TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
---------***--------
NGUYỄN MỸ LINH
KĨ THUẬT ĐỌC TRONG DẠY HỌC
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn
HÀ NỘI - 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
---------***--------
NGUYỄN MỸ LINH
KĨ THUẬT ĐỌC TRONG DẠY HỌC
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. BÙI MINH ĐỨC
HÀ NỘI - 2019
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS.Bùi Minh Đức, người đã
hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới các thầy, cô trong
khoa Ngữ văn, Bộ môn Phương pháp dạy học Ngữ văn, trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thành khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2018
Tác giả khóa luận
Nguyễn Mỹ Linh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: khóa luận tốt nghiệp Đại học với đề tài: “Kĩ thuật đọc
trong dạy học đọc hiểu văn bản truyện ở trường THPT” là công trình nghiên cứu
của cá nhân tôi. Các số liệu trong khóa luận là trung thực.
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2018
Tác giả khóa luận
Nguyễn Mỹ Linh
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
S V Từ,
T i cụm
1
G
iá
2
H
ọ
3 SS
Gá
4 K
SS
Gá
5 TT
Hr
6 P
TT
Hr
7 V
í
8 V
ă
9 NN
Xh
1B B
0G ộ
1 N
1 ă
MỤC LỤC
MỤC LỤC………………………………………………………………...…….1
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 3
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 3
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.............................................................................. 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................. 8
3.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 8
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................. 8
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 8
5.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp lí thuyết ................................................. 8
5.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm............................................................ 8
6. Cấu trúc của luận văn..................................................................................... 8
Chương 1. ĐỌC VÀ CÁC KĨ THUẬT ĐỌC VĂN BẢN .............................. 10
1.1. Đọc ............................................................................................................... 10
1.1.1. Các quan niệm về “đọc” .......................................................................... 10
1.1.2. Tiểu kết về khái niệm “đọc” .................................................................... 13
1.2. Các kĩ thuật “đọc”...................................................................................... 13
1.2.1. Khái niệm kĩ thuật đọc ............................................................................. 13
1.2.2. Một số kĩ thuật đọc ................................................................................... 14
1.2.2.1. Đọc lướt.................................................................................................. 14
1.2.2.2. Đọc sâu................................................................................................... 15
1.2.2.3. Đọc điểm ................................................................................................ 17
1.2.2.4. Một số kĩ thuật đọc khác ........................................................................ 17
Chương 2. VẬN DỤNG MỘT SỐ KĨ THUẬT ĐỌC TRONG..................... 19
DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN................................................ 19
2.1. Dạy học đọc hiểu......................................................................................... 19
1
2.1.1. Đọc hiểu .................................................................................................... 19
2.1.2. Dạy học đọc hiểu ...................................................................................... 20
2.1.3. Dạy học đọc hiểu văn học trong nhà trường .......................................... 22
2.1.4. Các bước dạy học đọc hiểu văn bản văn học.......................................... 27
2.2. Vận dụng một số kĩ thuật đọc vào quá trình dạy đọc hiểu văn bản
truyện.. 30
2.2.1. Đọc “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”- Ngữ văn 10 ..................... 31
2.2.2. Đọc Chí Phèo - Ngữ văn 11 ..................................................................... 32
2.2.3. Đọc Chiếc thuyền ngoài xa – Ngữ Văn 12.............................................. 33
Chương 3. THIẾT KẾ THỰC NGHIỆM ....................................................... 36
3.1. Mục đích thiết kế ........................................................................................ 36
3.2. Bài học thiết kế ........................................................................................... 36
3.3. Nội dung thiết kế ........................................................................................ 36
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nghị quyết số 29- NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8
khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: “Phát
triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lí luận
gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội”. Từ quan điểm chỉ đạo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xác định
phát triển NL là định hướng để xây dựng CT giáo dục phổ thông và đổi mới
dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá quá trình, kết quả học tập của HS từ sau
2015.
1.2. Trong các NL cần hình thành và phát triển cho HS, đọc hiểu là một
NL cơ bản, then chốt. Theo Hiệp hội Đọc quốc tế IRA (International Reading
Association, 1999), “thanh thiếu niên bước vào thế giới người trưởng thành
trong thế kỉ 21 sẽ đọc và viết nhiều hơn bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử
nhân loại.Họ sẽ cần đến năng đọc viết ở mức độ cao để thực hiện công việc,
quản lí gia đình, hành động với tư cách của các công dân và điều khiển chính
cuộc sống cá nhân của mình. Biết đọc, biết viết là cơ sở và công cụ cho việc
học những nội dung khác, những môn học khác. Ban đầu là học để biết đọc,
biết viết và sau đó thông qua đọc và viết để học, học trong nhà trường và học
suốt đời. Cũng phải thông qua đọc và viết thì làm mới có hiệu quả cao”. Rõ
ràng, vai trò của NL đọc trong thời kì hiện đại lại càng quan trọng hơn bao giờ
hết.
