TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
NGÔ THỊ KHÁNH LINH
DIỄN NGÔN LỊCH SỬ
TRONG TIỂU THUYẾT ĐỨC THÁNH TRẦN
CỦA TRẦN THANH CẢNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học
HÀ NỘI, 2019
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
NGÔ THỊ KHÁNH LINH
DIỄN NGÔN LỊCH SỬ
TRONG TIỂU THUYẾT ĐỨC THÁNH TRẦN
CỦA TRẦN THANH CẢNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS. TS. PHÙNG GIA THẾ
HÀ NỘI, 2019
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành, sâu sắc tới các thầy cô giáo trong Tổ
Lí luận văn học - khoa Ngữ văn - Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, đặc biệt
là PGS.TS Phùng Gia Thế đã trực tiếp hƣớng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo tận tình
cho em trong suốt thời gian nghiên cứu, hoàn thành khóa luận này.
Do còn hạn chế về mặt thời gian cũng nhƣ kiến thức của bản thân nên khóa
luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận đƣợc sự góp ý từ
thầy cô và các bạn sinh viên để đề tài nghiên cứu của em đƣợc hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Tác giả khóa luận
Ngô Thị Khánh Linh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
- Khóa luận này là kết quả nghiên cứu nghiêm túc của cá nhân dƣới sự hƣớng
dẫn của PGS.TS. Phùng Gia Thế;
- Những số liệu và tài liệu đƣợc trích dẫn trong đây là trung thực;
- Kết quả nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã đƣợc công
bố trƣớc đó.
Tôi xin chịu trách nhiệm trƣớc lời cam đoan của mình.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Tác giả khóa luận
Ngô Thị Khánh Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
6. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 4
7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 4
NỘI DUNG ....................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LÝ THUYẾT DIỄN NGÔN VÀ HÀNH
TRÌNH SÁNG TẠO CỦA TRẦN THANH CẢNH......................................... 5
1.1. Khái quát về diễn ngôn .............................................................................. 5
1.1.1. Khái niệm diễn ngôn trong ngôn ngữ học .............................................. 6
1.1.2. Vấn đề diễn ngôn trong văn học ............................................................. 9
1.1.2.1. Diễn ngôn văn học mang tính lịch sử ................................................ 11
1.1.2.2. Diễn ngôn văn học có tính kí hiệu ..................................................... 12
1.1.2.3. Diễn ngôn văn học có tính quy chiếu................................................. 13
1.1.2.4. Diễn ngôn văn học có tính hƣ cấu...................................................... 13
1.1.2.5. Diễn ngôn văn học đƣợc “lạ hóa” ...................................................... 13
1.1.2.6. Diễn ngôn văn học mang tính phỏng nhại ......................................... 15
1.2. Khái quát về diễn ngôn lịch sử................................................................. 16
1.2.1. Diễn ngôn lịch sử trong khoa học lịch sử ............................................. 16
1.2.2. Diễn ngôn tiểu thuyết lịch sử - một bình diện quan trọng của diễn
ngôn ................................................................................................................. 18
1.2.2.1. Diễn ngôn tiểu thuyết lịch sử mang tính đối thoại ............................. 20
1.2.2.2. Diễn ngôn tiểu thuyết lịch sử là sự kết hợp hài hòa, sự đan bện
chặt chẽ của hai yếu tố sự thật lịch sử và hƣ cấu ............................................ 21
1.2.2.3. Diễn ngôn tiểu thuyết lịch sử in đậm dấu ấn của các thủ pháp của
khuynh hƣớng hậu hiện đại ............................................................................. 22
1.3. Hành trình sáng tạo của Trần Thanh Cảnh .............................................. 24
1.3.1. Vài nét về tác giả Trần Thanh Cảnh ..................................................... 24
1.3.2. Sáng tác của Trần Thanh Cảnh trong bối cảnh văn học đƣơng đại ...... 25
1.3.3. Tiểu thuyết Đức Thánh Trần - cuốn tiểu thuyết lịch sử đầu tay trong
sáng tác của Trần Thanh Cảnh ........................................................................ 26
CHƢƠNG 2: LỊCH SỬ TRONG TIỂU THUYẾT ĐỨC THÁNH TRẦN
TỪ CÁI NHÌN NGƢỠNG VỌNG, CHIÊM BÁI .......................................... 28
2.1. Nhân vật lịch sử đƣợc “thần thánh hóa” với cảm hứng ngợi ca, tôn
vinh, thán phục ................................................................................................ 28
2.1.1. Trần Quốc Tuấn - một võ tƣớng kiệt xuất, uy dũng phi phàm ............. 28
2.1.1.1. Một hào kiệt trẻ tuổi có dung mạo uy nghi, đẹp đẽ, văn võ toàn tài . 28
2.1.1.2. Một bậc kỳ tài quân sự với tài điều binh khiển tƣớng lỗi lạc và
dùng ngƣời kiệt xuất........................................................................................ 30
2.1.1.3. Một bậc đại nhân có tấm lòng nhân nghĩa rộng lớn .......................... 35
2.1.2. Trần Thủ Độ - một đại công thần của nhà Trần, tuy không có học
vấn nhƣng tài lƣợc hơn ngƣời ......................................................................... 36
2.1.2.1. Khả năng chính trị quyết đoán hiệu quả ............................................ 37
2.1.2.2. Tấm lòng tận trung, tận hiếu với vƣơng triều nhà Trần và giang
sơn xã tắc ......................................................................................................... 38
2.1.3. Trần Thái Tông - một vị vua anh hùng cứu nƣớc ................................. 38
2.1.3.1. Một ngƣời xem thƣờng vinh hoa phú quý, có thể từ bỏ ngai vàng
không chút luyến tiếc ...................................................................................... 38
2.1.3.2. Một vị vua hết lòng vì quốc gia xã tắc ............................................... 40
2.2. Thủ pháp khắc họa hình tƣợng nhân vật dƣới cái nhìn sử thi.................. 40
2.2.1. Về nghệ thuật miêu tả nhân vật ............................................................. 40
2.2.1.1. Từ diện mạo đến tính cách ................................................................. 40
2.2.1.2. Miêu tả qua hành động, cử chỉ ........................................................... 41
2.2.2. Về giọng điệu trần thuật ........................................................................ 42
2.2.2.1. Giọng điệu hào hùng, đanh thép ........................................................ 43
2.2.2.2. Giọng điệu thống thiết, chân thành .................................................... 44
2.2.2.3. Giọng điệu chiêm nghiệm, triết lý ..................................................... 45
CHƢƠNG 3: LỊCH SỬ TRONG ĐỨC THÁNH TRẦN CỦA TRẦN
THANH CẢNH TỪ CÁI NHÌN ĐỜI TƢ- THẾ SỰ- NHÂN VĂN .............. 47
3.1. Nhân vật lịch sử đƣợc “giải mờ” hiện lên nhƣ những con ngƣời đời
thƣờng dƣới cái nhìn đời tƣ - thế sự - nhân văn .............................................. 47
3.1.1. Hình ảnh Trần Quốc Tuấn không chỉ là “võ nghiệp lẫy lừng” mà
còn có “tình yêu bất diệt” ................................................................................ 47
3.1.1.1. Trong mối quan hệ tình ái với vợ - công chúa Thiên Thành ............. 48
3.1.1.2. Trong mối tình “liêu trai” với tình nƣơng - Quế Lan ........................ 49
3.1.2. Công chúa An Tƣ - một ngƣời con gái mang đậm bản năng tính dục.. 51
3.1.2.1. Con ngƣời liệt nữ của công chúa An Tƣ ............................................ 51
3.1.2.2. An Tƣ - ngƣời con gái mang khát vọng tình dục cháy bỏng ............. 51
3.2. Thủ pháp xây dựng hình tƣợng “con ngƣời đời thƣờng” ........................ 53
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật ................................................................. 53
3.2.3. Giọng điệu trần thuật............................................................................. 54
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong bộ môn Lí luận văn học, có thể nói diễn ngôn đã trở thành
đối tƣợng nghiên cứu từ rất sớm. Từ những năm 60 của thế kỉ XX ở Châu Âu,
hƣớng nghiên cứu về diễn ngôn đƣợc phát triển rất mạnh mẽ. Diễn ngôn lúc
đó trở thành một khái niệm trung tâm và đƣợc sử dụng trong hầu khắp các
ngành khoa học xã hội và nhân văn. Xét trong phạm vi văn học, thực tế đã
chứng minh, ở mỗi thời kì lịch sử, do những định chế của thời đại sẽ có
những diễn ngôn khác nhau; ở mỗi thể loại văn học, do có những quy định
riêng, đặc trƣng riêng của từng thể loại, cũng có những kiểu diễn ngôn khác
nhau; và ở mỗi nhà văn, do phong cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo, cảm quan
cá nhân riêng mà lại cũng có những cách diễn ngôn khác nhau. Do đó, nghiên
cứu diễn ngôn trong văn học không chỉ đơn thuần là nghiên cứu trên bề mặt
câu chữ mà địa hạt của nó chính là vấn đề nằm ngoài và sau văn bản, ở khả
năng liên văn bản, hứa hẹn mở ra những chiều kích lý giải và khám phá khác
nhau soi chiếu từ nhiều góc độ khác nhau.
