TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
=====***=====
PHÙNG THỊ THU
TRANG
TIỂU THUYẾT CHÚA ĐẤT
CỦA ĐỖ BÍCH THÚY DƯỚI GÓC NHÌN
VĂN HÓA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI
HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt
Nam
HÀ NỘI, 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
=====***=====
PHÙNG THỊ THU
TRANG
TIỂU THUYẾT CHÚA ĐẤT
CỦA ĐỖ BÍCH THÚY DƯỚI GÓC NHÌN
VĂN HÓA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI
HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt
Nam
Người hướng dẫn khoa học:
TS.GVC. Nguyễn Thị Tuyết
Minh
HÀ NỘI, 2019
LỜI CẢM
ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất đến
TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh – Giảng viên tổ Văn học Việt Nam đã
trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện
đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn các thầy/ cô trong khoa Ngữ văn –
Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành
khóa luận này.
Khóa luận được hoàn thành song không tránh khỏi thiếu sót. Tôi
rất mong nhận được sự góp ý của các thầy/ cô để khóa luận của tôi
được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng 5 năm
2019
Sinh viên
Phùng Thị Thu
Trang
LỜI CAM
ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu
của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS Nguyễn Thị Tuyết Minh và
không trùng lặp với bất kì đề tài nghiên cứu nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm với lời cam đoan của
mình!
Hà Nội, ngày tháng 5 năm
2019
Sinh viên
Phùng Thị Thu
Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................
1
1. Lí do chọn đề
tài.................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề
....................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên
cứu............................................................................. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
......................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu
...................................................................... 6
6. Đóng góp của khóa
luận........................................................................ 7
7. Cấu trúc của khóa
luận......................................................................... 7
NỘI DUNG ...............................................................................................
8
Chương 1. GIỚI THUYẾT CHUNG
........................................................ 8
1.1. Mối quan hệ văn hóa - văn học và hướng nghiên cứu văn học từ
góc
nhìn văn hóa .............................................................................................
8
1.1.1. Mối quan hệ văn hóa – văn
học........................................................ 8
1.1.2. Hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa............................
10
1.2. Văn hóa của dân tộc H’Mông ở Hà Giang .......................................
12
1.3. Tác giả Đỗ Bích Thúy với văn hóa dân tộc H’Mông ........................
14
1.3.1. Đôi nét về tác giả Đỗ Bích Thúy .....................................................
14
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác .........................................................................
15
1.3.3. Tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy và sự phản ánh văn hóa
dân
tộc H’Mông .............................................................................................
18
Tiểu kết
20
Chương 2. BIỂU HIỆN VĂN HÓA TRONG TIỂU THUYẾT CHÚA
ĐẤT
CỦA ĐỖ BÍCH THÚY ...........................................................................
22
2.1. Đời sống sinh hoạt vật chất ..............................................................
22
2.2. Đời sống văn hóa tinh thần...............................................................
28
2.2.1. Những phong tục truyền thống.......................................................
28
2.2.2. Một số luật tục, hủ tục....................................................................
30
2.3. Ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp ..
.........................................................................................................
33
Tiểu kết
Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN
VĂN
HÓA TRONG TIỂU THUYẾT CHÚA ĐẤT CỦA ĐỖ BÍCH THÚY.....
36
3.1. Hình tượng nghệ thuật.....................................................................
36
3.1.1. Hình tượng con người....................................................................
36
3.1.2. Hình tượng thiên nhiên..................................................................
44
3.2. Ngôn ngữ và giọng điệu....................................................................
46
3.2.1. Ngôn ngữ đặc trưng của vùng cao Hà Giang..................................
47
3.2.2. Giọng điệu trữ tình.........................................................................
48
3.3. Thời gian và không gian nghệ thuật.................................................
49
3.3.1. Thời gian nghệ thuật......................................................................
49
3.3.2. Không gian nghệ thuật...................................................................
51
Tiểu kết
KẾT LUẬN.............................................................................................
53
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................