1.3. Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn mới (Ban hành kèm
theo Thông tư 32, ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT) lấy việc rèn
luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt
cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo định hướng năng
lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp học,
lớp học. Chương trình cấp THPT xác định “Tiếp tục phát triển các năng lực đã
hình thành ở trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao hơn”, trong đó có NL
đọc hiểu: “đọc hiểu được cả nội dung tường minh và hàm ẩn của các loại văn
bản với mức độ khó hơn thể hiện qua dung lượng, nội dung và yêu cầu đọc;
3
đọc hiểu với yêu cầu phát triển tư duy phản biện; vận dụng được các kiến
thức về đặc điểm ngôn từ văn học, các xu hướng – trào lưu văn học, phong
cách tác giả, tác phẩm, các yếu tố bên trong và bên ngoài văn bản để hình
thành năng lực đọc độc lập”.
Cụ thể, Chương trình đã đưa ra các yêu cầu cần đạt về kĩ năng đọc như:
“– Kĩ thuật đọc: gồm các yêu cầu về tư thế đọc, kĩ năng đọc thành tiếng,
kĩ năng đọc thầm, đọc lướt, kĩ năng ghi chép trong khi đọc,...
– Đọc hiểu: đối tượng đọc gồm văn bản văn học, văn bản nghị luận, văn
bản thông tin. Đọc hiểu mỗi kiểu văn bản và thể loại nói chung có các yêu cầu
cần đạt sau:
+ Đọc hiểu nội dung văn bản thể hiện qua chi tiết, đề tài, chủ đề, tư
tưởng, thông điệp,...;
+ Đọc hiểu hình thức thể hiện qua đặc điểm các kiểu văn bản và thể
loại, các thành tố của mỗi kiểu văn bản và thể loại (câu chuyện, cốt truyện,
truyện kể, nhân vật, không gian, thời gian, người kể chuyện, điểm nhìn, vần
thơ, nhịp thơ, lí lẽ, bằng chứng,...), ngôn ngữ biểu đạt,…;
+ Liên hệ, so sánh giữa các văn bản, kết nối văn bản với bối cảnh lịch
sử, văn hoá, xã hội, kết nối văn bản với trải nghiệm cá nhân người đọc; đọc
hiểu văn bản đa phương thức,…;
+ Đọc mở rộng, học thuộc lòng một số đoạn, văn bản văn học chọn lọc”
[1,12]
Như vậy, đọc và dạy đọc là vấn đề thời sự trong dạy học Ngữ văn hiện
tại cũng như các năm tiếp theo, nhất là khi Chương trình, SGK Ngữ văn mới
sẽ chính thức được áp dụng.
1.4. Cũng với thơ, truyện là một trong hai kiểu văn bản chiếm số lượng
nhiều nhất trong Chương trình. Trong quá trình dạy truyện, một mặt, GV cần
giúp HS hiểu được giá trị nội dung nghệ thuật của từng tác phẩm, mặt khác,
qua các bài học về truyện cần trang bị cho HS những kĩ năng đọc văn bản
truyện để sau này các em có thể đọc được những văn bản tương tự. Để làm
được việc đó, việc áp dụng các kĩ thuật đọc rất cần thiết bởi đây không chỉ là
công cụ giúp
HS đọc văn bản mà còn là hành trang đi theo các em mãi sau này mỗi khi HS
đọc sách nói chung và đọc truyện nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Kĩ thuật đọc sách nói chung là vấn đề đã được đề cập trong nhiều
cuốn sách. Có thể kể đến một số cuốn tiêu biểu như:
- Phương pháp học tập siêu tốc khơi dậy năng lực tìm ẩn trong bạn,
Bobbi Deporter & Mike Hernacki, NXB tri thức, 2007
- Kĩ thuật đọc nhanh, Nguyễn Huy Côn, NXB Thanh Niên, 2011
- Sách hướng dẫn kỹ năng học tập theo phương pháp Buzan. Chủ biên
tư vấn James Harrison. Bản dịch tiếng Việt: Lê Huy Lâm
- Đọc sách như một nghệ thuật, Mortimer J.Adler Charles Van Doren,
Hải Nhi dịch, NXB Lao động - Xã hội, 2008
Trong các sách này, từ những nghiên cứu và kinh nghiệm bản thân, các
tác giả đã đưa ra nhiều kĩ thuật đọc sách hiệu quả để gợi ý, hướng dẫn độc giả.
Chẳng hạn như: kĩ thuật đọc lướt, đọc nhanh, đọc siêu tốc, đọc kĩ, đọc sâu,…
Kèm theo đó là những lưu ý về tâm thế đọc, hứng thú trong lúc đọc, thậm chí
hình thành văn hóa đọc, nghệ thuật đọc. Có thể khẳng định, đây là những kiến
thức đáng quý về kĩ thuật đọc, có thể vận dụng vào việc đọc nói chung và dạy
học sinh đọc các văn bản văn học trong nhà trường nói riêng.