1.2. Tiểu thuyết lịch sử, xét trên phạm vi toàn thế giới, đƣợc ví nhƣ một
thanh nam châm có sức thu hút và lôi cuốn đặc biệt đối với những cây bút lẫy
lừng của văn học thế giới. Chính vì vậy, ở đề tài này, đã có rất nhiều tác phẩm
đạt đến tầm kinh điển, chẳng hạn nhƣ: Nhà thờ Đức Bà Paris của Victor
Hugo, Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoi, Tam quốc diễn nghĩa của La
Quán Trung, Tây du kí của Ngô Thừa Ân,… Trong văn học Việt Nam vào thế
kỉ XVIII cũng đã xuất hiện một bộ tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng là Hoàng Lê
nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phái. Sang đầu thế kỉ XX, tiểu thuyết
lịch sử của Việt Nam lại một lần nữa đƣợc khẳng định khi có sự ra đời của
Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu. Theo thời gian, tiểu thuyết lịch sử
đã trở thành một mạch nguồn bất tận trong dòng chảy của lịch sử văn học
Việt Nam với hàng trăm tác phẩm có giá trị của các nhà văn nổi tiếng nhƣ
Nguyễn Huy Tƣởng, Hà Ân, Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn
Mộng Giác,… Nằm trong dòng chảy của thể loại, tiểu thuyết Đức Thánh Trần
của Trần Thanh Cảnh tuy là một tác phẩm mới đƣợc “khai sinh” trong đời
sống văn học đƣơng đại, song đã gây đƣợc một tiếng vang rất lớn bởi lối viết
1
mới mẻ, độc đáo, lôi cuốn của dƣợc sĩ - nhà văn Trần Thanh Cảnh. Sau tập
truyện ngắn Kỳ nhân làng Ngọc đoạt Giải thƣởng Hội Nhà văn Việt Nam
2015 cho văn xuôi, tên tuổi của Trần Thanh Cảnh càng đƣợc chú ý nhiều và
đến cuốn tiểu thuyết lịch sử đầu tay Đức Thánh Trần, tài năng văn chƣơng
của ông thực sự đã tạo đƣợc một dấu ấn mạnh mẽ trên văn đàn văn học đƣơng
đại, đặc biệt là ở mảng đề tài lịch sử.
1.3. Khi quyết định lựa chọn nghiên cứu một tiểu thuyết lịch sử của một
nhà văn đƣơng đại, tác giả khóa luận mong muốn có thể góp một phần nhỏ
nhƣng hữu ích của mình vào việc làm cho đời sống văn học đƣơng đại trở nên
gần gũi hơn, hòa mình hơn vào chƣơng trình dạy và học Ngữ văn trong nhà
trƣờng phổ thông.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề nghiên cứu
“Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh”
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đức Thánh Trần là một tác phẩm tiêu biểu cho tƣ tƣởng: “Lịch sử là
một thực thể khả biến, luôn vận động không ngừng, do đó, những diễn giải đa
dạng, thậm chí trái ngƣợc nhau, không phải để triệt tiêu nhau, mà là bổ trợ
nhau trong việc hình thành một nhận thức mới có thể chấp nhận đƣợc” [16].
Với cảm thức nhƣ vậy, có thể nói tiểu thuyết Đức Thánh Trần của nhà văn
Trần Thanh Cảnh là một diễn giải lịch sử khả thể mang đậm dấu ấn cá nhân
nhà văn. Tuy là một gƣơng mặt mới, chung sống trong đời sống văn học
đƣơng đại chƣa lâu, nhƣng với tất cả những ý nghĩa tƣ tƣởng cũng nhƣ những
cách tân đổi mới về nghệ thuật của nhà văn, Đức Thánh Trần của Trần Thanh
Cảnh thực sự đã trở thành một “cây nam châm” kì diệu thu hút nhiều bút lực
của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học hay các công trình nghiên cứu khoa
học. Nhận xét về cuốn tiểu thuyết đặc biệt này, nhà phê bình văn học Nguyễn
Hoài Nam đã viết: “Trần Thanh Cảnh khởi thảo Đức Thánh Trần sau khi đã
cho ra mắt độc giả hai tập truyện ngắn mang đậm chất hoa tình, thậm chí là
tinh thần “phóng dục” khá đặc trƣng cho đất và ngƣời Kinh Bắc. Cái “nếp” ấy
vẫn đƣợc ông giữ lại trong cuốn tiểu thuyết lịch sử đầu tay này, qua những
2
trƣờng đoạn viết về ái tình hừng hực nhựa sống và tràn trề đam mê của những
ngƣời đàn ông, đàn bà Việt Nam thế kỉ XIII. Đọc những trƣờng đoạn ấy, ta sẽ
thấy, ví dụ, Trần Quốc Tuấn và An Tƣ công chúa của Trần Thanh Cảnh khác
với Trần Quốc Tuấn của Hà Ân, khác với An Tƣ công chúa của Nguyễn Huy
Tƣởng đến thế nào. Đó cũng chính là những diễn giải lịch sử khả thể”.
Trong bài viết “Tiểu thuyết Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh” –
Một tiểu thuyết lịch sử đáng đọc”, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hùng đã đƣa ra những
nhận định sắc bén về cuốn tiểu thuyết đặc sắc này: “Để làm nên Đức Thánh
Trần, tác giả đã dám mạo hiểm xông vào những địa hạt vô cùng trống vắng sử
liệu, trở thành “nhà thám hiểm cuộc sống”. Những khuất lấp của lịch sử,
những bí ẩn trong đời sống nội tâm, những “vùng mờ” trong cuộc đời và số
phận nhân vật đƣợc nhà văn khơi mở, phân tích sâu sắc. Sự mở rộng biên độ
hƣ cấu, sáng tạo cho phép Trần Thanh Cảnh tiếp cận, soi rọi, giải mã những
nhân vật tƣởng chừng nhƣ đã “đóng đinh” trong kinh nghiệm, hiểu biết của
cộng đồng. Từ điểm nhìn đời tƣ - thế sự - nhân văn, ông đã soi rọi, khám phá
nhiều khía cạnh mới mẻ trong cuộc đời Trần Quốc Tuấn - thần tƣợng dân tộc,
huyền thoại tôn giáo. Nhà văn thấy đƣợc ở con ngƣời vĩ đại này không chỉ
mang phẩm chất thần thánh, sứ mệnh thiên định, mà còn có những giây phút
rất đời, rất ngƣời” [16].