55
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề
tài
Văn học và văn hóa là hai phạm trù có mối quan hệ với nhau. Văn
học là gương mặt, là nơi kết tinh của văn hóa dân tộc, còn văn hóa có
khả năng chi phối, tác động ở chiều sâu văn học. Gần đây “nhờ
UNESCO phát động những thập kỷ phát triển văn hóa, nhờ thức nhận
văn hóa là động lực của phát triển, nên quan hệ văn hóa và văn học
được chú ý nhiều hơn. Đặc biệt, khi xuất hiện văn hóa học và nhân học
văn hóa thì văn hóa bắt đầu được coi là nhân tố chi phối văn học. Đã có
một số tác giả đi theo hướng nghiên cứu này như Trần Đình Hượu, Trần
Ngọc Vương, Đỗ Lai Thúy, Trần Nho Thìn... Và, khi một số công trình
của M.Bakhtin được dịch và giới thiệu ở Việt Nam thì hướng đi này càng
được khẳng định” [27].
Văn học là nơi mà những giá trị văn hóa của dân tộc được thể hiện
chân thực và sâu sắc nhất. Do đó một tác phẩm văn chương ưu tú thường
phản ánh và kết tinh những giá trị văn hóa của thời đại ấy. Đó có thể là
những giá trị văn hóa tinh thần hay vật chất được biểu hiện qua các
phương diện như phong tục tập quán, hủ tục, cuộc sống sinh hoạt, con
người… Ngược lại, văn hóa cũng tác động đến văn học qua cách miêu
tả, cảm nhận, xử lí đề tài của nhà văn trong quá trình sáng tác; đồng thời
cũng chi phối đến hoạt động tiếp nhận, thưởng thức, đánh giá của độc
giả. Do đó, việc nghiên cứu văn học của một dân tộc không thể tách rời
với văn hóa của dân tộc ấy và cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa
là một hướng đi tất yếu, một xu hướng nghiên cứu khoa học; nó không
chỉ khắc phục được những hạn chế nhất định của việc nghiên cứu văn
học bằng chính văn học mà có thể khai mở thêm những giá trị mới, ý
nghĩa mới cho văn học.
1
Đỗ Bích Thúy là nữ nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam đương
đại. Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã nhận xét rằng, chị “là một trong những
cây bút nữ quan trọng nhất hiện nay ở mảng văn học về đề tài miền núi”
[4]. So với
2
các tác giả đương đại, Đỗ Bích Thúy đã tìm cho mình một lối đi riêng,
mang đến cho văn học một “hơi thở” mới. Nếu như nhà văn Cao Duy
Sơn chủ yếu viết về lũng Cô Sầu (Trùng Khánh - Cao Bằng), Phạm
Duy Nghĩa viết về đường biên khắp núi rừng Tây Bắc thì Đỗ Bích
Thúy lại gắn liền với Hà Giang – mảnh đất tuổi thơ của chị. Chị viết về
thiên nhiên, lịch sử, văn hoá, con người Hà Giang trong tâm thế của
một người trong cuộc. Cùng viết về Việt Bắc và Tây Bắc – những miền
đất vàng của văn chương miền núi, nơi ngưng tụ nguồn mạch chính của
văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam nếu Tô Hoài, Ma Văn Kháng,
Nguyễn Huy Thiệp là người miền xuôi đi thực tế, kiếm tìm tư liệu để
viết; Cao Duy Sơn, Vi Hồng là nhà văn dân tộc Tày viết cuộc sống của
dân tộc mình thì Đỗ Bích Thúy lại là người dân tộc Kinh (quê gốc ở
Nam Định) nhưng được sinh ra và lớn lên ở Hà Giang lại chọn chính
Hà Giang làm “mảnh đất màu mỡ” để chị “canh tác” trên “cánh đồng
văn chương”. Và trong buổi giao lưu với độc giả diễn ra tại Hà
Nội ngày
13/1/2016, Đỗ Bích Thúy chia sẻ rằng: “Với tất cả những gì tôi viết thì
mới chỉ được một phần rất nhỏ so với những gì Hà Giang có và tôi nhận
được từ Hà Giang, đặc biệt là văn hóa Mông. Người Mông đã ở Hà
Giang rất nhiều năm rồi. Dân tộc Mông chủ yếu sống ở vùng đặc biệt
nhất của Hà Giang là vùng cao núi đá, chủ yếu ở 4 huyện với thiên
nhiên khắc nghiệt, sẽ quy định lối sống, tập quán canh tác và tạo cho
người Mông một nền văn hóa đặc sắc, dày dặn. Và tôi nghĩ nếu tôi viết
đến già cũng không hết được vùng văn hóa
đó” [23].