2.2. Đọc hiểu và dạy học đọc hiểu đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu
của nhiều nhà khoa học, học viên cao học, nghiên cứu sinh ở Việt Nam trong
thời gian gần đây như:
- Đọc văn, học văn của tác giả Trần Đình Sử (NXB Giáo dục, 2001);
- Kĩ năng đọc hiểu văn của Nguyễn Thanh Hùng (NXB ĐH Sư phạm,
2001);
- Đọc hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường của tác giả Nguyễn
Thanh Hùng (NXB Giáo dục năm 2008);
- Đọc hiểu và chiến thuật đọc hiểu văn bản trong nhà trường phổ thông"
của Phạm Thị Thu Hương (NXB Đại học sư phạm, 2012);
- Văn bản và dạy học đọc hiểu văn bản ở trường Trung học (vận dụng
vào dạy học truyện dân gian) của Trịnh Thị Lan (NXB Đại học Sư phạm,
2017);
- Vấn đề đọc hiểu và dạy đọc hiểu ,Nguyễn Thái Hòa,Thông tin khoa
học
Sư phạm, ĐHSP, số 5, 4/2004;
- Nguyễn Trọng Hoàn, Một số vấn đề về đọc hiểu văn bản Ngữ văn, Tạp
chí giáo dục số 56, 4/2003;
-Một số đề xuất để đổi mới dạy học đọc hiểu văn bản trong nhà trường
phổ thông, Phạm Thị Thu Hiền Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh, số 56 năm 2014;
- Lí luận văn học và việc đổi mới đọc hiểu tác phẩm, Nguyễn Văn Tùng
(2013), NXB Giáo dục Việt Nam;
- Dạy học phát triển năng lực môn Ngữ văn THPT, Đỗ Ngọc Thống
(Tổng chủ biên), Bùi Minh Đức (Chủ biên) (2018), NXB ĐHSP HN;
- Dạy học phát triển năng lực môn Ngữ văn THCS, Đỗ Ngọc Thống
(Tổng chủ biên), Phạm Thị Thu Hiền (Chủ biên) (2018), NXB ĐHSP HN
- Mô hình đọc hiểu tác phẩm văn chương theo loại thể ở Trung học phổ
thông của Nguyễn Thanh Bình, Luận án Tiến sĩ.
- So sánh vấn đề đọc hiểu văn bản trong chương trình giáo dục phổ
thông môn Ngữ văn của Việt Nam và một số nước trên thế giới, Phạm Thị Thu
Hiền, Luận án Tiến sĩ.
...
Trong những công trình nêu trên, các nội dung khoa học về đọc và đọc
hiểu, từ mô hình lí thuyết đến thực tiễn vận dụng, từ quan niệm chung đến quy
trình dạy học, từ phương pháp đến chiến thuật đọc hiểu, từ áp dụng dạy thể
loại thơ đến thể loại truyện, kịch, kí đã được bàn luận, đánh giá ở các mức độ
khác nhau. Trong đó, đáng chú ý là những nội dung vận dụng các chiến thuật,
kĩ thuật đọc trong dạy học các loại văn bản văn học ở các công trình của Đỗ
Ngọc Thống, Bùi Minh Đức, Phạm Thu Hiền, Phạm Thị Thu Hương, Trịnh
Thị Lan…
2.3. Gần đây, trong xu hướng đổi mới dạy học theo định hướng phát
triển năng lực, vấn đề dạy đọc hiểu văn bản truyện cũng đã được chú ý, trở
thành đề tài nghiên cứu của nhiều học viên cao học. Chẳng hạn như:
- Dạy học chủ đề truyện Việt Nam 1945-1975 ở THPT theo hướng phát
triển năng lực đọc hiểu cho học sinh, Nguyễn Thị Dung, Luận văn Thạc sĩ,
Trường ĐHSP Hà Nội 2, 2017;
- Vận dụng chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học” vào dạy đọc hiểu
truyện ngắn việt Nam giai đoạn 1945-1975 ở THPT, Trần Thị Hà,Luận văn
Thạc sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội 2, 2017;
- Xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong dạy học truyện Việt Nam
giai đoạn 1930-1945 ở THPT, Nguyễn Thị Hiền, Luận văn Thạc sĩ, Trường
ĐHSP Hà Nội 2, 2017;
- Dạy học truyền thuyết ở Trung học cơ sở theo định hướng phát triển
năng lực của học sinh, Phạm Thị Lượng, Luận văn Thạc sĩ, Trường ĐHSP Hà
Nội 2, 2017;
- Phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh lớp 12 qua dạy học văn bản
truyện Việt Nam sau 1975 theo chủ đề, Chu Minh Thoại, Luận văn Thạc sĩ,
Trường ĐHSP Hà Nội 2, 2017;
- Dạy học truyện cổ tích Tấm Cám ở Trung học phổ thông theo định
hướng phát triển năng lực, Cao Thị Phương Thúy, Luận văn Thạc sĩ, Trường
ĐHSP Hà Nội 2, 2017;
...
