Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết không gia đình của hector malot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.19 KB, 68 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

NGUYỄN THỊ GIANG

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG
TIỂU THUYẾT KHÔNG GIA ĐÌNH
CỦA HECTOR MALOT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

HÀ NỘI - 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

NGUYỄN THỊ GIANG

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG
TIỂU THUYẾT KHÔNG GIA ĐÌNH
CỦA HECTOR MALOT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Người hướng dẫn khoa học

PGS.TS. PHÙNG GIA THẾ

HÀ NỘI - 2019




LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn trân thành và lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy
giáo: PGS. TS Phùng Gia Thế - giáo viên giảng dạy đã trực tiếp giúp đỡ, chỉ
bảo tận tình để em hoàn thành khóa luận này.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn đặc biệt là
các thầy cô trong tổ lý luận văn học và các bạn sinh viên trong nhóm khóa
luận đã tạo điều kiện để giúp đỡ em hoàn thành khóa luận.
Khóa luận được viết bằng niềm yêu thích đặc biệt đối với vấn đề
nghiên cứu, người viết đã có nhiều cố gắng tìm tòi nhất định, xong chắc chắn
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự ý kiến đóng
góp của thầy cô và các bạn về khóa luận hoàn thiện hơn.

Em xin trân trọng cảm ơn!

Xuân Hòa, tháng 05 năm 2019

Sinh viên

Nguyễn Thị Giang


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo:
PGS. TS Phùng Gia Thế. Em xin cam đoan:
- Các tài liệu là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng em.
- Các tài liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực.
- Kết quả khóa luận chưa từng được công bố ở bất cứ công trình nghiên
cứu nào.


Hà Nội, tháng 05 năm 2019

Sinh viên

Nguyễn Thi Giang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1.Lý do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 4
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 5
7.Bố cục của khóa luận ..................................................................................... 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ VỀ TIỂU
THUYẾT KHÔNG GIA ĐÌNH CỦA HECTOR MALOT ............................... 6
1.1.Khái lược về nghệ thuật tự sự ..................................................................... 6
1.1.1 Khái niệm về tự sự ................................................................................... 6
1.1.2.Các yếu tố cơ bản của nghệ thuật tự sự ................................................... 6
1.1.2.1 Nhân vật văn học................................................................................... 6
1.1.2.2. Cốt truyện........................................................................................... 10
1.1.2.3 Kết cấu................................................................................................. 12
1.1.2.3.Thời gian và không gian nghệ thuật.................................................... 14
1.1.2.4. Ngôn ngữ............................................................................................ 15
1.1.2.5. Giọng điệu .......................................................................................... 17
1.2.Tiểu thuyết Không gia đình ...................................................................... 18

1.2.2. Hoàn cảnh ra đời: .................................................................................. 18
1.2.2. Giới thiệu về tác phẩm Không gia đình ................................................ 19
CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT KHÔNG
GIA ĐÌNH CỦA HECTOR MALOT.............................................................. 22


2.1. Nghệ thuật tố chức cốt truyện và kết cấu................................................. 22
2.1.1. Nghệ thuật tố chức cốt truyện. .............................................................. 22
2.1.2.Kết cấu.................................................................................................... 29
2.2.Nhân vật .................................................................................................... 31
2.2.1. Nhân vật con người “ Thiện” ................................................................ 32
2.2.2 Nhân vật con người “ Ác”...................................................................... 42
2.2.3 Nhân vật là con vật................................................................................. 44
2.3.Thời gian và không gian nghệ thuật.......................................................... 46
2.3.1. Thời gian nghệ thuật ............................................................................. 46
2.3.2 Không gian nghệ thuật ........................................................................... 49
2.4. Ngôn ngữ.................................................................................................. 51
2.4.1. Ngôn ngữ đối thoại................................................................................ 51
2.4.2. Độc thoại nội tâm .................................................................................. 54
2.5. Giọng điệu ................................................................................................ 56
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1



Tiểu thuyết là một thể loại tự sự cỡ lớn, giữ vị trí trung tâm góp phần làm
nên diện mạo của một nền văn học. Tiểu thuyết còn là nơi hội tụ nhiều khát
vọng cách tân, đổi mới và cho thấy khá rõ những nét mới trong nghệ thuật tự
sự. Pháp được xem như là “cái nôi” của những tìm tòi và đổi mưới về tư duy
nghệ thuật tiểu thuyết. Những điểm mới về tư duy nghệ thuật với những đặc
sắc trong cách viết cốt truyện, đa dạng điểm nhìn, giọng điệu trần thuật và cả
những kĩ thuật phân tích nội tâm của nhân vật được các nhà viết tiểu thuyết
hiện thực Pháp vận dụng một cách tối đa. Để tác phẩm có sức sống đòi hỏi
nhà văn không ngừng sáng tạo, cách tân, đổi mới cả về hình thức lẫn nội dung
của tác phẩm. Trong đó đổi mới về nghệ thuật tự sự là một yêu cầu cần thiết
đối với các tác phẩm tiểu thuyết.
Tác giả Trần Thị An trong bài Motif đứa trẻ bị bỏ rơi và kết cấu cổ tích
trong Không gia đình và Oliver Twist viết: “Trẻ em và khát vọng được sống,
được hạnh phúc là một vấn đề đang trở nên ngày càng nhức nhối trong thế
giới phát triển, nơi mà sự phân hóa xã hội đang diễn ra ngày càng gay gắt trên
toàn cầu. Vấn đề này từ lâu nằm trong sự trăn trở của các nhà văn lớn. Trong
đó có Không gia đình của Hector Malot”. Việc giáo dục đức tính trẻ nhỏ qua
các tác phẩm văn học. Thông qua các nhân vật trong truyện nói chung và tiểu
thuyết Không gia đình nói riêng con người đặc biệt là lứa tuổi thiếu nhi các
em sẽ nhận thức được như thế nào là người tốt, kẻ xấu từ đó hình thành nhân
cách, lối sống từ nhỏ cho trẻ em – những tâm hồn naagy thơ trong sáng.
Hector Malot (Hecstor Malot) sinh ngày 20 tháng 03 năm 1830 tại La
Bouile miền Bắc nước Pháp. Ông được biết đến là bậc thầy trong viết tiểu
thuyết Pháp. Trước khi đến với nghề viết văn, Hector Malot đã tốt nghiệp đại
học luật và làm việc cho một văn phòng luật sư. Năm 25 tuổi, Hector Malot
quyết định lên Pari làm biên tập cho tờ nhật báo, sau đó ông viết tiểu thuyết.
Với những cố gắng, trăn trở và nỗ lực không ngừng Hector Malot đã có
những đóng góp không nhỏ cho nền văn học Pháp bởi những tác phẩm giàu
tính giáo dục và nhân văn sâu sắc.


