cau

bị giết

thành chim

bị thịt

cây cà

bị ăn

cây cam

Ú.

Chỉ điểm qua một số truyện tiêu biểu trong kiểu truyện cổ tích về

ngƣời con riêng chúng tôi nhận thấy rằng: sự biến hóa của nhân vật chính đa
dạng, phong phú song cuối cùng họ vẫn trở về với hình dạng cũ là cô gái
xinh đẹp, hiền lành, tốt bụng và có thêm phần rắn rỏi, mạnh mẽ và vững bền
hơn. Chi tiết kì ảo đóng góp không nhỏ vào sự biến hóa của nhân vật. Sự
biến hóa theo vòng tuần hoàn nhƣ vậy chúng ta có thể lí giải dựa trên triết lí
của nhà Phật con ngƣời hồi sinh hết kiếp này đến kiếp khác. Chi tiết kì ảo
dƣới góc nhìn thi pháp học là ƣớc mơ,khát vọng, ủng hộ cái tốt, đồng cảm
với con ngƣời có số phận bất hạnh trong gia đình phụ quyền thời cổ. Chi tiết
kì ảo làm tăng thêm vẻ đẹp sức mạnh của nhân vật thiện, nhân vật thiện đẹp
khi vƣợt qua cái ác, cái xấu xa. Chi tiết kì ảo rất quan trọng trong truyện cổ
tích về ngƣời con riêng.

18


Tiểu kết chƣơng 1
Nhƣ vậy, khi đi tìm hiểu về nhân vật trong truyện cổ tích và ngƣời con
riêng chúng tôi nhận thấy rằng: truyện cổ tích về ngƣời riêng đƣợc tác giả xây
dựng với hai truyến nhân vật đối lập: nhân vật chính và nhân vật đối thủ.
Ngoài ra, còn có thêm tuyến nhân vật trung gian, hỗ trợ cho nhân vật chính là
nhân vật trợ thủ. Với phƣơng thức xây dựng chủ yếu dựa trên phƣơng diện:
xung đột, hành động, và chi tiết nghệ thuật làm cho nhân vật hiện lên một
cách chân thực, rõ nét và không bị pha lẫn. Nhân vật chính - ngƣời con riêng
luôn phải chịu cảnh đàn áp, hành hạ của dì ghẻ những vẫn ánh ngời lên vẻ đẹp
dịu dàng, nết na hay lam hay làm... dù chịu số phận bất hạnh của đứa trẻ mồ
côi, dù dì ghẻ không yêu thƣơng, trân trọng nhƣng đến cuối truyện ngƣời con
riêng vẫn đƣợc hƣởng hạnh phúc bên ngƣời mà họ yêu thƣơng còn mụ dì ghẻ
đại diện cho ác gian ác, xấu xa thì phải trả giá bị trừng phạt thích đáng bị chết,
bị giết hay tự vẫn... Nhân vật phù trợ là ngƣời chuyên trở ƣớc mơ của nhân
dân về ƣớc mơ, lẽ công bằng trong xã hội còn nhiều bất công. Họ là cánh tay

đắc lực của nhân vật chính, không có họ thì nhân vật chính rơi vào thế bị
động bế tắc và không đƣợc hƣởng hạnh phúc hay giàu sang. Nhân vật trong
truyện cổ tích thần kì không quá nhiều cũng không quá ít nhƣng đủ cho chúng
tôi nhận ra đƣợc xung đột chủ yếu là xung đột giữa những ngƣời trong gia
đình phụ quyền thời cổ.

19


×