Chúa đất là tác phẩm văn học thứ 13 của Đỗ Bích Thúy viết về đề
tài miền núi sau một số tác phẩm đã gây được tiếng vang trước đó như:
Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Sau những mùa trăng, Ngải đắng ở trên
núi, Lặng yên
dưới vực sâu... Hơn18 năm sinh sống và làm việc ở Hà Nội, nữ nhà văn
từng có bước chuyển vùng sáng tác về đô thị, nhưng sau đó chị lại tiếp tục
quay về với đề tài miền núi máu thịt, nơi luôn khiến văn chương của
chị thăng hoa.
Tiểu thuyết Chúa đất do Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành và xuất bản vào
năm
2016. Trong tác phẩm này, Đỗ Bích Thúy đã thể hiện chân thực và sinh
động những giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc H’Mông ở Hà Giang.
Vì những lí do trên chúng tôi quyết định thực hiện nghiên cứu đề
tài: Tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy từ góc nhìn văn hóa để tiếp
tục luận giải sâu hơn về tiểu thuyết của Đỗ Bích Thúy.
2. Lịch sử vấn
đề
Trong phạm vi đề tài khóa luận, chúng tôi đi từ mối quan hệ hai
chiều giữa văn học và văn hóa để đi sâu khám phá tiểu thuyết Chúa
đất của Đỗ Bích Thúy, tìm hiểu và đánh giá giá trị nội dung và các yếu
tố nghệ thuật tác phẩm dưới góc nhìn văn hóa. Đồng thời cũng cho thấy
những đóng góp của Đỗ Bích Thúy đối với văn học Việt Nam đương
đại. Sau đây chúng tôi xin liệt kê những công trình, bài báo nghiên cứu
có liên quan đến nội dung đề tài:
Báo Văn nghệ trẻ (số ra ngày 11/3/2001), Điệp Anh với bài báo
Gặp
hai nữ thủ khoa truyện ngắn trẻ đã nhận xét: “Thế mạnh của Đỗ Bích
Thúy là đời sống của người dân Tây Bắc, với những không gian vừa
quen vừa lạ, những phong tục tập quán đặc thù khiến người đọc luôn
cảm thấy tò mò và bị cuốn hút (...) Trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy,
không gian Tây Bắc hiện lên đậm nét, để lại dư vị khó quên trong lòng
độc giả.” [1, 3]
Cũng trên báo Văn nghệ trẻ (số 3/2005), Lê Thành Nghị trong bài
báo
Từ truyện ngắn của một người viết trẻ cảm nhận: “Chúng ta sẽ bước
vào một không gian lạ, không gian có núi cao, trời rộng của vùng núi
phía Bắc, nơi từ đó nhìn xuống, dòng sông Nho Quế chỉ còn bé như sợi
chỉ dưới chân núi Mã Pí Lèng. Một không gian đầy hoa lá rừng, có
tiếng gà gáy tách te trong bụi rậm, có những dòng suối trong suốt với
những viên cuội đỏ, có những chàng trai thổi sáo theo sau các cô gái
khoác quẩy tấu xuống chợ; những nồi thắng cố nghi ngút khói trong
phiên chợ vùng cao đầy màu sắc; những đêm trăng sóng sánh huyền ảo,
những cụm mần tang mọc trong thung
lũng; tiếng đàn môi réo rắt sau bờ rào đá; lễ hội gầu tào với điệu hát
gầu
Plềnh mê đắm của các cô gái, chàng trai người Mông trên đỉnh núi...”
[17].
Nhà văn Trung Trung Đỉnh cảm nhận văn phong Đỗ Bích Thúy
trong
bài viết Đọc truyện ngắn Đỗ Bích Thúy in trên báo Văn nghệ (sô 5 ra
ngày
3/2/2007): “Đỗ Bích Thúy có khả năng viết truyện về cảnh sinh hoạt
truyền thống của con người miền cao một cách tài tình. Không truyện nào
là không kể về cách sống, lối sinh hoạt, nết ăn ở và cả quang cảnh sinh
hoạt lễ hội, phong tục tập quán. Truyện nào cũng hay cũng mới, cũng lạ
mặc dù các tác giả không hề cố ý đưa vào chi tiết lạ. Thế mà đọc đến đâu
ta cũng sững sờ và bị chinh phục bởi những chi tiết rất đặc sắc chỉ người
miền cao mới có” [9, 58].