2


Năm 1859, tác phẩm đầu tay “Những người tình” (Les Amants) của
Hector Malot được xuất bản gây tiếng vang lớn trên diễn đàn văn học nước
Pháp bấy giờ.
Hector Malot có sự nghiệp sáng tác với 70 tác phẩm. Tiêu biểu trong số đó
như “Những anh tình nhân” (1859), “Quán trọ người đời” (4 tập - 1877)
“Những đứa trẻ” (1866),... đặc biệt là “Không gia đình” (1878) là tác phẩm
được giải thưởng của Viện Hàn lâm Văn học Pháp và được dịch ra nhiều thứ
tiếng trên thế giới. Không gia đình để lại ấn tượng sâu sắc cho các bạn thiếu
nhi, trở thành người bạn thiếu nhi Pháp và thế giới. Cuốn sách nổi tiếng này
được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới trong đó có Việt Nam. Với tài
năng sáng tạo và cống hiến của mình đã khẳng định được tài năng và tâm
huyết của nhà văn khi viết về con người. Theo chúng tôi, một trong những
thành công của tác phẩm là nhà văn đã tạo nên được dấu ấn nghệ thuật tự sự
của mình.
Với sự yêu thích của tác phẩm tiểu thuyết của Hector Malot và tất cả
những lí do trên chúng tôi quyết định lựa chọn nghiên cứu: “nghệ thuật tự sự
trong tiểu thuyết Không gia đình của Hector Malot” - làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Nói đến nghệ thuật tự sự là bàn đến vấn đề tài năng của các nhà văn về
các phương diện nghệ thuật như: người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, nghệ
thuật xây dựng hình tượng nhân vật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ và thời
gian,không gian nghệ thuật. Mỗi nhà văn đều có cách thể hiện riêng biệt, đặc
sắc về nghệ thuật tự sự và xem đó như phong cách nghệ thuật riêng biệt của
mỗi người.
Khi nghiên cứu đến cuốn tiểu thuyết Không gia đình của nhà văn Hector
Malot chúng tôi nhận thấy tiểu thuyết của ông đã thu hút được sự quan tâm,

chú ý của độc giả đặc biệt lứa tuổi thiếu nhi và đặc biệt là của các nhà nghiên
cứu khi tác phẩm mới được xuất bản. Mặc dù tiểu thuyết được viết từ năm
1878 nhưng đến nay nó vẫn được coi là tác phẩm xuất sắc của độc giả nhỏ tuổi
ở mọi thời đại. Cho đến nay, tác phẩm được dịch ra tiếng Việt với một số dịch
giả tiêu biểu
3


như: Nguyễn Đỗ Mục và Đào Hùng đã dịch sang Sans famille lấy tên là Vô gia
đình (1931). Ở miền Bắc, Huỳnh Lý dịch tác phẩm này lấy tên là Không
gia đình in lần đầu ở nhà xuất bản Kim Đồng năm 1965 (tập 1), năm 1966 (tập
2) và được tái bản qua các năm. Ở miền Nam, dịch giả Hà Mai Anh giới thiệu
đến bạn đọc một bản dịch cũng có tên là Vô gia đình .
Tuy nhiên những tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về tác phẩm Không gia
đình là không nhiều mà chỉ mang tính chất giới thiệu. Tiểu thuyết Không gia
đình có bản dịch đầu tiên vào năm 1931 đã được Hồ Biểu Chánh phỏng tác
thành Cay đắng mùi đời (1923). Gần đây có một số công trình nghiên cứu về
tiểu thuyết Không gia đình tiêu biểu là một số khóa luận, luận văn thạc sĩ
khoa học Ngữ văn như: “Từ Không gia đình của Hector Malot của đến Cay
đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh” - Vũ Kim Anh (2003) do giáo sư Nguyễn
Đình Chú hướng dẫn, “Nghệ thuật tiểu thuyết Không gia đình của Hector
Malot” – Nguyễn Thị Phương (2009) do PGS. TS. Lê Nguyên Cẩn hướng
dẫn. Trong công trình nghiên cứu tìm hiểu về đề tài “Nghệ thuật tiểu thuyết
Không gia đình của Hector Malot”, Nguyễn Thị Phương đã đi sâu vào việc
phân tích cốt truyện hai tuyến và nghệ thuật kể chuyện ngôi thứ nhất, đồng
thời là nghệ thuật sử dụng thời gian và không gian vào tác phẩm. Luận văn
cũng đã khái quát nên hệ thống các nhân vật trong tác phẩm. Luận văn của
thạc sĩ Vũ Thị Kim Anh đã làm rõ sự kế thừa và phát huy của Hồ Biểu Chánh
khi viết Cay đắng mùi đời dựa theo tiểu thuyết Không gia đình của Hector
Malot. Bên cạnh đó, tác giả Trần Thị An với bài viết” Motif đứa trẻ bị bỏ rơi

và kết cấu cổ tích trong Không gia đình và Oliver Twist” (Tạp chí văn học
nước ngoài số 5/2007) đã chỉ ra sự tương đồng của nhân vật cổ tích và nhân
vật trong tiểu thuyết gồm có sự phân tuyến giữa hai tuyến nhân vật… Như
vậy dựa trên sự khảo sát nghiên cứu cho thấy các nhà nghiên cứu đều viết về
tiểu thuyết Không gia đình dựa trên cảm hứng nghệ thuật cũng như dựa trên
sự so sánh đối chiếu trong tác phẩm ở mức độ rộng, hẹp khác nhau. Vì vậy,
người viết khóa luận dựa trên cơ sở kế thừa những thành quả của tác giả thuộc
thế hệ đi trước và những phát hiện riêng của bản thân tiếp tục đi sâu để tìm
hiểu những tìm tòi mới mẻ về phương diện nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết
Không gia đình của nhà văn Hector Malot.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trong công trình này, tác giả khóa luận vận dụng lý thuyết tự sự học để
chỉ ra những đặc điểm cơ bản về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Không gia
đình của nhà văn Hector Malot để nhìn thấy sự độc đáo tài năng của tác giả
trong cái nhìn về một số phương diện về nghệ thuật tự sự trong tác phẩm,
đồng thời thấy được những đóng góp và nỗ lực của tác giả trong sáng tạo
nghệ thuật nói chung và tiểu thuyết nói riêng.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài trên, người viết trước hết trình bày một số vấn đề lí
luận chung về phương diện nghệ thuật tự sự trong tác phẩm văn học. Bên
cạnh đó, người viết cũng phân tích tìm hiểu sâu hơn về các phương diện tự sự
được thể hiện trong tiểu thuyết Không gia đình của Hector Malot đồng thời
rút ra được nét đặc sắc trong kĩ thuật viết tiếu thuyết của nhà văn.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu

Khóa luận nghiên cứu các phương diện của nghệ thuật tự sự trong Không
gia đình như:
Nghệ thuật tổ chức cốt truyện, kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật, thời
gian, không gian, ngôn ngữ và giọng điệu.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi kiến thức: nghệ thuật tự sự gồm nhiều yếu tố song ở phạm vi
khóa luận này chúng tôi chỉ tập trung triển khai ở một số phương diện: cốt
truyện, kết cấu, nhân vật, thời gian và không gian nghệ thuật, ngôn ngữ và
giọng điệu.
Phạm vi tư liệu: thực hiện đề tài nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết
Không gia đình của Hector Malot chúng tôi tập trung khảo sát cuốn tiểu
thuyết Không gia đình của Hector Malot (bản dịch của Huỳnh Lý), nhà xuất
bản Kim đồng năm 2011.

5


5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành phương pháp nghiên cứu mà đề tài đề ra tác giả khóa luận
có sử dụng 1 số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp khảo sát phân tích văn bản,
phương pháp so sánh, phương pháp tiếp cận hệ thống.
6. Đóng góp của khóa luận
Với khóa luận này chúng tôi đề xuất một hướng tiếp cận mới về tiểu
thuyết Không gia đình của Hector Malot từ phương tiện nghệ thuật tự sự. Với
kết quả nghiên cứu của đề tài người viết mong muốn khóa luận sẽ góp phần
bổ sung cung cấp thêm một tài liệu khoa học cho việc nghiên cứu tiểu thuyết
Không gia đình.
Từ đó có thêm tài liệu nghiên cứu đánh giá về Hector Malot, cũng như
thấy được những đóng góp và những nỗ lực trong sáng tạo nghệ thuật nói

chung và tiểu thuyết nói riêng.
7.Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của
khóa luận được triển khai ở 2 chương:
Chương 1: Khái quát về nghệ thuật tự sự và về tiểu thuyết Không gia
đình của Hector Malot.
Chương 2: Nghệ thuật tự sự trong tiếu thuyết Không gia đình của
Hector Malot.

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ VỀ TIỂU
THUYẾT KHÔNG GIA ĐÌNH CỦA HECTOR MALOT
1.1.Khái lược về nghệ thuật tự sự
1.1.1 Khái niệm về tự sự
Theo Từ điến thuật ngữ văn học, tự sự là “phương thức tái hiện đời
sống, bên cạnh hai phương thức khác là trữ tình và kịch được dùng làm cơ sở
phân loại tác phẩm văn học... Tác phẩm tự sự tái hiện đời sống trong toàn bộ
tính khách quan của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở
rộng của đời sống trong không gian, thời gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra
trong cuộc đời con người. Trong tác phẩm tự sự nhà văn cũng thể hiện tư
tưởng, tình cảm của mình... Tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện. Gắn
liền với cốt truyện là một hệ thống nhân vật được khắc họa đầy đủ, nhiều
mặt... Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện được khắc họa nhờ một hệ thống chi
tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng, bao gồm chi tiết sự kiện, xung đột...
Nguyên tắc phản ánh hiện thực trong tính khách quan đã đặt trần thuật vào vị
trí nhân tố tổ chức ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm tự sự, đòi hỏi nhà văn
phải sảng tạo ra hình tượng người trần thuật... ” [ 11; 385].

1.1.2.Các yếu tố cơ bản của nghệ thuật tự sự
1.1.2.1 Nhân vật văn học
Nhân vật là phạm trù cơ bản của văn học. Một tác phẩm văn học ngoài
những yếu tố như người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ...một yếu
tố không thể thiếu đó là nhân vật.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử và Nguyễn Khắc
Phi chủ biên) cho rằng nhân vật là “con người cụ thể được miêu tả trong tác
phẩm văn học. Nhân vật có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha),
cũng có thể không có tên riêng như: thằng bán tơ, một mụ nào trong “Truyện
Kiều” (…) là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó
với con người thật trong đời sống (…) thể hiện quan niệm nghệ thuật và lí
tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Vì thế nhân vật luôn gắn chặt với

7


chủ đề của tác phẩm. Nhân vật văn học được miêu tả qua các biến cố, xung
đột, mâu thuẫn và mọi chi tiết các loại. Đó là mâu thuẫn nội tâm của nhân vật,
mâu thuẫn giữa nhân vật này và nhân vật kia, giữa tuyến nhân vật này với
nhân vật khác. Cho nên nhân vật luôn gắn liền với cốt truyện” [10;237].
Tác giả Trần Đình Sử trong giáo trình Lí luận văn học khẳng định
“Nhân vật văn học là con người được miêu tả trong văn học bằng phương tiện
văn học (…) Văn học không thể thiếu nhân vật bởi đó là hình thức cơ bản để
qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng (…) Nhân vật văn học là
một hiện tượng ước lệ, có những dấu hiệu để ta nhận ra. Thông thường, đó là
một cái tên (…) Thứ đến là các dấu hiệu tiểu sử, nghề nghiệp hoặc đặc điểm
riêng (…) Sâu hơn là các đặc điểm tính cách (…) Các đặc điểm ấy được đúc
kết thành các “công thức” giới thiệu nhân vật (…) Trong các công thức nhận
ra ấy được chứng thực trong các quan hệ, được bộc lộ, phát triển hoặc điều
chỉnh trong các xung đột, và cuối cùng ta có một hình tượng hoàn chỉnh về

một nhân vật văn học (…). Nhân vật là phương tiện khái quát các tính cách,
số phận con người và các quan niệm về chúng” [16;277-279].
Trong giáo trình Lí luận văn học do GS. Hà Minh Đức định nghĩa:
“nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó không
phải là sự sao chụp đầy đủ một chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ thể
hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính
cách…và cần chú ý thêm một điều: thực da khái niện nhân vật thường được
quan niên với một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, đó không chỉ là những con
người, những con người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc
thoáng qua trong tác phẩm mà còn có thể là sự vật, loại vât khác ít nhiều
mang bong dáng tính các caon người... cũng có khi đó không phải là một con
người được thể hiện nổi bật trong tác phẩm” [6;102].
Tác giả Trần Đình Sử trong Dẫn luận thi pháp học nêu định nghĩa một
cách ngắn gọn: “nhân vật là hình thức cơ bản để miêu tả con người trong văn
học” [28;43].
Như vậy có rất nhiều định nghĩa về nhân vật văn học mà các nhà văn,
nhà lý luận văn học, các nhà nghiên cứu đều có tư tưởng chung và những