Có thể nhận thấy những bài nghiên cứu trên đã ít nhiều đề cập đến vấn
đề diễn ngôn lịch sử trong Đức Thánh Trần. Tuy nhiên chƣa có một công
trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách bài bản, kĩ lƣỡng vấn đề này.
Trên cơ sở đó, chúng tôi lựa chọn để triển khai nghiên cứu đề tài: Diễn ngôn
lịch sử trong tiểu thuyết Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh.
3. Mục đích nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, khóa luận của tôi nhằm mục đích
một mặt sẽ góp phần làm sáng tỏ lý thuyết vể diễn ngôn ở thể tài tiểu thuyết
lịch sử, mặt khác vận dụng lý thuyết này để phân tích đặc điểm của diễn ngôn
lịch sử đƣợc thể hiện trong tiểu thuyết Đức Thánh Trần của Trần Thanh
Cảnh. Nếu hoàn thành tốt, khóa luận sẽ là nguồn tƣ liệu cần thiết và đáng tin
cậy cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Làm rõ cơ sở lý luận về lý thuyết diễn ngôn, vận dụng cụ thể lý
thuyết này để tìm hiểu diễn ngôn trong tiểu thuyết lịch sử.
4.2. Chỉ ra điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa diễn ngôn lịch sử với
diễn ngôn tiểu thuyết lịch sử, từ đó đề nghị một cách hiểu rộng hơn về lịch sử.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết Đức Thánh Trần của Trần Thanh
Cảnh.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu thuyết lịch sử ĐứcThánh Trần, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2017
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp hệ thống;
- Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp;
- Phƣơng pháp liên ngành;
- Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung chính
của khóa luận đƣợc triển khai làm 3 chƣơng cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng 1: Khái quát về lý thuyết diễn ngôn và hành trình sáng tạo của
Trần Thanh Cảnh
Chƣơng 2: Lịch sử trong tiểu thuyết Đức Thánh Trần từ cái nhìn
ngƣỡng vọng, chiêm bái
Chƣơng 3: Lịch sử trong Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh từ cái
nhìn đời tƣ - thế sự - nhân văn
4
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1:
KHÁI QUÁT VỀ LÝ THUYẾT DIỄN NGÔN VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG
TẠO CỦA TRẦN THANH CẢNH
1.1. Khái quát về diễn ngôn
Từ những năm 60 của thế kỉ XX, nghiên cứu diễn ngôn (hay còn gọi là
phân tích diễn ngôn) trở thành một trào lƣu nghiên cứu khoa học có sức lan
tỏa mạnh mẽ ở Châu Âu, đặc biệt trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân
văn, diễn ngôn đã trở thành một khái niệm trung tâm. Sau thời kì thống trị của
cấu trúc luận, nội hàm của khái niệm này lại ngày càng trở nên phức tạp hơn
do nó xuất hiện thêm nhiều nét nghĩa mới. Điều này đã đƣợc khảo sát và ghi
nhận trong các công trình nghiên cứu hậu cấu trúc và giải cấu trúc của M.
Foucault, J.Derrida, R.Barthes… Ngày nay, diễn ngôn trở thành một thuật
ngữ quan trọng trong các công trình nghiên cứu của các trƣờng phái: Phân
tích diễn ngôn phê phán, Chủ nghĩa Hậu hiện đại, Lí luận nữ quyền, Chủ
nghĩa Tân lịch sử,…
Diễn ngôn có một phạm vi phủ sóng rộng lớn, rộng đến mức, Marie
Christine trong cuốn từ điển bách khoa về các lý thuyết văn học đƣơng đại
Encyclopedia Contemporary Literary Theory đã cho rằng, “nó đi ngang qua
ranh giới của các lĩnh vực và bởi vậy tham gia vào một sự tái tổ chức tri thức
nói chung đang diễn ra trong khoa học xã hội và nhân văn ngày nay” [4].
Diễn ngôn đã trở thành đối tƣợng nghiên cứu và phƣơng tiện sử dụng trong
nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội nhƣ: ngôn ngữ học, nghiên cứu
văn học, nghiên cứu văn hóa, xã hội học, khoa học lịch sử,… Tuy nhiên,
trong mỗi bối cảnh khác nhau, tùy vào từng hƣớng nghiên cứu khác nhau, nó
lại biểu hiện thành những nét nghĩa rất khác nhau. Học giả Jacques Derrida
định nghĩa diễn ngôn nhƣ sau: “Diễn ngôn…có hình thức cấu trúc của các
diễn giải. Mỗi câu, do tự nó đã có bản chất diễn giải, sẽ tạo ra sự diễn giải cho
câu khác” [13]. Julia Kristeva lại cho rằng: “Nguyên tắc đối thoại bao giờ
cũng đi đôi với các cấu trúc chiều sâu của diễn ngôn… Nguyên tắc đối thoại
là nguyên tắc của mọi phát ngôn” [13]. Còn theo tác giả Roland Barthes
5
thì diễn ngôn đƣợc hiểu với những hàm nghĩa sau: “Thứ nhất là sự giao tiếp
bằng lời, nói chuyện, hội thoại. Thứ hai là sự triển khai một vấn đề nào đấy
bằng cách nói hoặc viết theo một trật tự. Thứ ba, các nhà ngôn ngữ học
thƣờng sử dụng thuật ngữ diễn ngôn để chỉ một đơn vị của văn bản - đơn vị
ngôn ngữ lớn hơn câu” [1-tr.1].
Có thể thấy các ý nghĩa khác xa nhau, mâu thuẫn nhau, hoặc đan bện
chồng chéo lên nhau, khó phân tách, do đó vẫn chƣa có một nội hàm thuật
ngữ khoa học xác định, thống nhất. Nhiệm vụ của ngƣời nghiên cứu là phải
căn cứ vào bối cảnh sử dụng cụ thể của diễn ngôn để thấy đƣợc nét nghĩa nào
của thuật ngữ đã đƣợc triển khai, sáng tạo thêm. Mặc dù bản thân thuật ngữ
có nội hàm khá phức tạp, nhiều cách diễn giải với những ý nghĩa khác nhau,
tuy nhiên tựu trung có thể khái quát diễn ngôn thành các khuynh hƣớng tiêu
biểu sau:
1.1.1. Khái niệm diễn ngôn trong ngôn ngữ học
Có hai hƣớng nghiên cứu diễn ngôn cơ bản đó là hƣớng nghiên cứu của
các nhà ngôn ngữ học và của các nhà xã hội học. Tiêu biểu cho hƣớng nghiên
cứu diễn ngôn của các nhà ngôn ngữ học phải kể đến đó là quan niệm phân
biệt ngôn ngữ và lời nói theo ngôn ngữ học cấu trúc của F.de Saussure. Trong
Giáo trình Dẫn luận ngôn ngữ học, theo quan điểm của Saussure: “Ngôn ngữ
là một hệ thống những đơn vị vật chất phục vụ cho việc giao tiếp của con
ngƣời và đƣợc phản ánh trong ý thức của tập thể một cách độc lập với những
tƣ tƣởng, tình cảm và nguyện vọng cụ thể của con ngƣời, cũng nhƣ trừu tƣợng
hóa khỏi những tƣ tƣởng, tình cảm đó. Lời nói là kết quả của việc vận dụng
các phƣơng tiện khác nhau của ngôn ngữ để truyền đạt thông tin, kêu gọi
ngƣời nghe có hành động tƣơng ứng” [tr.311]. Nhƣ vậy, ngôn ngữ và lời nói
là hai mặt thống nhất nhƣng không đồng nhất với nhau. Ngôn ngữ là phƣơng
tiện giao tiếp ở dạng khả năng tiềm tàng, trừu tƣợng hóa. Còn lời nói là
phƣơng tiện giao tiếp ở dạng hiện thực hóa, tức là ở dạng hoạt động, gắn liền
với những nội dung cụ thể. Ngôn ngữ mang tính cộng đồng, là tài sản chung
của xã hội, còn lời nói mang tính cá nhân, là sản phẩm của sự vận dụng ngôn
ngữ trong những hoàn cảnh cụ thể, bởi các cá nhân cụ thể. Về sau, một số nhà
ngữ học nhận thấy trong hƣớng nghiên cứu của Saussure có một sự thiên lệch
6
khi ông khẳng định ngôn ngữ là hệ thống những yếu tố và nguyên tắc có giá
trị chung, nó là cơ sở để cấu tạo các ngôn bản hay lời nói; ngƣời ta chỉ có thể
giao tiếp nếu các ngôn bản hay lời nói bao gồm những yếu tố có giá trị chung,
hoạt động theo những nguyên tắc chung. Họ thấy cần thiết phải nghiên cứu
lời nói, nghiên cứu văn bản, nghiên cứu diễn ngôn và từ đó diễn ngôn đƣợc đề
xuất nhƣ đối tƣợng mới của ngôn ngữ học.