Trên báo điện tử VTV (số ra ngày 14/1/2016), trong bài viết Chúa
đất của Đỗ Bích Thúy – Bi kịch tình yêu bạo chúa, nhà báo Đinh Thúy
có trích dẫn lời nhận xét của nhà văn Bùi Việt Thắng: “bằng sự tưởng
tượng phong phú, chị đã dịch chuyển được truyền thuyết và thực tại,
kéo thời gian từ xa đến gần, biến cái vô hình thành hữu hình. Chúa đất là
câu chuyện về cái chết, nhưng là cái chết có ý nghĩa gieo mầm sự sống.
Xét từ góc độ văn hóa thì đó là vấn đề hủy diệt và sinh thành của sự
sống, cụ thể hơn là các giá trị sống được trả giá và bảo tồn như thế nào
trong sự biến thiên của lịch sử” [23].
Trên tựa đề cuốn tiểu thuyết Chúa đất, nhà văn Hoàng Đăng Khoa
có
trích dẫn “Chúa đất là một diễn ngôn văn chương ám gợi về vấn đề nữ
quyền nói riêng, nhân quyền nói chung, là khúc bi ca về cái đẹp bị dập
vùi, tình yêu bị ngáng trở, tự do bị cướp đoạt nhưng đồng thời cũng là
khúc hoan ca về sự nổi loạn của cái đẹp, của tình yêu, của tự do” [24, 8].
Trên báo điện tử Nhân dân (số ra ngày 29/1/2016), trong bài viết
Chúa
đất của Đỗ Bích Thúy đủ giàu hình ảnh để lên phim , Nhà thơ Hữu Việt
nói rằng: “cuốn sách có nhiều chi tiết miêu tả nếu dựng thành phim thì
có nhiều lợi thế bởi chất Mông, cảnh sắc thiên nhiên, con người dân
tộc đậm chất” [16]. Đạo diễn trẻ Đỗ Thanh Sơn khẳng định: “Chúa đất
đủ chất liệu để trở
thành một tác phẩm điện ảnh...” [16]. Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý cũng
nhận xét rằng:“Từ một truyền thuyết về chúa đất Sùng Chúa Đà, Đỗ Bích
Thúy đã dựng lên một tiểu thuyết vô cùng sống động với những phong
tục, tập quán, tính cách, diện mạo khá rõ nét về từng nhân vật”
[16]. Nhà văn Sương Nguyệt Minh cho rằng: “Đỗ Bích Thúy đã làm
được một việc lớn mà không nhiều nhà văn làm được, đó là hai năm về
trước viết văn như thế nào, thì cho đến nay vẫn giữ nguyên như vậy
không thay đổi. Có những nhà văn thay đổi cách viết liên tục. 15 năm
trước, văn của Đỗ Bích Thúy là văn của một sự lấp lánh, lung linh, Bây
giờ đã bớt đi phần nào độ lung linh, thêm vào đó hiện thực và sự sâu
sắc hơn” [16]. Nhà văn Sương Nguyệt Minh còn nhận xét rằng: “một
tiểu thuyết có thể coi là thành công khi có ba nhân vật thành công, đằng
này Chúa đất giải quyết được hết tất cả các tuyến nhân vật” [16]. “Nếu
độc giả không có thời gian, chỉ cần đọc 50 trang đầu là giải quyết hết
được mọi mâu thuẫn trong cuốn sách. Tuy nhiên, trong thực tế thì khó
một độc giả nào có thể bỏ cuốn sách xuống khi chưa lật đến trang cuối
cùng” [16].