8


quan điểm giống nhau. Có thế hiểu rằng nhân vật văn học chính là con người
được miêu tả, được tái hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Nhân
vật văn học cũng có thể là các hình tượng các cá thể con người (hoặc con vật,
cây cỏ, sinh thể hoang đường... được gắn cho các đặc điểm giống con người).
Nhân vật văn học được đưa vào tác phẩm văn học bằng con đường trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua các hình ảnh ẩn dụ: con vật, sự vật, hiện tượng…
mang linh hồn của con người được tái hiện qua lăng kính chủ quan của người
nghệ sĩ, được thể hiện thông qua các phương tiện cơ bản là ngôn ngữ.
Nhân vật trong tiểu thuyết khác với nhân vật trong các thể loại khác,

nhân vật của tiểu thuyết có những đặc điểm riêng mà nhân vật thuộc các thể
loại khác không có được. Truyện ngắn chỉ có thể nói về nhân vật trong quỹ
thời gian ngắn có những biến động lướn mà người đọc không thể hiểu hết về
tiểu sử, sự phát triển của họ. Nhưng ở tiểu thuyết, nhân vật được xuất hiện
trong khuôn khổ rộng lớn, vô tận về thời gian và không gian, tạo điều kiện
cho nhà văn khai thác nhân vật của mình một cách tỉ mỉ, cụ thể.
Nhân vật là tiền đề quan trọng để đi sâu vào thế giới của tác phẩm và
thông qua nhân vật thì tác giả đã thể hiện được những quan điểm, sự đánh giá
về hiện thực cuộc sống. Thông qua nhân vật, tác giả thể hiện những quan
niệm nghệ thuật, nhận thức những lý tưởng thẩm mỹ… về con người và cuộc
sống hoặc có thể là một mảng hiện thực nào đó. Nhà nghiên cứu Trần Thanh
Hiệp trong tiểu thuyết vấn đề quan trọng “phải là vấn đề nhân vật”. “Người ta
sẽ tìm thấy bộ mặt của con người trong các nhân vật của tiểu thuyết. Trong
tiểu thuyết, ngoài nhân vật còn có gì khác nữa, thời nhân vật cũng vừa là cá
thể, vừa là linh hồn” [13;93-94].
Nhân vật được coi là sợi dây liên kết đưa người đọc vào thế giới khác
nhau của đời sống. Để nhà văn mở cánh cửa vào hiện thực đa dạng muôn màu
muôn vẻ của đời sống, tiếp cận các đề tài, chủ đề mới mẻ. Nhân vật văn học
còn là cầu nối với các sự kiện, các diễn biến, chi tiết trong tác phẩm mà chúng
ta vẫn thường gọi đó là cốt truyện. Nhân vật văn học là hình tượng mang tính
tổng hợp có khả năng tác động vào mọi giác quan của độc giả, người đọc
không chỉ nhìn thấy, nghe thấy mà còn cảm thấy sự hiện diện của nhân vật
trong trái tim mình. Nhân vật văn học có khả năng diễn tả mọi sự thay đổi,
9


vận động của con người không chỉ ở vẻ bên ngoài mà còn cả những diễn biến
tâm lí bên trong, tạo nên sự lay động mạnh mẽ cho tác phẩm văn học.
Cũng giống như phương thức miêu tả của một số thể loại khác, nhân vật
trong tiểu thuyết được miêu tả qua những chi tiết, những xung đột và tình

huống khác nhau. Trong công trình Bàn về tiểu thuyết, Phạm Quỳnh có cái
nhìn bao quát về tiểu thuyết truyền thống. Nhân vật trong tiểu thuyết theo tác
giả “Không nhất thiết phải là người siêu bạt quần chúng, lại thường thường là
những người bình thường như mọi người” [24;101]. Vì vậy, nhân vật trong tiểu
thuyết được miêu tả một cách chân thực khách quan, song nó phải có cuộc đời,
cá tính riêng, độc lập. Người viết có thể khai thác nhân vật một cách tỉ mỉ, theo
từng bước thăng trầm của số phận. Đối với mỗi nhân vật văn học thì tính cách
được coi là điểm quan trọng nhất. Vì ý nghĩa của rất lớn như vậy nên trước kia
ở một số giáo trình Nga gọi là nhân vật tính cách. Ở đây cần phải hiểu là phẩm
chất xã hội lịch sử của con người thể hiện qua các đặc điểm cá nhân, gắn liền
với phẩm chất và tâm sinh lí của họ. Và tính cách tự nó cũng bao hàm những
thuộc tính như nét cụ thể, độc đáo của một con người cá biệt nhưng lại mang cả
những nét chung, tiêu biểu cho nhiều người khác ở mức độ nhất định.
Nhân vật có nhiều chức năng trong tác phẩm. Nhìn một cách tổng quát,
các chức năng đó là :
Thứ nhất, chức năng cơ bản của nhân vật là miêu tả và khái quát lên các
loại hình nhân vật trong tác phẩm văn học.
Thứ hai, nhân vật là người dẫn dắt bạn đọc vào thế giới khác nhau của
đời sống, giúp nhà văn mở cánh cửa vào hiện thực rộng lớn, tiếp cận những
đề tài, chủ đề mới mẻ.
Thứ ba, nhân vật biểu hiện tập chung tình cảm, tư tưởng, quan niệm
nghệ thuật của nhà văn về thế giới của con người.
Như vậy, nhân vật trong tiểu thuyết là phương tiện chủ yếu giúp nhà văn
phản ánh, khái quát hiện thực nhằm thể hiện qua niệm, tư tưởng riêng của tác
giả. Qua nhân vật, thế giới quan, hiện thực cuộc sống được hiện ra rõ nét nhất.
Ca ngợi nhân vật chính là ca ngợi đời, xót xa cho nhân vật chính là xót xa cho
xã hội, cho đời.
10