Diễn ngôn đƣợc các nhà ngữ văn học nghiên cứu, tiêu biểu trong đó là
M. Bakhtin. Đối với khoa học xã hội nhân văn, tác giả xác định đối tƣợng
nghiên cứu là “text (văn bản), còn trong văn học thì tác giả gọi là “slovo” (lời
văn/ngôn từ/lời nói). Với hƣớng nghiên cứu theo chủ nghĩa cấu trúc, trong
quan điểm của mình, Saussure chỉ chú trọng quan tân đến ngôn ngữ và lời
nói, tức là quan tâm đến nghĩa và cái biểu nghĩa hay “cái biểu đạt” và “cái
đƣợc biểu đạt”, đơn vị đƣợc định lƣợng chỉ là từ và câu. Vậy vấn đề đặt ra ở
đây là nếu ta đem các đơn vị từ và câu ấy vào hoạt động giao tiếp cụ thể thì
chủ thể giao tiếp có thể thực hiện đƣợc mục đích giao tiếp hay không? Trong
giao tiếp hết câu chƣa phải là hết ý mà đến khi nào hết một phát ngôn của chủ
thể mới là hết ý, khi đó mục đích giao tiếp mới đƣợc thực hiện, ngƣời nói mới
truyền đạt đƣợc thông tin đến ngƣời nghe. Bakhtin nhấn mạnh: Phát ngôn
chính là đơn vị giao tiếp của lời nói bởi bản thân lời nói chỉ có thể tồn tại
trong thực tế dƣới hình thức những phát ngôn cụ thể của những lời nói riêng
lẻ. Mặt khác, thông qua phát ngôn, tức là thông qua thực tiễn sử dụng ngôn
ngữ thì bản chất sống động của ngôn ngữ sẽ đƣợc thể hiện rõ nét. Với Sausure
ngoài cấu trúc ra, các yếu tố khác nhƣ chủ thể giao tiếp, hoàn cảnh lịch sử,
ngữ cảnh,… đều không đóng góp một vai trò quan trọng nào trong việc quy
định nghĩa của diễn ngôn thì Bakhtin cho rằng, ý nghĩa diễn ngôn, phƣơng
thức diễn ngôn (cách dùng từ, đặt câu…) không chỉ do cấu trúc ngôn ngữ hay
do cá tính ngƣời phát ngôn quy định mà còn do ngữ cảnh, do đặc điểm văn
hóa - xã hội của từng thời kì lịch sử quy định. Diễn ngôn do vậy mà nó gắn
liền với xã hội, mang tính xã hội. Diễn ngôn gắn liền với hoạt động giao tiếp
thƣờng ngày của con ngƣời bởi con ngƣời phải nói theo các quy tắc ngôn ngữ
nhất định nếu muốn tồn tại trong xã hội.
7
Nhƣ vậy, đối với Bakhtin, diễn ngôn không phải là ngôn ngữ; hai
khái niệm này tuy có thể cùng một đối tƣợng nhƣng chúng mang nội hàm ý
nghĩa khác nhau, có nền tảng tƣ tƣởng khác nhau: Nếu ngôn ngữ là đối tượng
của ngôn ngữ học truyền thống, thì diễn ngôn là đối tượng của khoa học xã
hội nhân văn. Xét trong phạm vi của ngôn ngữ học truyền thống, nhắc đến
ngôn ngữ là nhắc đến hai mặt nội dung và hình thức của ngôn ngữ, hai mặt
này có thể tồn tại độc lập với nhau; ngôn ngữ có khả năng tách biệt, không
chịu sự chi phối của đời sống xã hội và ý thức hệ. Trong phạm vi nghiên cứu
của lý luận diễn ngôn, hai khái niệm nội dung và hình thức của diễn ngôn
cũng nhƣ mối quan hệ giữa chúng theo quan niệm truyền thống thì đến nay
nếu theo quan điểm của chủ nghĩa Hậu cấu trúc thì không còn phù hợp nữa.
Ngôn ngữ đƣợc xem nhƣ một chỉnh thể, vì vậy ta không thể nào phân tách
đƣợc một cách biệt lập nội dung và hình thức của nó. Nội dung của diễn ngôn
tức là hình thức và hình thức chính là cái biểu hiện nội dung. Cái gọi là chỉnh
thể ngôn ngữ mà Bakhtin hay dùng thực chất là diễn ngôn. Nếu nhƣ ngôn ngữ
có khả năng tồn tại độc lập không phụ thuộc vào sự chi phối của đời sống xã
hội thì diễn ngôn tồn tại dƣới sự ảnh hƣởng mạnh mẽ của những tƣ tƣởng,
quan điểm của chủ thể phát ngôn nói riêng và khung tri thức văn hóa của thời
đại, của từng thời kì lịch sử nói chung. Bakhtin là ngƣời đề xuất hƣớng
nghiên cứu “siêu ngôn ngữ học”, tức lấy diễn ngôn (lời nói, văn bản) làm đối
tƣợng nghiên cứu, mở ra một hƣớng mới trong cách tiếp cận ngôn từ văn học.
Với tác giả, diễn ngôn không phải là ngôn ngữ theo cách hiểu của ngôn ngữ
học truyền thống mà diễn ngôn đƣợc hiểu là ngôn ngữ trong chỉnh thể sống
động, cụ thể, ngôn ngữ trong thực tiễn sử dụng, có tƣ tƣởng và mang tính xã
hội cao. Bất cứ lời nói nào đƣợc phát ra trong hoạt động giao tiếp thì đều
đƣợc coi là diễn ngôn. Vì vậy, diễn ngôn là sản phẩm của giao tiếp, không thể
tách rời với ý thức chủ quan của ngƣời nói. Bản chất diễn ngôn mang tính đối
thoại bởi mỗi một phát ngôn đều thể hiện một ý kiến, một quan điểm, một tƣ
tƣởng của chủ thể phát ngôn (ngƣời nói). Mỗi một phát ngôn của chúng ta
trong quá trình giao tiếp chỉ có ý nghĩa khi nó đƣợc hình thành và phát triển,
có sự tƣơng tác qua lại, thƣờng xuyên và liên tục trong mối quan hệ với
những phát ngôn của các cá nhân khác trong xã hội.
8
Nhƣ vậy, qua sự phân tích trên đây, chúng ta có thể khẳng định quan
niệm diễn ngôn của Bakhtin thuộc lí luận văn học, triết học, không thuộc
ngôn ngữ học. Ông chủ trƣơng nhìn nhận vấn đề từ góc độ bản thể tƣ tƣởng,
góc độ triết học để nghiên cứu văn học, dùng diễn ngôn thay thế cho
ngôn ngữ.