Nhìn chung, những công trình, bài viết ở trên có tiếp cận và nghiên
cứu tác phẩm của Đỗ Bích Thúy nhưng mới chỉ dừng lại ở những nhận
xét khái quát. Nhìn nhận và nghiên cứu chuyên biệt tiểu thuyết Chúa
đất ở góc nhìn văn hóa thì đến nay chưa có một công trình nào thực
hiện. Đây là khoảng trống thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài khóa luận
Tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy dưới góc nhìn văn hóa. Chúng
tôi xem những ý kiến ở trên sẽ là những gợi mở để triển khai đề tài này,
với mong muốn góp thêm một tiếng nói khẳng định đóng góp của Đỗ
Bích Thúy ở đề tài vùng cao.
3. Mục đích nghiên
cứu
Thực hiện đề tài Tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy dưới
góc nhìn văn hóa nhằm hướng tới các mục đích sau:
- Có cái nhìn khái quát về tác giả Đỗ Bích Thúy, sự nghiệp sáng tác
của chị đặc biệt là các sáng tác viết về đề tài miền núi.
- Tìm hiểu bản sắc văn hóa miền núi nói chung và bản sắc văn hóa
dân tộc H’Mông ở Hà Giang nói riêng trong tiểu thuyết Chúa đất của
Đỗ Bích Thúy. Trên cơ sở đó, đem đến cho người đọc những trải nghiệm,
khám phá về văn hóa vùng cao ở cực Bắc của Tổ quốc.
- Những đóng góp của Đỗ Bích Thúy với sự phát triển mảng văn
xuôi miền núi, dân tộc của văn học Việt Nam hiện đại cũng như đối với
sự nghiệp xây dựng và phát triển đời sống văn hóa vùng cao.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là tiểu thuyết Chúa đất của
Đỗ Bích Thúy do NXB Phụ nữ xuất bản năm 2016. Cụ thể là những
biểu hiện văn hóa người Mông ở cả phương diện nội dung và nghệ thuật.
- Trong khuôn khổ phạm vi một khóa luận, chúng tôi chỉ tập trung
nghiên
cứu những biểu hiện văn hóa trong tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp xã hội học: Sử dụng phương pháp này, trước hết
chúng tôi tìm hiểu những tác động của các yếu tố văn hóa, xã hội của
vùng đất có ảnh hưởng như thế nào đến các yếu tố nội dung và nghệ
thuật của văn xuôi Đỗ Bích Thúy. Đồng thời, cũng lý giải những tín
hiệu văn hóa có trong tác phẩm của chị.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Phân tích hình thức
nghệ thuật tác phẩm để làm rõ biểu hiện văn hóa trong tiểu thuyết Chúa
đất của Đỗ Bích Thúy.
- Phương pháp hệ thống: Đặt tác phẩm Chúa đất trong mối
quan
hệ biện chứng với một số tác phẩm khác của Đỗ Bích Thúy và trong một
số
tác phẩm của các nhà văn khác cùng đề tài.
- Phương pháp liên ngành: tiếp cận đối tượng bằng nhiều cách
thức, dựa trên những dữ liệu của nhiều chuyên ngành như: văn hóa, lịch
sử…
- Kết hợp các thao tác thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp:
Đây là những thao tác cơ bản trong nghiên cứu các vấn đề văn học, giúp
người viết đi sâu vào khám phá những khía cạnh cụ thể của tác phẩm, từ
đó làm rõ biểu hiện văn hóa trong Chúa đất của Đỗ Bích Thúy.
6. Đóng góp của khóa luận
Đóng góp về mặt lý luận: Thông qua việc tiếp cận tiểu thuyết Chúa
đất của Đỗ Bích Thúy từ góc nhìn văn hóa, khóa luận góp phần làm rõ
hơn những vấn đề lý thuyết liên quan đến tiếp cận tác giả và tác phẩm
văn học bằng phương pháp văn hóa học.
