Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Thảo luận Trung cấp lí luận chính trị hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.83 KB, 48 trang )

Học viên: Phạm Thị Chúc Liên
Lớp: H699
BÀI THẢO LUẬN - ÔN TẬP
HỌC PHẦN: NHỮNG VẪN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ
NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC ĐẢNG Ở CƠ SỞ
(THẢO LUẬN LẦN 1)
***
Câu 1: Đảng CSVN đã vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin, đề ra những vấn
đề cơ bản về Đảng và xây dựng Điều lệ Đảng như thế nào? Cần phải làm
gì để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng?
Trả lời:
I. Khái niệm:
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân
tộc. Đảng ta được thành lập vào ngày 03/2/1930.
II. Những nội dung cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng
Cộng sản Việt Nam và những điểm sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh
1. Tính tất yếu của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sang lập và rèn luyện:
Đảng Cộng sản ra đời khi cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp đô hộ đã lên đến đỉnh điểm, sự đấu tranh quyết liệt của giai cấp công
nhân Việt Nam bị bóc lột bởi thực dân và giai cấp tư sản cùng với sự kìm kẹp
của các thế lực phong kiến phản động. Đảng ra đời khi phong trào yêu nước
phát triển mạnh mẽ như lại bế tắc về đường lối.
Đảng ta ra đời là kết quả và sản phẩm của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa
Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhận và phong trào
yêu nước Việt Nam, sự vận dụng sang tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt
Nam của Bác Hồ. Đảng ta ra đời là tất yếu của xu thế phát triển xã hội Việt
Nam đó là xu thế độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Đảng ra đời phù hợp
với xu thế của thời đại, là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.


Như vậy, Đảng ta là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lenin
với phong trào công nhân là phong trào yêu nước. Điểm sang tạo của sự ra đời
chính là phong trào yêu nước. Bác Hồ đã thể hiện truyền thống của dân tộc Việt
Nam đó là tinh thần yêu nước đấu tranh chống ngoại xâm; ngoài ra thành phần
xuất thân chủ yếu là nông dân, công nhân lúc bấy giờ chỉ chiếm phần nhỏ, lực
lượng còn mỏng; tại xã hội Việt Nam lúc đó diễn ra hai mâu thuẫn là mâu
thuẫn giữa nông dân và địa chủ; mâu thuẫn giữa nhân dân và thực dân. Phong
trào yêu nước không mâu thuẫn với phong trào công nhân là còn chung mục
tiêu cuối cùng là giải phóng dân tộc. Đây là sự sang tạo trong sự ra đời của
Đảng
2. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam:


Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Điểm
sang tạo nằm ở chổ Đảng ta bên cạnh là đội tiên phong đại diện cho giai cấp
còn là đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác Lê nin cho rằng Đảng Cộng sản chỉ là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và
nền tảng tư tưởng của giai cấp công nhân.
Bác Hồ cũng kế thừa quan điểm này đồng thời nhận thấy đặc điểm của
giai cấp công nhân Việt Nam còn là tinh thần đoàn kết, yêu nước, quyết tâm
dành độc lập cho dân tộc, chính vì vậy Đảng ta không chỉ là đại biểu cho giai
cấp công nhân mà là của toàn dân tộc. Đây chính là điểm sang tạo. Điều này
được thể hiện qua các giai đoạn lịch sử như: Từ Đại hội thứ I đến Đại hội lần
thứ 9 vẫn kế thừa nhưng đến Đại hội 10, Đại hội 11 và Đại hội 12, chúng ta đã
vận dụng tư tưởng này của Bác Hồ.
Xuất phát từ hoàn cảnh khách quan của đất nước ta là một nước nông
nghiệp là chủ yếu, giai cấp công nhân chưa thật sự sớn mạnh, số lượng còn hạn

chế. Vì vậy Đảng ta đã xác định không chỉ Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, mà còn “đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam”; đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.
Lịch sử Việt Nam khẳng định sức mạnh của Đại đoàn kết dân tộc vì lực
lượng cách mạng và lực lượng nòng cốt là liên minh công nông, một mình giai
cấp công nhân đơn lẻ không làm nên lịch sử mà phải là sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc, sức mạnh của sự tập hợp lực lược cách mạng trên nền tảng
liên minh công, nông trí thức; lực lượng được kết nạp vào Đảng ngày càng đa
dạng, tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội theo đúng quy định của điều lệ
Đảng. Đảng không chỉ bảo vệ quyền lợi cho giai cấp công nhân và còn cho
nhân dân, cho dân tộc.
3. Mục đích của Đảng:
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện
thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Sáng tạo của
Bác Hồ ở chỗ đề ra mục đích độc lập dân tộc, đây là điểm vận dụng trong từng
thời kỳ cách mạng; một sang tạo nữa là Đảng ta đã đưa vấn đề dân chủ lên
hang đầu tại Đại hội 11. Vì phải có dân chủ, phải có độc lập dân tộc là điều
kiện trức tiên để thực hiện mục tiêu lâu dài là tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
4. Hệ tư tưởng của Đảng:
Đảng vừa lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách
quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị,
đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Tư