Từ những quan niệm khác nhau về diễn ngôn, trong khóa luận
này, chúng tôi đề xuất những cách hiểu về diễn ngôn nhƣ sau: Diễn ngôn là
hệ thống tổ chức của những kí hiệu, những cấu trúc ngôn ngữ chứa đựng nội
dung tư tưởng, ý thức hệ, quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá, lý giải về bản
chất của thế giới tự nhiên và xã hội. Nó là cấu trúc liên văn bản, liên chủ thể,
một sản phẩm của hoạt động giao tiếp, của môi trường văn hóa tạo ra. Nói
đến diễn ngôn là nói đến một sự kiện ngôn ngữ, đồng thời là một sự kiện xã
hội vì nó vừa thể hiện được một cách đầy đủ và toàn vẹn những quy tắc cấu
tạo ngôn ngữ, mặt khác nó lại chứa đựng một quan niệm tư tưởng, một ý thức
hệ nhất định.
1.1.2. Vấn đề diễn ngôn trong văn học
Diễn ngôn văn học là diễn ngôn về một hình thái nghệ thuật ngôn
từ trong đó có sự thống nhất giữa hai mặt hình thức và nội dung, giữa hình
thức và tƣ tƣởng. Tiếp nhận diễn ngôn văn học là ta tiếp nhận thông qua hệ
thống biểu đạt của nó. Hệ thống biểu đạt của diễn ngôn văn học bao gồm hình
tƣợng, loại hình ngôn ngữ, các phƣơng tiện tu từ gắn với quan niệm, tƣ tƣởng,
mục đích sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Đồng thời, diễn ngôn văn học có
mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với lịch sử tƣ tƣởng, chịu sự chi phối của các
hình thái ý thức xã hội, của ý thức hệ, quan niệm văn hóa, thẩm mỹ của cộng
đồng xã hội ở một thời kì lịch sử xã hội nhất định. Mỗi thời đại có những định
chế về chính trị, xã hội, văn hóa, tƣ tƣởng khác nhau, ý thức hệ khác nhau, tôn
giáo khác nhau, thị hiếu thẩm mỹ khác nhau,… sẽ tạo nên khung tri thức khác
nhau, từ đó sẽ tạo nên những kiểu diễn ngôn khác nhau và điều này cũng
chính là vấn đề “phong cách thời đại”. Chính quyền lực xã hội đã quy định
những kiểu diễn ngôn mang đặc trƣng của thời đại, cho phép mỗi nhà văn
đƣợc quyền nói những gì, nói đến đâu và nói nhƣ thế nào. Nếu nhà văn nào
không hiểu và thực hiện đƣợc “luật chơi” ấy, phát ngôn của anh ta sẽ không
9
đƣợc cộng đồng chấp nhận. Ở vào thời kì chiến tranh, nhiệm vụ của văn học
là cổ vũ, khích lệ, động viên tinh thần sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc, xây dựng nên tƣợng đài về những ngƣời anh hùng - kết
tinh cho vẻ đẹp, ý chí, khát vọng, sức mạnh của cả cộng đồng. Vì thế văn học
thời kì này là dòng văn học sử thi, diễn tả chủ yếu cái hùng, nếu có miêu tả
cái bi thì cái bi đó phải hiện lên là cái bi hùng, bi tráng chứ không phải là cái
bi lụy, bi thƣơng. Văn học phải truyền đi thông điệp mạnh mẽ về tinh thần lạc
quan, niềm tin vào cuộc chiến đấu anh dũng của dân tộc, niềm tin vào cuộc
sống tốt đẹp, tƣơi sáng ở tƣơng lai, theo đúng “phƣơng pháp sáng tác hiện
thực xã hội chủ nghĩa”. Có thể nhận thấy rõ tinh thần và cảm hứng sáng tác ấy
đƣợc biểu hiện rõ nét trong những sáng tác tiêu biểu của M. Gorki, A. Tolsoy,
M.Cholokhov,… của nền văn học Xô-viết; hay trong những sáng tác của Tố
Hữu, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, Hữu Mai, Nguyễn Khải, Anh
Đức,… của văn học cách mạng Việt Nam; hay trong các tác phẩm của Khúc
Ba, Dƣơng Mạt, Lƣơng Bân,… của văn học Trung Quốc. Thế nhƣng, khi
chiến tranh đi qua, cuộc sống “muôn mặt đời thƣờng” của thời bình lại trở lại,
văn học thời kì này phải thay đổi chức năng, sứ mệnh của mình để có thể bắt
nhịp với hơi thở của đời sống hiện thực với bao phức tạp, bộn bề, ngổn ngang
chồng chéo. Văn học sử thi với cái nhìn ngƣỡng vọng, chiêm bái lúc này đã
nhƣờng chỗ cho văn học thế sự với cái nhìn đời tƣ - nhân văn, quan tâm đến
số phận con ngƣời cá nhân, tiếng nói của “cái tôi” cá nhân với những nhu cầu,
ƣớc muốn, khát vọng về tình yêu, hạnh phúc đƣợc bộc lộ rõ nét. Văn học có
điều kiện đi sâu hơn để tìm hiểu, làm sáng rõ những “vùng tối”, “góc khuất”,
“điểm mờ” của hiện thực đời sống cũng nhƣ trong chính bản thể con ngƣời.
Từ sự thay đổi trong quan niệm văn chƣơng này đã làm xuất hiện một số diễn
ngôn mang đặc trƣng mới nhƣ: Đoạn đầu đài (Tsinghiz Aitomatov), Chuyện
thường ngày ở huyện (V. Auvetskin),… ở Nga; Linh sơn (Cao Hành Kiện),
Cao lương đỏ (Mạc Ngôn), Thiếu nữ đánh cờ vây (Sơn Táp),… ở Trung
Quốc; Rừng Na-uy, Nhảy nhảy nhảy (Haruka Murakami),… ở Nhật Bản; Thời
xa vắng (Lê Lựu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Biết đâu địa ngục thiên
đường (Nguyễn Khắc Phê),… ở Việt Nam.
10
Có thể hiểu một cách ngắn gọn diễn ngôn trong văn học là lối nói, là
quy tắc phát ngôn ẩn chìm trong vô thức cộng đồng, luôn chịu sự chi phối bởi
đặc điểm của thời đại. Nhà văn sống ở thời đại nào thì những phát ngôn của
anh không chỉ nhân danh riêng một cá nhân, một ngƣời trí thức mà đó còn là
tiếng nói, là điểm nhìn của cộng đồng thuộc về thời đại xã hội với bối cảnh
lịch sử - văn hóa đó.