Đóng góp về mặt thực tiễn: Khóa luận góp phần đi sâu tìm hiểu
những đặc điểm văn hóa trong tiểu thuyết Chúa đất Đỗ Bích Thúy, tiếp
cận tác phẩm của chị từ góc nhìn văn hóa. Công trình sẽ góp phần trong
việc nghiên cứu văn học bằng phương pháp tiếp cận văn hóa học
7. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận gồm 3 phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Phần Nội
dung được triển khai thành 3 chương
Chương 1: Giới thuyết chung
Chương 2: Biểu hiện văn hóa trong tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích
Thúy
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật biểu hiện văn hóa trong
tiểu thuyết Chúa đất của Đỗ Bích Thúy
NỘI DUNG
Chương 1
GIỚI THUYẾT
CHUNG
1.1. Mối quan hệ văn hóa - văn học và hướng nghiên cứu văn học từ
góc
nhìn
hóa
văn
1.1.1. Mối quan hệ văn hóa – văn
học
Để hiểu rõ tầm quan trọng của văn hóa và mối quan hệ biện chứng
giữa văn học và văn hóa trước hết chúng ta phải tìm hiểu khái niệm
“văn hóa”. “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy trong quá trình lao động thực tiễn, trong sự
tương tác với con người, tự nhiên xã hội” [13, 10]. Văn hóa là hồn cốt,
sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử dân tộc. UNESCO đã công nhận
văn hóa là cội nguồn trực tiếp để phát triển xã hội, có vị trí trung tâm
và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của
văn hóa, Đảng ta cũng xác định rằng: “Văn hóa có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển của con người và xã hội loài người. Văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, định hướng cho sự phát triển bền vững
của xã hội. Văn hóa thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội và
mọi hành vi của con người, điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con
người.” [5]
“Trong suốt chặng đường hơn 83 năm lãnh đạo nhân dân tiến
hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay,
Đảng ta luôn nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của văn hóa và
thường xuyên quan tâm lãnh đạo, phát huy sức mạnh văn hóa đối với sự
phát triển bền vững của đất nước” [5]. Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Đảng Trung ương (khóa VIII) tháng 7 năm 1998, Đảng đã
đặt mục tiêu: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
[5].
Văn hóa mang bản sắc và phương thức tồn tại của dân tộc. Để giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc, cần phát huy những giá trị tốt đẹp của
truyền thống, gạn lọc những mặt tiêu cực. Đặc biệt phải luôn luôn xác
định mục tiêu: hòa nhập chứ không hòa tan. Văn học nghệ thuật là
một lĩnh vực không nằm ngoài quy luật đó. Trải qua bao thăng trầm
của lịch sử, dân tộcViệt Nam đã thể hiện sức sống kiên cường, mãnh liệt.
Và chính sức sống ấy là tiền đề khơi nguồn để hình thành nên một nền
văn học dân tộc tuyệt vời như ngày hôm nay. Văn học là vừa là “máu”,
vừa là “linh hồn” của Tổ quốc. Dòng “máu” văn học ấy chảy trong lòng
dân tộc suốt những chặng đường dài của lịch sử, đi qua bao thác ghềnh,
phong ba và in dấu vào tâm hồn dân tộc chúng ta hôm nay với một sức
sống rạo rực, mãnh liệt.
Standal từng nói rằng:“Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống
xã hội”. Văn học lại là một trong những bộ phận hợp thành của văn hóa.
Do đó khi nhắc đến văn hóa của một dân tộc thì cũng đồng thời nói đến
bản sắc văn hóa trong văn học, các nhà lí luận văn học khẳng định:“Tính
dân tộc của văn nghệ là tổng hòa mọi đặc điểm độc đáo chung cho các
sáng tác của một dân tộc và phân biệt với các sáng tác dân tộc khác”
[11, 102]. Một tác phẩm văn chương mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc
thì nó phải kết tinh được những gì độc đáo nhất, tiêu biểu nhất của dân
tộc ấy. Và điều đó được biểu hiện trên cả hai phương diện nội dung và
hình thức.
Ở phương diện nội dung, văn hóa dân tộc được thể hiện qua phong
tục tập quán, ngôn ngữ, con người... Nó phải thể hiện được những nét
tinh túy nhất, tiêu biểu nhất của dân tộc ấy để khi đọc một tác phẩm
văn chương, ta như thấy sống lại những giá trị văn hóa một thuở. Đó có
thể là những hàng bạch dương, mùa thu vàng, thảo nguyên, cánh đồng
tuyết trắng, cỗ xe tam mã... trong văn học Nga; là trà đạo, hoa đạo trong
văn học Nhật Bản; là những làng quê thanh bình với cánh cò, cánh đồng
chiêm, câu hát ru à ơi... của văn học Việt Nam. Để khắc họa được những
bức tranh mang bản sắc văn hóa ấy