Trong các luận văn này, một số phương pháp, kĩ thuật dạy học cũng đã
được áp dụng để tổ chức các hoạt động đọc hiểu văn bản truyện cho học sinh
như: phương pháp đàm thoại gợi mở; phương pháp thảo luận nhóm; chiến
thuật cuộc giao tiếp văn học; kĩ thuật sơ đồ tư duy;…
Khóa luận này kế thừa và vận dụng những quan điểm học thuật về đọc,
đọc hiểu và những kết quả nghiên cứu về dạy học đọc nói chung, dạy đọc hiểu
truyện nói riêng của các nhà nghiên cứu đi trước, đồng thời tìm tòi, giới thiệu
và thử nghiệm bổ sung một số kĩ thuật đọc vào quá trình dạy đọc hiểu qua một
kiểu văn bản cụ thể là văn bản truyện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là mô tả và ứng dụng các kĩ thuật
đọc vào quá trình dạy học đọc hiểu một số văn bản truyện ở trường THPT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Tìm kiếm, mô tả các kĩ thuật đọc văn bản.
- Xác định hệ thống hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản truyện.
- Vận dụng các kĩ thuật đọc vào dạy học đọc hiểu một số văn bản truyện.
- Thiết kế giáo án thực nghiệm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Cách thức vận dụng các kĩ thuật đọc vào dạy học đọc hiểu văn bản
truyện.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu một số kĩ thuật đọc văn bản và việc
vận dụng các kĩ thuật này vào quá trình dạy học đọc hiểu một số văn bản
truyện ở trường THPT.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp lí thuyết
Phương pháp này được sử dụng nhằm xác định tiền đề lí luận cho đề tài,
được sử dụng chủ yếu ở chương 1,2.
5.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phương pháp TN sư phạm được sử dụng nhằm chuyển hóa, thể nghiệm
tính khả thi của các đề xuất, áp dụng ở chương 3.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liêu tham khảo, phần nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. ĐỌC VÀ CÁC KĨ THUẬT ĐỌC VĂN BẢN
Chương 2. VẬN DỤNG MỘT SỐ KĨ THUẬT ĐỌC VÀO DẠY ĐỌC
HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN Ở TRƯỜNG THPT
Chương 3. THIẾT KẾ THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
Chương 1
ĐỌC VÀ CÁC KĨ THUẬT ĐỌC VĂN BẢN
1.1. Đọc
1.1.1. Các quan niệm về “đọc”
Theo “Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc”, quyển “Giáo dục”: “Đọc
là một quá trình hoạt động tâm lý nhầm tiếp nhận ý nghĩa từ ký hiệu ngôn
ngữ được in hay viết”. Xét từ mặt triết học, đọc có những nội dung sau: Một,
đọc là quá trình tiếp nhận ý nghĩa từ văn bản, tất nhiên phải hiểu ngôn ngữ
của văn bản (ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ thể loại của
văn bản); phải dựa vào tính tích cực của chủ thể (hứng thú, năng lực, nhu
cầu) và tác động qua lại giữa chủ thể và văn bản. Hai, đọc là quá trình giao
tiếp và đối thoại với người tạo ra văn bản (tác giả, xã hội, văn hoá). Ba, đọc
là quá trình tiêu dùng văn hóa văn bản (hưởng thụ, giải trí, học tập). Bốn,
đọc là quá trình tạo ra các năng lực người (năng lực hiểu mình, hiểu văn hóa
và hiệu thế giới). Như thế đọc là một hoạt động văn hóa có tầm nhân loại và
có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Trước văn bản, người đọc vẫn dụng những kiến
thức đã có cùng những gợi ý (Trực tiếp và gián tiếp, hàm ngôn và hiển
ngôn) trong bài học để hiểu nghĩa. Đọc đòi hỏi chiều sâu mọi nội dung tư
tưởng, tình cảm, cái đẹp của văn bản và có thể sử dụng văn bản vào đời sống
cá nhân và xã hội. Biết đọc là biết giao tiếp với đời sống văn hóa - xã hội
rộng mở, vượt ra ngoài tầm hiểu biết trực tiếp của mỗi người và biết hưởng
thụ các giá trị văn hóa kết tinh trong văn bản.
Theo Wikipedia, Đọc là một quá trình "nhận thức" phức tạp của việc
giải mã các biểu tượng để tạo ra ý nghĩa. Đọc sách là cách tiếp thu ngôn ngữ,
giao tiếp và chia sẻ thông tin và ý tưởng. Giống như ngôn ngữ, nó là một sự
tương tác phức tạp giữa các văn bản và người đọc được định hình bởi kiến
thức của người đọc, kinh nghiệm, thái độ và cộng đồng ngôn ngữ, vốn phụ
thuộc vào văn hóa và xã hội cụ thể. Quá trình đọc đòi hỏi phải liên tục thực
hành, phát triển, và tinh chỉnh. Ngoài ra, đọc đòi hỏi sự sáng tạo và phân tích
bình luận. Người đọc văn chương thường chìm vào nội dung tác phẩm, nói
cách khác là chuyển đổi ngôn ngữ thành các hình ảnh mô phỏng các địa
điểm
mà văn chương đã mô tả. Bởi vì đọc là một quá trình phức tạp như vậy, nó
không thể được kiểm soát hoặc định nghĩa bằng các giải thích giản đơn.