1.1.2.2. Cốt truyện
Giáo trình Lí luận văn học, do Trần Đình Sử (chủ biên) định nghĩa : “cốt
truyện là chuỗi các sự việc tạo dựng trong tác phẩm tự sự và kịch nằm dưới
lớp trần thuật, làm nên các sườn của tác phẩm” [25;92].
Phương Lựu trong cuốn Lí luận văn học nhận định : “cốt truyện là hình
thức nhận thức sơ đẳng nhất của truyện. Bất cứ truyện lớn nhỏ, cốt truyện nói
chung bao gồm các phần chính: nút thắt, phát triển, cao trào, mở nút... Cốt
truyện thực chất là các lời diễn biến của chuyện xảy ra cho đến khi kết thúc.
Nhà văn xây dựng cốt truyện là để phản ánh các mối quan hệ, mâu thuẫn của
đời sống” [17;101-102].
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học của Lại Nguyên Ân cũng đưa ra định
nghĩa cốt truyện: “cốt truyện là một phương diện của hình thức nghệ thuật, nó
trong lớp biến cố của tác phẩm. Tính truyện, có cốt truyện là một phẩm chất
có giá trị quan trọng của văn học, sân khấu nghệ thuật cùng loại. tring các thể
loại văn học, các cốt truyện là thành phần quan trọng thiết yếu của tự sự và
kịch, nhưng thường không có trong các tác phẩm trữ tình. Cốt truyện tạo ra
các môi trường hành động cho các nhân vật và cho phép tác giả thể hiện, lý
giải tính cách của chúng… cốt truyện có chức năng quan trọng là bộc lộ các
mâu thuẫn của đời sống, tức là thể hiện xung đột” [2;144].
Từ điển văn học viết: “cốt truyện là hệ thống hoàn chỉnh các sự việc và
hành động chính trong tác phẩm tự sự và kịch. Cốt truyện hình thành từ
những quan hệ phức tạp chồng chéo giữa nhân vật và hoàn cảnh, nhân vật và
nhân vật, vừa bộc lộ tính cách nhân vật vừa phản ánh các mối quan hệ xã hội.
Cơ sở của cốt truyện là những mâu thuẫn và xung đột trong đời sống xã hội
mà các nhà văn đã nhận thức , lý giải và thuật lại theo một dụng ý nhất định”
[22;161].
Phan Cư Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại thì cho rằng: “Cốt
truyện là cái sườn đã được chi tiết hóa một cách cụ thể và sinh động bao gồm
toàn bộ các sự kiện và hành động lớn nhỏ trong tác phẩm (kể cả những động
tác của đời sống tâm hồn bên trong được kể lại một cách có hình tượng)”

[8;292].
11


Như vậy có thể thấy cốt truyện là một thành phần quan trọng trong cấu
trúc của một tác phẩm tự sự và có liên quan mật thiết đến đời sống của nhân
vật. Cốt truyện còn có ý nghĩa trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng và tạo nên
sức cuốn hút cho tác phẩm. Bất cứ tác phẩm tiêu biểu nào cũng có cốt truyện
dù cốt truyện đó có diễn biến đơn giản hay phức tạp; khái quát nên những
sung đột xã hội và thể hiện sự đánh giá khác quan của tác giả đối với hiện thực
của đời sống. Cốt truyện là hệ thống các sự kiện, biến cố xảy ra với nhân vật
thông qua các mâu thuẫn ít hay nhiều. Qua đó bộc lộ tính cách, số phận của
nhân vật nhằm tái hiện cuộc sống của một xã hội nhất định. Bởi vậy phần cốt
lõi đó được tóm tắt, vay mượn hay thuật lại để sáng tạo nên các tác phẩm khác.
Về phương diện kết cấu và quy mô nội dung, có thể chia làm hai loại là
cốt truyện đơn tuyến và cốt truyện đa tuyến thường thể hiện ngắn gọn tập
trung thể hiện một giai đoạn trong cuộc đời nhân vật chính hoặc thể hiện tính
cách của một vài nhân vật chính. Cốt truyện trong dân gian thì thường đơn
giản, thường loại cốt truyện đơn tuyến. Ở truyện hiện đại như tiểu thuyết, cốt
truyện hết sức phức tạp và thường là kết truyện đa tuyến. Thường xuất hiện
trong văn học dân gian và kịch bản văn học. Ngược lại với cốt truyện đơn
tuyến, cốt truyện đa tuyến thường có hai nhân vật (trung tâm) trở lên, nhằm
thể hiện một hay nhiều chủ đề nhất định về tác phẩm ví dụ như tiểu thuyết…
Anh em nhà karamazop, chiến tranh và hòa bình (Tolstoi)....
Theo tiểu thuyết gia theo trào lưu thiểu thuyết mới (Pháp) cốt truyện
được viết như sau: cái làm nên sức mạnh cho tiểu thuyết gia chính là ở chỗ
anh ta sáng tạo, anh ta hoàn toàn tự do sáng tạo, không có mô hình mẫu. Thực
chất trong tác phẩm tự sự cốt truyện là sợi dây liên kết các mối quan hệ nhân
vật, sắp xếp và tổ chức các sự việc diễn ra trong đó để thể hiện rõ nhất tư
tưởng, chủ đề của tác phẩm. Như vậy, thông qua các sự kiện, biến cố và tình

huống xảy ra trong truyện, nhà văn đã xây dựng nên được các tính cách điển
hình. Do vậy có thể thấy cốt truyện thực hiện các chức năng rất quan trọng
trong tác phẩm nó gắn kết các chuỗi sự kiện tạo thành lịch sử của một nhân
vật thực hiện khắc họa nhân vật, bộc lộ các xung đột mâu thuẫn của con
người, tái hiện lại đầy đủ nhất bức tranh về đời sống tạo ra những giá trị nhân
sinh, gây nên sự hấp dẫn, tò mò về số phận của các nhân vật trong truyện. Đối
12