Diễn ngôn văn học mang một số đặc trƣng tiêu biểu sau:
1.1.2.1. Diễn ngôn văn học mang tính lịch sử
Điều này có nghĩa là ở mỗi cộng đồng thuộc các giai đoạn, thời kì lịch
sử - xã hội khác nhau sẽ có những quy định riêng, khác biệt riêng về lối nói và
ý thức nói. Chính những yếu tố thuộc về thể chế chính trị, tƣ tƣởng triết học, ý
thức tôn giáo, quan niệm thẩm mĩ, thị hiếu tiếp nhận… của từng thời đại sẽ
chi phối đến nguyên tắc phát ngôn: Sống ở thời đại này, cộng đồng này, anh
đƣợc quyền nói những gì, nói đến đâu và nói nhƣ thế nào, bằng hình thức nào,
để thông qua đó truyền đạt đến ngƣời tiếp nhận một nội dung tƣ tƣởng, một
quan niệm thẩm mĩ, một cách nhìn nhận, lý giải về thế giới. Do vậy, tri thức,
thế giới quan, nhân sinh quan qua từng thời đại xã hội sẽ bị thay đổi theo thời
gian. Đây chính là hệ quả của mối quan hệ giữa tri thức và quyền lực trong
diễn ngôn. Chẳng hạn nhƣ văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945, do thể chế
chính trị, ý thức hệ, chính quyền, nhân quyền, tôn giáo có sự chi phối, tác
động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội nói chung và đời sống văn
học nói riêng nên vô hình trung đã tạo nên sức mạnh quyền lực có khả năng
chi phối đến ý thức sáng tác. Trong không gian cộng đồng chịu sự chi phối về
tƣ tƣởng ấy, ngƣời viết tuy có ý thức muốn thể hiện sự bất mãn với thời cuộc
nhƣng lại không dám đả động đến giai cấp thống trị, hoặc muốn nói bắt buộc
anh phải lựa chọn cách nói khác, cách nói gián tiếp, ẩn ý. Có thể lấy một ví dụ
để minh chứng cụ thể cho điều này - tác phẩm Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài thơ
ra đời khi đất nƣớc đang oằn mình chống chọi vì gót giày xâm lăng giày xéo
của thực dân Pháp. Khi đó, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đấu
tranh của nhân dân đã nổ ra để đòi lại quyền độc lập, tự do của dân tộc song
trƣớc ngọn lửa hung tàn của kẻ thù, chúng đều bị dập tắt. Những thi sĩ, chiến
sĩ lúc bấy giờ đƣơng mang trong mình tâm trạng căm hờn, u uất, ngột ngạt vì
11
một nỗi bất lực, bế tắc trƣớc cảnh nƣớc mất nhà tan. Tác giả đã mƣợn lời con
hổ để diễn tả nỗi chán ghét cuộc sống mất tự do. Tâm trạng của con hổ (uất
hận, chán chƣờng trƣớc thực tại và nỗi nhớ thƣơng, luyến tiếc quá khứ huy
hoàng, tƣơi đẹp) cũng chính là tâm trạng của Thế Lữ, tâm trạng chung của
một lớp ngƣời trong xã hội lúc bấy giờ (1931-1935), cảm thấy bế tắc trƣớc
cuộc sống, chán chƣờng với thực tại, khát khao cháy bỏng một cuộc đời tự do,
phóng khoáng mặc dù chƣa đƣợc định hƣớng rõ ràng. Nhƣ vậy, Thế Lữ sáng
tác bài thơ Nhớ rừng không phải là tiếng nói của cái tôi cá nhân trực tiếp bộc
lộ thái độ bất mãn, căm phẫn đối với thực tại xã hội lúc bấy giờ mà ông mƣợn
cách nói gián tiếp, xây dựng nên một hình ảnh ẩn dụ giàu sức khái quát là con
hổ bị giam cầm trong cũi sắt ở vƣờn Bách thú để thể hiện tâm sự u uất và
niềm khát khao tự do mãnh liệt của con ngƣời bị giam cầm, sống trong vòng
nô lệ lầm than.
1.1.2.2. Diễn ngôn văn học có tính kí hiệu
Chính đặc trƣng này nó quy ƣớc mối quan hệ giữa tác giả - tác phẩm độc giả là mối quan hệ mã hóa - giải mã, nó đòi hỏi ngƣời đọc cần phải đọc
nó theo cách của một hệ thống mã. Vì vậy, khi nghiên cứu diễn ngôn, ngƣời
nghiên cứu cần phải tuân thủ theo nguyên tắc đó là phải đặt diễn ngôn trong
quan hệ với vật quy chiếu, với điều kiện hoạt động, cách thức vận hành của
diễn ngôn, với bối cảnh tại thời điểm sản sinh ra diễn ngôn (chú ý đến không
gian, thời gian, nhân vật); và cần xét đến cả hệ thống các dòng quy chiếu
trong văn bản và ngoài văn bản (tính liên văn bản). Cơ sở của nguyên tắc này
bắt nguồn từ mối quan hệ có thực giữa chủ thể phát ngôn (ngƣời tạo ra phát
ngôn) với đối tƣợng đƣợc đề cập, bàn luận (sự vật, hiện tƣợng trong đời sống
tự nhiên và xã hội); giữa điều đang đƣợc nói đến với những yếu tố đã xuất
hiện trƣớc, đƣợc đề cập trƣớc nó trong văn bản (quy chiếu trong văn bản);
giữa các kí kiệu với nhau và giữa các văn bản (quy chiếu liên văn bản).
12
1.1.2.3. Diễn ngôn văn học có tính quy chiếu
Cần lƣu ý rằng chính chủ thể phát ngôn đã làm cho các kí hiệu ngôn
ngữ có tính quy chiếu chứ không phải tự thân diễn ngôn văn chƣơng quy
chiếu. Tính quy chiếu trong diễn ngôn văn học đƣợc thể hiện trên hai phƣơng
diện. Phƣơng diện thứ nhất, quy chiếu vào đời sống hiện thực, tức là văn
chƣơng thông qua hệ thống hình tƣợng và bằng hình tƣợng mà tái hiện một
cách chân thực, sinh động hiện thực đời sống. Phƣơng diện thứ hai là quy
chiếu vào chiếu vào chính nó và các văn bản khác tạo nên những kí mã thẩm
mĩ của nhà văn, mở rộng khả năng liên văn bản cho tác phẩm, làm cho hoạt
động sáng tạo - tiếp nhận tác phẩm văn chƣơng trở thành hoạt động đồng sáng
tạo của nhà văn và bạn đọc.
1.1.2.4. Diễn ngôn văn học có tính hư cấu
Hƣ cấu đƣợc xem là một hạt nhân không thể thiếu trong sáng tạo nghệ
thuật nói chung và trong văn học nói riêng. Nếu văn học thiếu đi tính hƣ cấu
thì cũng chỉ giống nhƣ một mảnh đất khô cằn, thiếu màu mỡ mà ở đó khó có
thể gieo mầm nảy hạt tƣơi tốt. Rõ ràng, tính hƣ cấu làm nên sức sống, sức hấp
dẫn của tác phẩm văn học đối với công chúng tiếp nhận. Hƣ cấu giúp diễn
ngôn một mặt vừa có khả năng tái hiện chân xác hiện thực đời sống nhƣ nó
vốn có, qua đó khái quát những bài học nhân sinh, chân lý cuộc sống, mặt
khác lại có khả năng thể hiện và làm nổi bật đƣợc cá tính sáng tạo độc đáo
của chủ thể sáng tác. Từ đó, nó tạo ra một thế giới khả hữu, cung cấp tri thức,
mở rộng hiểu biết về thực tại, bồi đắp năng lực cảm thụ, tiếp nhận cái đẹp ở
ngƣời đọc.
1.1.2.5. Diễn ngôn văn học được “lạ hóa”
Không đi theo lối mòn, luôn tìm kiếm những cái mới, đổi mới trở thành
một nhu cầu tất yếu của sáng tạo nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng.