Không có luật cụ thể về đọc, nhưng đọc đã cho phép các độc giả một lối
thoát để tạo ra các tác phẩm nội tâm của riêng họ. Điều này thúc đẩy việc
thăm dò sâu sắc văn bản trong quá trình giải nghĩa từvựng.
SGV Ngữ văn 10, nâng cao (tập1) viết: “Đọc là hoạt động nhằm nắm
bắt ý nghĩa trong các ký hiệu của văn bản, khác với nghe là hoạt động nắm
bắt ý nghĩa từ tín hiệu âm thanh. Đọc là hoạt động lấy văn bản viết, in, khắc
làm đối tượng. Khác với đọc của người thoát nạn mù chữ là biết đọc chữ,
đọc ở đây đòi hỏi nhiều sâu mọi nội dung tư tưởng, tình cảm, cái đẹp của
văn bản và có thể sử dụng văn bản vào đời sống cá nhân và xã hội” [2,171].
Theo Walcutt (2010), “đọc văn bản là công việc giải mã những kí hiệu
đã được viết thành văn bản và có thể nghe được âm thanh phát ra, là cái âm
thanh mà kí hiệu đó thể hiện”. Còn Karlin (2009) lại cho rằng đọc là một
dạng biểu hiện của tư duy, là dung nạp hay suy nghĩ về một hay những thông
tin nào đó. Đọc là sự tái tạo những ý tưởng của người khác... Bởi xuất phát từ
những yêu cầu và mục đích khác nhau nên mỗi người có thể phát biểu định
nghĩa hay quan niệm về việc đọc văn bản khác nhau. Chẳng hạn, quan niệm
của Walcult gắn việc đọc với một quá trình giải mã máy móc mà theo đó, các
chữ của văn bản viết được chuyển đổi thành những âm thanh phát ra liên tiếp,
tuyệt nhiên việc hiểu những từ trong văn bản này như thế nào thì không được
đề cập. Trong khi đó, Karlin lại nhìn nhận việc đọc như một quá trình tiếp
nhận tư duy, trong đó, tác giả “viết” dường như chỉ để chuyển tải ý tưởng và
suy nghĩ của mình đến ngườiđọc, vấn để giải mã không hề được đề cập tới
một chút nào. Các tác giả Tinker và McCullough (2007) thì thừa nhận rằng:
Việc đọc bao gồm sự phát hiện và công nhận các kí hiệu in hoặc viết có tác
dụng như những tác nhân khơi gợi nghĩa của từ vốn đã được người đọc thiết
lập bằng kinh nghiệm trong quá khứ, và xây dựng thêm các nghĩa mới mà
người đọc tìm ra nhờ những khái niệm tương tự, sẵn có ở người đọc. Theo
quan điểm này, việc giải mã và việc hiểu kết quả giải mã ấy có ý nghĩa quan
trọng như nhau. Việc đọc văn bản sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu như người đọc
chỉ dừng lại ở việc làm đơn giản là gợi ra những từ đã được giải mã sẵn. Hiểu
được nghĩa của từ ngữ, hiểu được các từ ngữ đó liên kết với nhau và tạo ra
những hiệu quả như thế nào để chuyển tải được bức thông điệp, và quan
trọng hơn là chúng tác động như thế nào đến nhận thức, tình cảm và hành vi
của người đọc là những yếu tố thiết yếu trong quá trình đọc. Ngược lại , quá
trình tư duy không thể diễn ra nếu người đọc không thể giải mã được những
từ ngữ đã được viết ra. Nói tóm lại, việc giải mã các yếu tố xây dựng nền văn
bản và việc hiểu được các yếu tố ấy đều có vai trò quan trọng và quan trọng
như nhau trong quá trình đọc văn bản.