với một hình thức tự sự cỡ lớn như tiểu thuyết thì việc tác giả thể hiện đầy đủ
bức tranh đời sống không bó hẹp trong khuôn khổ cốt truyện nào mà cốt
truyện có thể tự do với thời gian và không gian trong tác phẩm nhà văn thoải
mãi sáng tạo để thể hiện cá tính riêng, những đánh giá nhận thức về thế giới
quan riêng tùy vào dụng ý của tác giả thậm chí còn còn chứa đựng những yếu
tố “ thừa” so với các thể loại khác. Cốt truyện là hình thức tổ chức sơ đẳng
nhất của truyện. Các thành phần của cốt truyện thường được nêu lên theo tiến
trình phát triển của các sự kiện từ lúc hình thành cho đến khi kết thúc. Cốt
truyện truyền thống theo mô típ quen thuộc gồm 5 thành phần: trình bày,
(khai đoạn), thắt nút, phát triển, đỉnh điểm (cao trào), mở nút và kết thúc.
Xuất phát từ đặc trưng ưu việt nên tiểu thuyết là thể loại văn học có khả
năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học
khác. Như vậy, cốt truyện tiểu thuyết khác hẳn với các thể loại khác chỉ có hệ
thống sự kiện, biến cố và những chi tiết, thể hiện tính cách của nhân vật mà
còn thể hiện được sự suy tư, cách nhìn nhận của nhân vật về thế giới quan, về
đời người, phân tích diễn biến các tâm lí tình cảm.
1.1.2.3 Kết cấu
Tác phẩm văn học được coi là đứa con tinh thần của mỗi nhà văn nên
nó được coi là một chỉnh thể nghệ thuật độc đáo để xây dựng nên chỉnh thể đó
nhà văn phải suy nghĩ, tổ chức các yêu tố kết hợp các yếu tố trong tác phẩm
thành một chỉnh thể nghệ thuật vì thế kết cấu tiểu thuyết là một yếu tố quan

trọng bảo gồm cả mặt ngữ nghĩa lẫn hình thức nghệ thuật. Về mặt ngữ nghĩa
kết cấu là sư kết hợp, tổ chức hệ thống chủ đề, đề tài hệ thống nhân vật, hình
thức cốt chuyện có thể gọi là kết cấu bên trong. Còn về mặt hình thức nghệ
thuật, kết cấu đề cập tới các nguyên tắc kết hợp các phương thức tự sự, những
kỹ thuật hình thức… chính vì thế khi tìm hiểu về nghệ thuật tự sự, chúng ta
không thể không bàn đến phương tiện kết cấu.
Theo Aristote trong Nghệ thuật thơ ca, cho kết cấu là “cái hoàn chỉnh
là cái có phần đầu, phần giữa và phần cuối. Phần đầu là cái không nôi tiêp
theo cái khác, trái lại, theo quy luật tự nhiên, phải cỏ cải gì tổn tại hoặc tiếp
theo sau nó; phần cuối là cái mà theo tính tất yêu hay theo lẽ thường đều phải

13


theo sau cải gì đó và sau nó không còn cái khác phải tiêp theo; phần giữa là
cải phải tiêp theo sau cái khác và cái khác nữa lại đi sau nó. Vậy cốt truyện
được xây dựng một cách khéo léo phải tuận theo định nghĩa đó, chứ không
được tùy tiện bắt đầu và kêt thúc chỗ nào cũng được” [4;40].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì kết cấu được định nghĩa: “Kết cấu
là toàn bộ tô chức phức tạp và sinh động của tác phẩm... Kết cấu thế hiện nội
dung rộng rãi phức tạp hơn, tô chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiêp nôi
bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn
bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác
phẩm... Kết cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết
cấu đảm nhiệm các chức năng rất đa dạng: bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng của
tác phẩm; triển khai trình bày hấp dẫn cốt truyện; cấu trúc hợp lí hệ thống tính
cách; tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả; tạo ra tính toàn vẹn của tác
phẩm như một hiện tượng thẩm mĩ” [11;15-157].
Từ các định nghĩa trên có thể hiểu kết cấu là sự tổ chức, sắp xếp các
yếu tố trong cùng một tác phẩm để tạo thành một thực thể thống nhất, vẹn

toàn. Trong tác phẩm văn học, không phải cứ là tổ chức thì được coi là kết
cấu của tác phẩm.Tuy nhiên cần nhận thấy rằng, chỉ được coi là kết cấu nghệ
thuật khi nó ra đời với ý đồ nghệ thuật của tác phẩm, đem lại dụng ý của tác
giả và thể hiện quy luật của đời sống. Đó cũng là điều trăn trở, có thể coi là tài
liệu sống khi tác giả vật lộn với nó, biểu hiện một chân lý, một tư tưởng nhất
định. Các tác phẩm văn học không chỉ khác nhau về chất liệu hiện thực còn
khác nhau về các bố trí, sắp xếp và tổ chức được thể hiện thông qua cách cấu
tạo của các đoạn thơ, các câu thơ... ở bình diện này người ta xem xét cuốn
tiểu thuyết có bao nhiêu chương, vở kịch có mấy lớp, mấy hồi…
Như vậy, thực chất kết cấu chính là sự tổ chức, sự sáng tạo và liên kết
các bộ phận trong tác phẩm. Kết cấu được coi là yếu tố quan trọng trong hình
thức nghệ thuật, chúng ta có thể xem xét kết cấu trên rất nhiều bình diện. Và
điều quan trọng trong kết cấu một tác phẩm mà mọi người quan tấm đến đó
chính là nó thể hiện được nội dung ý nghĩa tác phẩm như thế nào và hiểu quả
mà tác phẩm để lại trong lòng độc giả ra sao qua đó thể hiện được tài năng tư
tưởng và phong cách nghệ thuật của tác giả. Cần lưu ý rằng trong quá trình
14


sáng tác, không có kết cấu nhà văn không thể hoàn thành được tác phẩm. Vì
vậy kết cấu có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành một chỉnh thể sáng
tạo của nhà văn.
1.1.2.3. Thời gian và không gian nghệ thuật
Lê Ngọc Trà trong Lí luận và Văn học nhận định thời gian và không gian
trong văn học gồm hai mặt cơ bản: “Quan niệm thời gian - không gian của
nhà văn và tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm
[26;146]. Thời gian chính là phạm trù đặc trưng của văn học, bởi văn học
chính là nghệ thuật thời gian. Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: “Là hình thức
của hình tượng nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là một trong những phạm trù
quan trọng bởi vì nó thể hiện thực chất sáng tạo của người nghệ sĩ. Nghệ sĩ