Nhà văn phải là ngƣời cất lên tiếng nói mới mẻ, tìm kiếm, thể nghiệm những
cách nhìn mới về những vấn đề muôn thuở của cõi nhân gian để không lặp lại
ngƣời khác và không lặp lại chính mình. Do vậy, văn học luôn có xu hƣớng
vƣợt thoát, phá vỡ mọi vòng kiềm tỏa của những khuôn khổ, hƣớng đến
những chân trời mới của nhận thức, tƣ tƣởng, tình cảm. Lạ hóa để tìm những
13
giá trị chân chính có sức mạnh vƣợt thời đại, có khả năng khai sáng tầm hiểu
biết, nhận thức của con ngƣời bị hạn chế và chi phối bởi khung tri thức văn
hóa, ý thức hệ, quan niệm thẩm mĩ của thời đại. Sống trong thời đại xã hội
phong kiến Việt Nam cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX khi mà ý thức hệ Nho
giáo còn ngự trị nặng nề trong xã hội với những tƣ tƣởng “Trọng nam khinh
nữ”, “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu”…
một mặt Nguyễn Du chịu ảnh hƣởng lớn của ý thức hệ Nho giáo, mặt khác
“Với con mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” quan niệm của
ông lại có nhiều điều mới mẻ, tiến bộ, hiện đại, nó có sức mạnh vƣợt thoát ra
khỏi giới hạn của thời đại xã hội lúc bấy giờ. Nếu nhƣ theo quan niệm của lễ
giáo phong kiến về “chữ Trinh” của ngƣời phụ nữ thì ngƣời phụ nữ phải đặc
biệt coi trọng và giữ gìn tiết hạnh, sự trinh trắng của mình đến khi về nhà
chồng. Nó đƣợc xem là yếu tố tiên quyết đến đạo đức, phẩm hạnh, nhân cách,
đến cuộc sống hôn nhân và đạo làm vợ của họ. Trong Truyện Kiều, Nguyễn
Du đã để Thúy Kiều trải qua cuộc đời gió bụi dặm trƣờng đầy cay đắng và
khổ đau, vì phải bán mình chuộc cha và em mà nàng buộc phải chấp nhận hi
sinh “đời con gái” của mình mà rơi vào chốn nhơ nhớp, nhục nhã ê chề của
cuộc đời. Đối với Thúy Kiều khi nàng đứng trƣớc hai sự lựa chọn: một là giữ
gìn cái “đáng giá nghìn vàng” của mình, hai là giữ gìn sự bình yên, hạnh phúc
cho gia đình, thì nàng đã lựa chọn hi sinh chữ tình cho chữ hiếu, tức là nàng
đã đặt chữ hiếu lên hàng đầu. Do đó, ở đây, “chữ Trinh” có thể hiểu là sự hi
sinh quên mình, hi sinh tình yêu và hạnh phúc cá nhân để làm tròn đạo hiếu
với bậc sinh thành. Nhƣ vậy, từ chữ trinh với ý nghĩa nhằm chỉ đạo đức, tiết
hạnh, phẩm giá của ngƣời phụ nữ trong “đạo tòng quân” theo quan niệm của
lễ giáo phong kiến, Nguyễn Du đã nâng lên thành một quan niệm mới mẻ,
hiện đại, với cách nhìn nhận, đánh giá con ngƣời thoáng rộng hơn nhiều. Hay
chỉ bằng một cử chỉ của Thúy Kiều “Xăm xăm băng lối vƣờn khuya một
mình”, Nguyễn Du cũng đã cho thấy quan niệm mới mẻ, hiện đại của ông về
tình yêu đó là đề cao sự tự do yêu đƣơng, khát vọng chủ động, quyết liệt tìm
đến và nắm giữ tình yêu đích thực của cuộc đời mình… Có thể nói, với
Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du đã thể hiện những quan niệm mới mẻ,
nhân văn, tiến bộ, nó vƣợt thoát ra khỏi khung tƣ tƣởng của thời đại xã hội lúc
bấy giờ.
14
1.1.2.6. Diễn ngôn văn học mang tính phỏng nhại
Diễn ngôn văn học không chỉ đơn thuần biểu hiện tổ chức diễn ngôn,
các kiểu diễn ngôn thuộc lĩnh vực văn học mà bên cạnh đó, diễn ngôn văn học
còn có khả năng dung chứa, hấp thụ trong nó các tổ chức diễn ngôn của các
lĩnh vực khác nhƣ: diễn ngôn trong lịch sử (bộ môn khoa học lịch sử), diễn
ngôn văn hóa, diễn ngôn chính trị, diễn ngôn triết học, diễn ngôn xã hội
học,… Chính thuộc tính này đã dẫn đến tính chất phỏng nhại của diễn ngôn
văn học. Tuy nhiên tính chất phỏng nhại trong diễn ngôn văn học không phải
ở giai đoạn nào cũng giống nhau, tùy vào đặc điểm văn hóa - xã hội của từng
giai đoạn lịch sử mà nó sẽ có những mức độ biểu hiện khác nhau. Chẳng hạn,
giai đoạn 1945-1975, có thể nhận thấy tính chất phỏng nhại của diễn ngôn văn
học đƣợc biểu hiện ở xu hƣớng “chính trị hóa” văn học. Nguyên nhân có đặc
điểm này là do văn học trong thời kì cách mạng phải phát huy tối ƣu hóa vai
trò “văn học là ngƣời thƣ kí trung thành của thời đại”, do vậy văn học chịu sự
chi phối và chỉ đạo mạnh mẽ của tƣ tƣởng cách mạng (biểu hiện ở việc lớp
ngôn từ chính trị xuất hiện với một tần suất dày đặc trong văn bản văn học
nhƣ: đồng chí, cách mạng, Đảng, lãnh tụ, nhân dân, quần chúng, lý tưởng,
chất vấn, ý kiến, phấn đấu,…). Cần nhấn mạnh thêm tính chất phỏng nhại
trong diễn ngôn văn học đƣợc biểu hiện khá phong phú, đa dạng trên nhiều
phƣơng diện: phỏng nhại về phong cách, thể loại, nội dung tƣ tƣởng. Chẳng
hạn trong những sáng tác của nữ thi sĩ trung đại đƣợc mệnh danh là Bà Chúa
Thơ Nôm, ta bắt gặp trong thơ bà hiện tƣợng nhại phong cách của tầng lớp
Nho sĩ, nhại phong cách diễn ngôn văn hóa của tín ngƣỡng phồn thực trong
dân gian,… Tất cả đã góp phần tạo nên một phong cách thơ dung dị mà độc
đáo, in đậm cá tính Hồ Xuân Hƣơng. Hay ta có thể tìm thấy trong rất nhiều
sáng tác ở thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết của một nhà văn hiện đại Nguyễn
Huy Thiệp có hiện tƣợng nhại phong cách của diễn ngôn văn học dân gian
nhƣ ca dao, hò, vè,…
Tóm lại, có thể hiểu một cách ngắn ngọn và khái quát nhất về diễn
ngôn văn học nhƣ sau: Diễn ngôn trong văn học là lối nói, là quy tắc phát
ngôn được quy định và chịu sự chi phối bởi đặc điểm văn hóa - xã hội của
từng giai đoạn, từng thời kì lịch sử khác nhau. Chính đặc điểm khác nhau về
15
bối cảnh lịch sử của mỗi thời kì kết hợp với cá tính sáng tạo của chủ thể sáng
tạo sẽ tạo nên một kiểu diễn ngôn riêng biệt của mỗi nhà văn, đồng thời cũng
tạo nên những kiểu diễn ngôn mang đặc trưng phong cách thời đại. Do vậy,
có thể khẳng định phong cách thời đại chính là diễn ngôn.
1.2. Khái quát về diễn ngôn lịch sử
1.2.1. Diễn ngôn lịch sử trong khoa học lịch sử
Diễn ngôn lịch sử trong khoa học lịch sử hay còn gọi là diễn ngôn khoa
học lịch sử đƣợc hiểu là cách thức tổ chức, sắp xếp ngôn từ tạo thành một hệ
thống kí hiệu, một cấu trúc diễn ngôn hoàn chỉnh cung cấp tri thức về lịch sử;
nó là những quy tắc phát ngôn trong bộ môn khoa học về lịch sử (chính sử).
Diễn ngôn khoa học lịch sử bao gồm một số đặc trƣng sau đây:
Thứ nhất, khác với tính hư cấu là đặc trưng nổi bật của diễn ngôn văn
học, diễn ngôn lịch sử trong khoa học lịch sử phải đảm bảo tính chân thật của
lịch sử cũng như tính khách quan, chính xác của một bộ môn khoa học. Nếu
nhƣ nhà văn có hai đặc quyền trong sáng tác văn chƣơng: một là “nhà văn là
ngƣời thƣ kí trung thành của thời đại” tức là phải phản ánh một cách cụ thể,
chân thực hiện thực đời sống; hai là, nhà văn cũng có quyền hƣ cấu, không
nhất thiết phải viết đúng sự thật nhƣ những gì đã có trong thực tại mà anh
đƣợc quyền viết theo cảm hứng sáng tạo nghệ thuật của riêng anh; thì sử gia
phải là ngƣời tuyệt đối trung thành với những sự kiện lịch sử đã diễn ra,
không có quyền thêm hoặc bớt theo chủ ý cá nhân và đặc biệt không có quyền
hƣ cấu lịch sử. Nhiệm vụ, sứ mệnh của ngƣời viết sử là “ghi chép” lịch sử,
tƣờng thuật, tái hiện lại sự kiện lịch sử nhƣ nó vốn có chứ không phải là
ngƣời sáng tác lịch sử, tạo ra lịch sử.