Ở Châu Âu, ngay từ đầu thế kỷ 11, có nhà sư phạm dạy rằng: “Khi
đọc sách, ta trở nên vội vàng lướt qua những trang sách mà nên nhìn ngắm
từng chữ trong từng câu, từng câu trong từng trang và môi trường nên đọc đi
đọc lại ít nhất ba lần!”. Chúng ta không thể có ý kiến phê phán nhà sư phạm
này nói đúng hay sai. Các nhà nho của ta xưa kia đối đáp rất nhanh, nhiều
người đã nổi tiếng về tài đối lại khi người khác ra các vế đối cực kỳ khó đó
là vì các bậc nho sĩ đàn anh ấy đã đọc rất nhiều nhưng lại đọc thật chậm và
phải đọc theo kiểu “tầm chương trích cú”, rèn luyện ngày đêm trong một
thời gian dài hằng năm mười năm. Tất nhiên, cũng có những thiên tài văn
thơ xuất khẩu thành chương mà sử sách của ta còn lưu lại. Xong tất cả đều
do rèn luyện trí não mà có được qua việc đọc nhiều, học nhiều và điều chủ
yếu là hiểu đến chân tơ kẽ tóc ý nghĩa của từng chữ từng câu. Sự ứng đối
nhanh nhẹ đến mức làm ta kinh ngạc là kết quả của quá trình tích lũy kiến
thức, và ở thời đó là đọc chậm, đọc một cách nghiền ngẫm. Tuy nhiên giả sử
cũng truyền tụng về những “trạng” của ta như Nguyễn Bỉnh Khiêm, xem
một lần đã nhớ và xem rất nhanh. Tài đọc nhanh cá biệt là thuộc tính của bộ
óc có tổ chức cao và tập trung cao độ các thiên tài thế giới như Mác, Lê-nin,
Balzắc, Napoleon đã nổi tiếng là những người có khả năng đọc thiên bẩm.
Napoleon đọc được 2000 từ trong một phút. Banlzắc đọc một cuốn tiểu
thuyết vài trăm trang trong nửa giờ. Ngày nay đã có những mẫu người đọc
đến mức cực đoan tức là với tốc độ siêu đẳng. Một nhà hài hước Anh, ông
D.Mikess đã viết rằng: “ Tôi phát hoảng lên khi biết rằng ngày thượng sĩ S.
đọc “Lịch sử hai thành phố” của Charles Dickens trong 30 phút và đọc “Ba
người lính ngự lâm pháo thủ” của Alexandre Dumas mất 16 phút, có nghĩa
là ông ta chỉ tốn có 5 phút 20 giây
cho một người lính ngự lâm pháo thủ.
1.1.2. Tiểu kết về khái niệm “đọc”
Có thể thấy đọc là một hoạt động văn hóa tinh thần của con người, là
phương tiện chính để giảng dạy và học tập, là công cụ quan trọng để thu
nhận thông tin và nhận thức thế giới. Dù cho đến nay, trên thế giới đã xuất
hiện nhiều phương tiện mới để chứa đựng và phổ biến thông tin khoa học kĩ
thuật, nhưng cuối cùng vẫn phải đọc. Tác dụng của đọc là rất to lớn và
không thể thay thế được.
1.2. Các kĩ thuật “đọc”
1.2.1. Khái niệm kĩ thuật đọc
Nếu phương pháp là cách thức, con đường nói chung để tiến hành các
hoạt động nhằm đạt mục tiêu đã đề ra thì kĩ thuật có thể xem là những thao
tác cụ thể chi tiết gắn với việc sử dụng các phương tiện để thực hiện từng
khâu, từng bước của quy trình mà con người đã lựa chọn.
Trong những ngữ cảnh và theo những mục tiêu, quan niệm khác nhau,
có những nhận thức không giống nhau về kĩ thuật nói chung và kĩ thuật đọc
nói riêng. Điều này cũng giống như việc các nhà nghiên cứu có những quan
niệm khác nhau về các thuật ngữ: chiến lược, chiến thuật đọc.
Theo PGS. Nguyễn Thái Hòa, “Kĩ thuật đọc là sự vận dụng thành thạo
các thủ pháp và thao tác đọc, ví như nhận biết kí hiệu chữ viết, từ ngữ, câu,
văn bản, phát âm thành tiếng (hay không thành tiếng) để tiếp nhận và làm
người khác tiếp nhận được nội dung thông tin. Kĩ thuật hiểu là sự vận dụng
thành thạo các thủ pháp và thao tác ghi nhớ, liên hệ, suy ý để hiểu nội dung
văn bản thông qua quá trình đọc văn bản. Ở cấp độ cao, đọc hiểu là một hệ
thống thủ pháp và thao tác tích hợp, vận dụng toàn bộ hiểu biết kinh nghiệm,
tri thức, kĩ thuật để hiểu một văn bản. Như vậy, kĩ thuật đọc hiểu là một kĩ
thuật tích hợp chứ không tách bạch” [8,16].
Trong phạm vi khóa luận, kĩ thuật đọc là những thao tác đọc cụ thể mà
con người sử dụng trong quá trình đọc. Đó là cấp độ nhỏ hơn của phương
pháp, có thể coi là “phương pháp vi mô”.