có thể chọn điểm bắt đầu và điểm kết thúc có thể kể nhanh hay chậm, có thể
kể xuôi hay ngược, có thể chọn điểm nhìn từ quá khứ, hiện tại và tương lai,
có thể chọn độ dài một khoảnh khắc hay nhiều thế hệ, nhiều cuộc đời, thời
gian thể hiện ý thức sáng tạo của nghệ thuật” [29;63].
Thời gian nghệ thuật thể hiện sự tự cảm nhận của con người trong thế giới,
thường gắn liền với các cốt truyện như cổ tích. Đó là thời gian gắn liền với các
hoạt động của con người, gắn liền với các diễn biến sinh hoạt có thời gian gắn
liền với vận động của thời đại và lịch sử. Thời gian xuất hiện trong tác phẩm
như một hệ quy chiếu để miêu tả đời sống trong tác phẩm, cho thấy các đặc
điểm tư duy của nhân vật trong truyện. Gắn với phương tiện, phương diện thể
hiện lại có cách thức thể hiện riêng. Xét về cấu trúc và biểu hiện của thời
gian nghệ thuật thì có chia ra thời gian được trần thuật và thời gian trần thuât.
Nói như Nguyễn Thị Bích Hải “thời gian là một đại lượng để xác định quá
trình tồn tại, vận động, phát triển của mọi vật, mọi sự trong thế giới” (Nguyễn
Thị Bích Hải – Thi pháp thơ Đường – NXB Thuận Hóa 1995).
Nhà lí luận văn học Nga D.X.Likhachop cho rằng: “Thời gian vừa là
khách thể vừa là chủ thể đồng thời là công cụ phản ánh của văn học, rằng văn
học ngày nay càng thấm nhuần ý thức và cảm giác về sự vận động của thế
giới trong hình thức hết sức đa dạng của thời gian” [21;61].
Cùng với thời gian thì không gian cũng là hình thức tồn tại của thế giới
15


hiện thực. Tuy nhiên không gian trong văn chương khác với không gian
trong thực tế. Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê đã cắt nghĩa, lí giải
về không gian như sau: “Không gian là khoảng không gian bao trùm lên tất
cả sự vật hiện tượng xung quanh đời sống con người” [23;633]. Để hiểu rõ
hơn khái niệm không gian nghệ thuật một cách cơ bản và khái quát nhất, Lê
Bá Hán trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Không gian nghệ thuật là
hình thức tồn tại cùng thế giới nghệ thuật” [11;88]. Trong Dẫn luận thi pháp

học Trần Đình Sử cũng đã nhận định: “Không gian nghệ thuật là sản phẩm
của sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một
quan điểm nhất định về cuộc sống [28;89]. Từ đó ta có thể thấy không gian
nghệ thuật trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống. Cho ta thấy được quan
niệm của tác giả về thế giới, chiều sâu cảm thụ của một tác giả và gửi gắm nó
vào trong một tác phẩm văn học qua các hình tượng nghệ thuật. Và qua đó
cho ta thấy được tính cách, nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
1.1.2.4. Ngôn ngữ
Từ điển thuật ngữ văn học viết: “Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ có tính
chất nghệ thuật của tác phẩm văn học. Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ này có
ý nghĩa rộng hơn, nhằm bao quát các hiện tượng ngôn ngữ được dùng một
cách chuẩn mực trong các văn bản nhà nước, trên báo chỉ, trên đài phát thanh,
trong văn học và khoa học. Ngôn ngữ là công cụ, là chât liệu cơ bản của văn
học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ”.
Trong giáo trình Lí luận văn học, tập 2, Trần Đình Sử (chủ biên) cho
rằng: “Ngôn từ là một hiện tượng nghệ thuật, thẩm mĩ độc đáo, khác hẳn khoa
học và lời nói đời thường. Nó chịu sự chi phối của trí tưởng tượng và đặc
điếm tư duy nghệ thuật của nhà văn, mang dấu ấn của thế loại và văn hóa thời
đại” [25;53]
Từ các cách hiểu trên cho thấy ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ được sử
dụng một cách nghệ thuật trong các tác phẩm văn học đó là ngôn ngữ mang
tính hình tượng tính biểu cảm mang dấu ấn riêng cá tính sáng tạo của nhà văn.
Bản chất của ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ mang tính cụ thể, toàn
vẹn, sinh động có tính thẩm mĩ trong các tác phẩm văn học chứ không phải là
16


ngôn ngữ trong các hoạt động giao tiếp hàng ngày hoặc là ngôn ngữ với tư
cách là đối tượng chuyên biệt của ngôn ngữ học. Nằm trong tổ chức nội tại
của văn học, ngôn ngữ văn học được phân hóa qua các thể loại của văn học.

Mỗi thể loại lại có những đặc trưng riêng biệt: trữ tình là ngôn ngữ giàu nhạc
tính, cách điệu, gợi cảm thì ngôn ngữ kịch lại gắn với đối thoại, gần với ngôn
ngữ đời thường; ngôn ngữ tự sự thì gắn bó chặt chẽ với ngôn ngữ trần thuật.
M. Gorki khẳng định “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”.
Mỗi một loại hình nghệ thuật đều sử dụng một chất liệu riêng để xây
dựng hình tượng. Nếu như âm nhạc dùng âm thanh, nhạc điệu hội họa sử
dụng màu sắc, đường nét… thì văn học sử dụng ngôn từ làm chất liệu để xây
dựng nên hình tượng nghệ thuật. Ngôn ngữ nghệ thuật là một chất liệu đặc
biệt, bằng cách này hoặc bằng một cách nào đó ngôn ngữ tác động thật sâu
vào trí tưởng tượng những xúc cảm lay động tâm hồn người đọc. Đó cũng là
tính phi vật thể của hình tượng nghệ thuật ngôn từ. Vì vậy, ngôn từ nghệ thuật
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong các hoạt động sáng tác cũng như tiêp
nhận văn học.
Với hoạt động sáng tác ngôn ngữ nghệ thuật là công cụ là chất liệu để nhà
văn nhào nặn, sáng tạo nên những hình tượng nghệ thuật và là nơi tác giả gửi
gắm ý đồ nghệ thuật. Ngôn ngữ trở thành phương tiện biểu hiện nghệ thuật, là
một trong những yếu tố quan trọng trong việc thể hiện cá tính sáng tạo, phong
cách tài năng của người nghệ sĩ. Nó cũng là sự biểu hiện trong phong cách,
quan điểm, lập trường, ý thức sáng tạo mà nhà văn gửi gắm trong đó. Đó có
thể là ngôn ngữ bông đùa, hài hước của người có tư duy trào rộng, có thứ
ngôn ngữ mực thước, trang nghiêm của người uyên thâm, tao nhã. Dù là thứ
ngôn ngữ như thế nào đi chăng nữa đã gắn liền với người nghệ sĩ thì ngôn
ngữ cũng là thứ đã được sáng tạo một cách sâu sắc có ý thức.
Ngôn ngữ nghệ thuật còn mang đậm dấu ấn văn hóa, mỗi trào lưu văn
học mang dấu ấn thời đại đều có nét riêng biệt khi sử dụng ngôn ngữ mỗi nhà
văn với cá tính sáng tạo của mình, tạo ra một phong cách ngôn ngữ riêng
mang đậm dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ. Có thể nói rằng, ngôn ngữ tiểu
thuyết là thì hiện tại năng động và đa sang, có sự tự ý thức. Chính điều đó đã