Thứ hai, liên quan đến mục đích của việc chép sử để từ đó quy định
hình thức, cách tạo lập diễn ngôn lịch sử trong khoa học lịch sử. Mục đích
của việc chép sử là để ghi chép lại những sự kiện lịch sử đã diễn ra trong quá
khứ, sự kiện đó diễn ra nhƣ thế nào, nguyên nhân bắt đầu từ đâu, nó để lại
những bài học ý nghĩa nào cho ngƣời đời sau học hỏi. Chính vì nhằm đáp ứng
đƣợc mục đích, yêu cầu đó, cho nên việc ghi chép các sự kiện lịch sử phải
đảm bảo đƣợc tính ngắn ngọn, rành mạch, chính xác giúp cho ngƣời đọc tiện
16
cho việc ghi nhớ, nắm bắt. Và để đảm bảo cho tính ngắn gọn, cô đúc thì
nhiệm vụ của ngƣời chép sử chỉ ghi chép lại một cách khách quan, trung thực
sự kiện lịch sử đã diễn ra trong quá khứ và nêu lên đƣợc bản chất vấn đề của
nó, chứ không đƣợc quyền thêm hoặc bớt đi theo ý muốn chủ quan của mình,
đặc biệt không đƣợc hƣ cấu lịch sử, sáng tạo thêm các chi tiết và tiểu tiết xung
quanh các sự kiện đó.
Thứ ba, chú ý đến hệ thống các nhân vật lịch sử. Khi viết diễn ngôn
lịch sử trong khoa học lịch sử, nhân vật lịch sử phải là những con ngƣời có
thật trong lịch sử, nhƣ: Trần Thủ Độ, Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần Quốc Tuấn,
Trần Quang Khải, Trần Ích Tắc,… Họ là những con ngƣời của sự kiện, con
ngƣời hằng in trong tâm thức cộng đồng về những phẩm tính tiêu biểu, xuất
chúng, có vai trò và đóng góp to lớn đối với vận mệnh dân tộc. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, cũng cần phải nhận thức đƣợc rằng nhân vật lịch sử dù có đƣợc
“thần thánh hóa” đến đâu đi chăng nữa thì trƣớc hết họ cũng là con ngƣời
bình thƣờng. Do khả năng hoặc hạn chế về trí tuệ, tri thức, tính cách, tu
dƣỡng,… mà họ có thể khôn ngoan hoặc dại dột, có thể xây dựng nên cả một
cơ đồ hoặc hủy hoại nó, có thể đƣợc trở thành ngƣời anh hùng lập công lớn
với cộng đồng đƣợc nhân dân ca tụng hoặc cũng có thể trở thành kẻ tội đồ
lịch sử bị ngƣời đời sau nguyền rủa,… Một điểm nữa cần lƣu ý đó là trong
khoa học lịch sử (chính sử) khía cạnh con ngƣời cá nhân, con ngƣời đời tƣ
của nhân vật lịch sử không đƣợc nói đến, khác với trong diễn ngôn lịch sử
trong văn học.
Thứ tư, chú ý về mặt thống kê số liệu trong khoa học lịch sử. Diễn ngôn
trong khoa học lịch sử muốn đảm bảo đƣợc tính chinh xác, minh bạch, có độ
tin cậy cao, một trong những yếu tố không thể thiếu đƣợc trong công việc
chép sử của các sử gia đó là ghi chép, đƣa ra những con số, số liệu cụ thể về
ngày, tháng, năm diễn ra sự kiện, sự kiện đó để lại những hậu quả hay thắng
lợi trên những phƣơng diện nào (thống kê cụ thể bằng số liệu thực tế),…
Thứ năm, về điểm nhìn trần thuật của diễn ngôn trong khoa học lịch sử.
Trong chính sử, các sử gia là ngƣời ghi chép lại lịch sử, tƣờng thuật lại diễn
biến của lịch sử theo ngôi kể thứ ba, đứng ngoài phạm vi của các sự kiện lịch
sử ấy mà không can dự hoặc bày tỏ thái độ đánh giá chủ quan của mình trƣớc
17
những sự kiện lịch sử ấy. Vì vậy, điểm nhìn trong diễn ngôn khoa học lịch sử
là điểm nhìn bên ngoài, nhất quán (ngôi thứ ba từ điểm nhìn của sử quan),
khách quan, trung tính.
Nhƣ vậy, có thể hiểu một cách ngắn gọn nhất diễn ngôn khoa học lịch
sử là một loại diễn ngôn đƣợc dùng trong chuyên ngành khoa học lịch sử. Các
đặc trƣng của nó cũng chính là những nguyên tắc đòi hỏi ngƣời chép sử phải
tuân thủ để đảm bảo tính chính xác, khách quan, khoa học của diễn ngôn khoa
học lịch sử.
1.2.2. Diễn ngôn tiểu thuyết lịch sử - một bình diện quan trọng của diễn
ngôn trong sáng tác và nghiên cứu văn học
Lịch sử bao giờ cũng là gia tài của trí thức, ngƣời mẹ của chân lí. Lịch
sử ôm trọn trong mình tất cả những gì đã diễn ra trong quá khứ, thuộc về quá
khứ, tuy quá khứ nhƣng vẫn không cắt mối dây liên hệ với hôm nay, là một
bộ phận của cuộc sống hôm nay, chứa đựng nhiều điều bí ẩn về con ngƣời, xã
hội, thời đại. Tiểu thuyết lịch sử lấy lịch sử làm đề tài phản ánh. Trong dòng
chảy của văn học, tiểu thuyết lịch sử là một mạch nguồn không phải mới đƣợc
khai thông. Trƣớc đây, chúng ta cũng có viết tiểu thuyết lịch sử, nhƣng đó là
loại tiểu thuyết lịch sử cách mạng. Ở đó nhà tiểu thuyết chủ yếu hƣớng ngòi
bút của mình viết về các tấm gƣơng anh dũng chiến đấu hi sinh vì lý tƣởng
giải phóng dân tộc của những lãnh tụ cách mạng, các chiến dịch, các cuộc
khởi nghĩa,… Trong quan niệm viết tiểu thuyết lịch sử lúc bấy giờ, lịch sử để
lại tất cả dấu ấn của mình trong văn học với đặc điểm bao trùm và nổi bật là
mô hình đối lập nhị nguyên, quy luật đấu tranh giai cấp, địch ta, tiến bộ, phản
động, nông dân với địa chủ, vô sản với tƣ sản, ngƣời yêu nƣớc với kẻ bán
nƣớc, giặc ngoại xâm,… Vì chịu sự chi phối mạnh mẽ của ý thức hệ, nhà
nƣớc, chính quyền, giai cấp, cho nên tiểu thuyết lịch sử thƣờng phản ánh lịch
sử theo đúng quan niệm ta tốt - địch xấu, ta thắng - địch thua. Đây chính là
loại tiểu thuyết lịch sử chính trị theo quan điểm chính đảng. Nhiệm vụ của
tiểu thuyết đó là ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, xây dựng nên những
bức tƣợng đài về những ngƣời anh hùng, từ đó khơi dậy lòng yêu nƣớc, tinh
thần sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì nghĩa lớn. Những vấn đề thuộc về đời sống
18