1.2.2. Một số kĩ thuật đọc
1.2.2.1. Đọc lướt
Đọc lướt là tiến trình khởi đầu giúp độc giả có cái nhìn tổng quan về
văn bản. Đọc lướt giúp người đọc có ấn tượng chung, có bước tiếp cận ban
đầu, tạo đà cho khâu thâm nhập sâu vào văn bản. Đọc lướt đòi hỏi phải bao
quát hết toàn bộ văn bản từ tiêu đề đến dòng cuối cùng, từ kênh chữ đến
kênh hình (nếu có)…
Đọc lướt gồm các thao tác:
- Xem trang đầu và phần giới thiệu (nếu có): cần đọc nhanh các phần
này; chú ý các phụ đề hay các dấu hiệu về quy mô, mục đích của văn bản,
hoặc quan điểm đặc biệt của tác giả về đề tài được bàn đến.
- Đọc mục lục: mục đích là để nắm tổng quát cấu trúc của văn bản,
giống như việc xem bản đồ đường phố trước khi bắt đầu một cuộc hành
trình. Có một điều đáng ngạc nhiên là rất nhiều người chẳng bao giờ ngó
đến mục lục trừ phi họ phải tìm một phần nào đó, trong khi tác giả đã phải
dành nhiều thời gian để xây dựng phần này rất công phu. Trong các tác
phẩm mô tả và ngay cả trong tiểu thuyết và thơ trước đây, người ta thường
có những mục lục chi tiết với các chương phần, mục, tiểu mục,…Chẳng hạn,
Milton đã viết những phần mở đầu khá dài dòng mà ông gọi là phần tranh
luận cho mỗi tập trong bộ truyện Paradise Lost (Thiên đường đánh mất).
Gibbon xuất bản cuốn “Sự suy tàn và diệt vong của Đế chế La Mã” với mục
lục rất chi tiết trong mỗi chương. Những phần tóm tắt như thế bây giờ không
còn thông dụng nữa, trừ một vài trường hợp hiếm hoi, có thể do độc giả
không còn hứng thú với mục lục như trước đây. Bên cạnh đó, các nhà xuất
bản cũng nhận thấy một mục lục ít chi tiết sẽ hấp dẫn hơn một mục lục đầy
ắp thông tin, độc giả sẽ bị lôi cuốn trước những văn bản có tiêu để chương ít
nhiều bí hiểm - họ sẽ muốn đọc sách để tìm ra nội dung . Dù thể một bảng
mục lục vẫn có thể có giá trị, và nên đọc kỹ nó trước khi tiếp tục đọc phần
còn lại.
- Kiểm tra bảng chỉ dẫn (nếu có): nhiều văn bản thông tin đều có phần
này. Độc giả có thể nhanh chóng đoán định các đề tài được đề cập ở đây.
Khi thấy các từ được liệt kê, người đọc hãy tìm ít nhất vài đoạn đã được
trích. Các
đoạn văn này có thể chứa điểm nút - điểm then chốt của văn bản.
- Đọc lời giới thiệu: một số người có ấn tượng rằng lời giới thiệu chỉ
là những lời phô trương nhưng sự thật không phải lúc nào cũng như vậy. Lời
giới thiệu của văn bản có khi do chính tác giả viết và có thể họ cố gắng tóm
lược các ý chính trong sáng tác của mình. Nếu lời giới thiệu chỉ là lời khoe
khoang về văn bản thì trong trường hợp đó, chúng ta sẽ biết được có lẽvăn
bản không có gì quan trọng, bởi ngay phần giới thiệu cũng không nói lên
được điều gì.
Sau khi hoàn tất bốn bước đầu này, độc giả bạn đã có thể có đủ thông
tin về văn bản và biết mình có muốn, có nên đọc nó kỹ hơn hay không.
Ngoài những thao tác trên, hoạt động đọc lướt còn có thể có các hành
động:
- Xem qua một số nội dung/chương có vẻ quan trọng của văn bản:
Việc
này xuất phát từ những hiểu biết còn chung chung và khá mơ hồ về văn bản
khi người đọc tiếp cận văn bản ở bước đầu tiên.
- Đọc ngẫu nhiên một, hai đoạn hoặc một vài trang liên tục.
1.2.2.2. Đọc sâu
Đọc sâu (hay còn gọi là đọc phân tích) là đọc kỹ lưỡng, đọc toàn bộ
hay đọc hiệu quả. Nếu đọc kiểm soát là hình thức đọc tốt nhất và hoàn chỉnh
nhất có thể đạt được trong một thời gian cho trước thì đọc sâu là hình thức
đọc tốt nhất và hoàn chỉnh nhất có thể đạt được trong một thời gian không
xác định. Trong cấp độ này, độc giả giành lấy một cuốn sách, và nghiền
ngẫm nó cho đến khi nó trở thành của riêng họ. Triết gia Francis Bacon
(1561 1626) từng nhận xét rằng “Một số sách chỉ dùng để nếm. Một số khác để
nuốt. Và rất ít cuốn sách dùng để nhai và tiêu hóa”. Đọc một cuốn sách theo
kiểu phân tích có nghĩa là nhai và tiêu hóa nó.