17



thổi hồn mang một làng gió mới làm phong phú hơn diện mạo của một nền
văn học dân tộc.
1.1.2.5. Giọng điệu
Giọng điệu được coi là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học,
mang đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo. Cũng như giọng nói nó giúp
ta nhận ra con người, giúp ta nhận ra tác giả đó chính là hơi thở của người
nghệ sĩ mang đậm dấu ấn cá nhân thể hiện cái tôi của tác giả. Giọng điệu là
sợi dây liên kết giữa người kể chuyện và người đọc, giữa tác giả và tác phẩm.
Như vậy, giọng điệu là một yếu tố không thể thiếu thậm chí là quan trọng
trong việc làm nên thành công của một tác phẩm và cũng là một yếu tố làm
nên phong cách nghệ thuật của một tác giả.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập
trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đôi với hiện tượng được miêu tả, thể
hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm,
cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm
biếm... ” [5;134].
Giọng điệu là “ thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng đạo đức của nhà văn
đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn”, là “mối quan hệ giữa
chủ thể và hiện thực khách quan thể hiện bằng hành vi ngôn ngữ trong đó bao
hàm cả việc định hướng đánh giá và thói quen cá nhân sử dụng ngôn từ trong
những tình huống cụ thể”. Các nhà nghiên cứu đã phân biệt kiểu cách giọng
dùng để kể (giọng điệu trần thuật) và thể hiện lập trường quan điểm đối
với hiện thực (giọng điệu sắc thái thẩm mỹ). Giọng điệu trong mỗi tác
phẩm gắn liền với giọng điệu của mỗi tác giả nhưng không đồng nhất với
giọng tác giả ngoài đời mà nó mang một nội dung tương đối khái quát phù
hợp với đối tượng thể hiện.
M.B.Khrapchenkô đã nhận định: “đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được
thể hiện trong môi trường và giọng điệu nhất định với đối tượng sáng tác, đối

với những mặt khác của nó. Hiệu suất cảm xúc của lối kể chuyện, của hành
động kịch, của lời lẽ trữ tình trước hết thể hiện ở giọng điệu chủ yếu vốn là
đặc trưng của tác phẩm văn học với tư cách là một thể thống nhất hoàn chỉnh”
18


[7;168]. Như thế, giọng điệu trần thuật giữ một vai trò quan trọng trong tác
phẩm tự sự.
Qua quan điểm của các nhà nghiên cứu chúng tôi đi đến kết luận rằng:
Giong điệu trần thuật là thái độ, là tình cảm của nhà văn đối với sự vật, hiện
tượng được người đọc cảm nhận qua sắc thái biểu cảm của lời văn. Do vậy,
giọng điệu được coi như một vật liệu kết dính hoàn hảo giữa nhà văn, tác
phẩm và độc giả.
Trong văn học, giọng điệu của tác phẩm là yếu tố đặc trưng của hình
tượng giúp người đọc nhận ra cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Giọng điệu
khác hẳn với âm thanh, dấu hiệu nhận ra ngữ điệu, giọng nói của từng người.
Trong bài nghiên cứu Giọng và giọng điệu văn xuôi hiện đại, Lê Huy Bắc đã
cho rằng: “giọng điệu là âm thanh xét ở góc độ tâm lí, biểu hiện ở thái độ
buồn, vui, giận, hờ hững...” để phân biệt với “giọng là âm thanh xét từ góc độ
vật lí” [5;67]. Không nên lẫn lộn giọng điệu với ngữ điệu là phương tiện biểu
hiện của lời nói, thể hiện sự lên xuống của giọng nói. Giọng điệu đòi hỏi người
trần thuật, người kể chuyện hay nhân vật trữ tình phải có khẩu khí và giọng
điệu riêng. Các tác phẩm văn học thường mang giọng điệu đa dạng, đa sắc
thái chứ không hề đơn điệu, tẻ nhạt. Nó cũng là thước đo không thể thiếu để
xác định tài năng và phong cách của người nghệ sĩ. Giọng điệu tạo thành âm
hưởng bao trùm lên toàn bộ tác phẩm. Một tác phẩm không có giọng điệu thì
đơn thuần là nhà văn ghi chép lại cuộc sống bằng sự dàn trải và đầy tẻ nhạt.
1.2.Tiểu thuyết Không gia đình
1.2.2. Hoàn cảnh ra đời:
Tác phẩm Không gia đình được ra đời ở giai đoạn thế kỷ XIX, là thế kỷ

của cuộc cách mạng nghệ thuật ở nước Pháp. Ở giai đoạn này, nước Pháp
đang rơi vào tình trạng khủng hoảng chính trị, kinh tế và xã hội sâu sắc.
Đặc điểm của nền chính trị Pháp giai đoạn này chủ yếu là thường xuyên xảy
ra khủng hoảng nội các. Sau hiến pháp 1875, phái cộng hòa ôn hòa lên cầm
quyền, công xã Paris thất bại, một nền chính trị phản động đen tối bao trùm
lên nước Pháp. Trong gia đoạn này, nước Pháp cũng đang ráo riết chạy đua vũ
trang để trả thù Đức, tiến hành những cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa,
19


×