Đọc sâu, đọc phân tích không thật sự cần thiết nếu mục đích đọc của
bạn chỉ để lấy thông tin hay giải trí. Đọc sâu (đọc phân tích) trước tiên và
trên hết là đọc để hiểu. Nếu không có ít nhất một kỹ năng nào đó của cấp độ
đọc phân tích, chúng ta gần như không thể dựa vào sự trợ giúp của một cuốn
sách
để đi từ chỗ hiểu đến hiểu nhiều hay hiểu sâu. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng
nắm được cấu trúc một cuốn sách là một giai đoạn trong quy trình đọc sâu,
đọc phân tích.
Giai đoạn đầu tiên của quá trình đọc phân tích là tìm xem văn bản nói
về vấn đề gì. Trong đó, cần:
- Phân loại văn bản theo thể loại và chủ đề;
- Diễn đạt nội dung chính của toàn bộ văn bản một cách ngắn gọn nhất;
- Liệt kê những phần chính theo thứ tự và mối quan hệ; lập đề cương
cho những phần này như lập đề cương cho toàn bộ tác phẩm;
- Xác định một hoặc nhiều vấn đề mà tác giả đang tìm cách giải quyết
Giai đoạn thứ hai của quá trình đọc phân tích giúp tìm ra nội dung văn
bản. Trong đó:
- Phân tích các từ khóa;
- Nắm bắt những ý tưởng của tác giả trên cơ sở xem xét những câu
quan trọng nhất;
- Xác định lập luận của tác giả bằng cách tìm ra chúng hoặc xây dựng
lập luận từ các chuỗi câu;
- Xác định các vấn đề tác giả đã giải quyết, các vấn đề chưa được giải
quyết. Giai đoạn ba của quá trình đọc phân tích là đánh giá, phê bình
văn bản với:
- Những quy ước chung về các quy tắc giao tiếp, đối thoại với người
viết:
+ Chi bắt đầu phê bình khi độc giả đã hoàn thành quá trình hiểu được
nội dung của văn bản;
+ Không nên thể hiện sự bất đồng theo kiểu vô căn cứ.
+ Đưa ra những lập luận tốt cho mọi đánh giá phê bình.
- Các tiêu chí đặc biệt về các điểm phê phán:
+ Chứng minh khía cạnh tác giả không cung cấp đủ thông tin.
+ Chứng minh khía cạnh tác giả cung cấp thông tin sai.
+ Chứng minh khía cạnh tác giả thiếu logic.
+ Chỉ ra khía cạnh phân tích và giải thích chưa hoàn chỉnh của tác giả
1.2.2.3. Đọc điểm
Kĩ thuật đọc điểm có thể kết hợp với kĩ thuật đọc nhanh để nhận diện
được nhiều chi tiết quan trọng trong các loại văn bản. Khi sử dụng thành
thạo kĩ thuật này, người đọc sẽ trang bị tốt cho bản thân những tri thức rồi
liên hệ được các ý tưởng và kiến thức nền tảng. Xác định càng nhiều liên hệ
giữa các chi tiết và các ý, giữa các ý với nhau thì học tập đạt hiệu quả càng
cao hơn.
Trong kĩ thuật đọc điểm, người đọc cần trỏ ngón tay theo từng dòng
đọc, ngón tay sẽ quyết định tốc độ đọc, để điều chỉnh nhanh hay chậm khi
cần. Điều này giúp người đọc có thể tìm kiếm các mục, các chi tiết quan
trọng trong văn bản nhanh hơn người đọc theo kĩ thuật truyền thống đến 2-3
lần. Khi ứng dụng kĩ thuật này, người đọc sẽ có khả năng “chớp” cả trang
sách và sẽ tìm thấy những điều cần biết trong giây lát để trở thành những
người đọc sách thông thái nhất.
1.2.2.4. Một số kĩ thuật đọc khác
- Xác lập mục đích đọc: giúp người đọc định hình, quyết định mục tiêu
cần tập trung của hoạt động đọc hiểu văn bản; điều này càng có ý nghĩa với
những văn bản dài, đòi hỏi cần có thời gian.
- Kiểm tra việc đọc: Giúp người đọc kiểm soát, duy trì được hoạt động
đọc hiểu văn bản, nhất là khi phải tạm dừng đọc vì một lý do nào đó, hay việc
đọc không thể diễn ra liên tục mà phải chia thành từng chặng. Để kiểm tra
việc đọc, một trong những biện pháp phổ biến là hỏi chính mình về những gì
đang đọc. Đôi lúc, để trả lời các câu hỏi đó, người đọc phải đọc lại. Chiến
thuật này có thể áp dụng với những văn bản dài được học trong nhiều tiết,
nhiều tuần hoặc trước khi chuyển sang nhiệm vụ đọc hiểu văn bản truyện tiếp
theo, GV có thể hướng dẫn HS kiểm tra lại kết quả đọc của mình trước đó để
đảm bảo rằng mọi HS đều đã hiểu và sẵn sàng cho một việc đọc kế tiếp