tưởng Hồ Chí Minh là tinh hoa của Đảng ta và được vận dụng làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta. Đây là một điểm vận dụng

sáng tạo.
4. Nguyên tắc tổ chức của Đảng:
Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập
trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện
các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính
trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lê
nin cho rằng việc tổ chức theo công thức phê bình và tự phê bình trong khi đó
Bác Hồ cho rằng phải thực hiện tự phê bình và phê bình ; trong hoạt động
phải có tình đồng chí, anh em, yêu thương lẫn nhau; Đảng phải hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; phải liên hệ, gắn bó với quần chúng nhân
dân.
Nguyên tắc tổ chức hoạt động của đảng còn đoàn kết trên cơ sở Cương
lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, nguyên tắc tổ chức của đảng
không những hoạt động theo “Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng” mà
nguyên tắc đó còn phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng ta muốn khẳng định ngoài cương lĩnh, điều lệ đảng mọi hoạt động của
đảng còn phải phù hợp với nguyện vọng của nhân dân chính là phù hợp với
Hiến pháp và pháp luật vì hiến pháp là nguyện vọng của nhân dân, do nhân
dân lập nên, pháp luật là ý chí của nhân dân.Tôn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây
dựng Đảng.
5. Vấn đề về Đảng cầm quyền:
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân
để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách
mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống
ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Điểm sang tạo của chúng tao
đó là phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tính độc lập, tổ chức nhà
nước
6. Chủ nghĩa Quốc tế:
Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
7. Phương châm xây dựng Đảng:
Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo


cách mạng của Đảng. Điểm sang tạo của Hồ Chí Minh chính là việc đề cao đạo
đức cách mạng của đội ngũ đảng viên. Bác Hồ coi đạo đực cách mạng là cái
gốc của mọi vấn đề.


Câu 2: Tính tất yếu Đảng CS lấy tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ
chức và hoạt động cơ bản? Liên hệ việc thực hiện về đề xuất biện pháp để
thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ tại chi bộ (đảng bộ).
I. Nguyên tắc tập trung dân chủ
a) Khái niệm:
Nguyên tắc tập trung dân chủ: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên tắc
trập trung dân chủ có nghĩa là “có đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất,
cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải
phục túng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục
tùng trung ương”. Tập trung phải trên nền tảng dân chủ. Cơ quan lãnh đạo của
Đảng có uy tín và quyền lực, mọi đảng viên phải chấp hành các phương châm,
chính sách, nghị quyết của Đảng, phải tuân theo kỷ luật của Đảng. Nhưng tập

trung ấy không phải là cá nhân, chuyên chính, nó là xây dựng trên nền tảng dân
chủ.
- Quan điểm của Mác và Angghen: Chưa nêu rõ nguyên tắc này mà chỉ
nêu nguyên tắc chung là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp
trên; trong nội bộ phải có sự đoàn kết.
- Quan điểm của Lê-nin: Đảng là một tổ chức chặt chẽ, nguyên tắc tập
trung dân chủ là nguyên tắc chặt chẽ để phân biệt một chính đảng giai cấp công
nhân với các đảng cơ hội khác.
- Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Dân chủ trong Đảng là cơ sở để
dân chủ toàn dân.
Nguyên tắc này xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của Đảng là giải phóng
nhân dân, hướng đến chủ nghĩa xã hội; xuất phát từ bản chất của giai cấp công
nhân là giải phóng nhân dân, giải phóng xã hội
Từ thực tiễn của cách mạng thế giới qua các thời kỳ, nếu phong trào nào
thực hiện tốt nguyên tắc này thì sẽ thành công, nếu thực hiện không nghiêm thì
sẽ có hiện tượng thoái trào. Tại Việt Nam qua 12 kỳ đại hội đã thực hiện tốt
nguyên tắc này.
b) Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
- Tạp trung dân chủ là một thể thống nhất không thể tách rời, có mối
quan hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ.
- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ
đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là
ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
- Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo



tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê
bình và phê bình.
- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu
số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các
tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp
hành Trung ương.
- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành
khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu
quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến
Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm
quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có
ý kiến thuộc về thiểu số.
- Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của
mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
II. Lý do Đảng ta chọn nguyên tắc tập trung dân chủ làm nền tảng
trong tổ chức và hoạt động
Nguyên tắc tập trung dân chủ có vị trí và tầm quan trọng hàng đầu trong
tổng thể các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng Cộng sản. Nguyên tắc
này có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc bảo đảm sự vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng Cộng sản. Nếu thực hiện nguyên tắc này sẽ
tang cường đoàn kết nội bộ; phát huy được năng lực trí tuệ, bản lĩnh của mỗi
cán bộ đảng viên. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất chi phối tất cả các nguyên tắc
khác trong Xây dựng đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc
tập trung dân chủ.
Đảng ta chọn nguyên tắc này là nguyên tắc tổ chức và hoạt động vì nó
có tính tất yếu khách quan trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của
Đảng Cộng sản nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, cụ thể là:

1. Nguyên tắc này, một mặt, bảo đảm phát huy tính tích cực và sáng tạo
của mọi tổ chức đảng và đảng viên; mặt khác, bảo đảm sự thống nhất ý chí và
hành động của Đảng.
2. Trong nguyên tắc tập trung dân chủ, tập trung và dân chủ thống nhất
với nhau, tập trung phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ đi đôi với tập trung. Dân
chủ là điều kiện, tiền đề của tập trung, đồng thời tập trung là cơ sở bảo đảm cho
dân chủ được thực hiện và phát huy. Dân chủ càng phát triển thì tập trung càng
vững chắc, sức mạnh của Đảng càng được khẳng định. Nếu thực hành dân chủ
tốt, sẽ phát huy được trí tuệ, tiềm năng, khơi dậy được tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của mọi đảng viên, tổ chức đảng, tạo nên sự thống nhất ý chí và hành
động của Đảng.
3. Thực tiễn hoạt động chính trị chứng minh rằng do xuất xứ và quá
trình phát triển khác nhau, giữa các đảng viên cộng sản, để đạt được sự thống


nhất về quan điểm, lập trường, thái độ ứng xử với mọi đối tượng và đối tác của
cách mạng không bao giờ là việc giản đơn. Điều đó không tuỳ thuộc vào mối
quan hệ tình cảm trong đời sống hàng ngày, nhưng chỉ có thể thực hiện trong
những chính đảng tổ chức theo nguyên tắc “tập trung dân chủ”.
4. Tập trung là nguyên tắc tổ chức của mọi chính đảng. Còn dân chủ
mới là tính chất cần xây dựng, làm nền tảng cho nguyên tắc tập trung của các
đảng cộng sản. V.I. Lênin đã khẳng định: “Cần phải dựa vào bản điều lệ (đảng)
để rèn một vũ khí ít nhiều sắc bén để chống chủ nghĩa cơ hội. Những nguyên
nhân của chủ nghĩa cơ hội càng sâu xa bao nhiêu thì vũ khí ấy càng phải sắc
bén bấy nhiêu”.
5. Có dân chủ mới có sự thúc đẩy và phát huy tính chủ động, sáng tạo,
mới nuôi dưỡng và phát triển được các tài năng. Có tập trung mới tạo ra được
sức mạnh chung, thống nhất ý chí và hành động vì mục tiêu chung của cách
mạng. Tập trung đúng đắn, hợp lý sẽ làm tăng sức mạnh của dân chủ. Dân chủ
lành mạnh phải dựa trên cơ sở tập trung.

III. Liên hệ thực tiễn và đề xuất biện pháp để thực hiện tốt nguyên
tắc này.
1. Liên hệ thực tiễn
Các anh chị tự liên hệ để phù hợp với tình hình thực tiễn tại cơ
quan/đơn vị mình.
2. Một số biện pháp để thực hiện tốt nguyên tắc này
Gợi ý một số nội dung để các anh chị tham khảo:
- Quán triệt cho cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ và thống nhất về
nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Cụ thể hoá nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ thành
chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối quan hệ công tác, chế độ công tác,
của từng cán bộ, đảng viên, từng cấp uỷ, tổ chức đảng, thể hiện rõ trong các
quy chế, quy định.
- Tăng cường kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với việc thực hiện dân
chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ của cấp ủy cấp dưới.
Việc đánh giá cán bộ nhất thiết phải hỏi ý kiến cấp quản lý cán bô, hỏi ý
kiến quần chúng và cấp dưới, cùng những người có quan hệ, có hiểu biết về
cán bộ đó, trực tiếp với cán bộ đó.
- Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng. Đặc biệt chú ý việc phát huy dân
chủ.
Câu 3: Phân tích vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng? Liên hệ việc
thực hiện nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng nơi Anh (Chị) đang sinh họat,
công tác? đề xuất biện pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
tại chi bộ (đảng bộ)?


I. Khái niệm:
Tổ chức cơ sở đảng là tổ chức cơ sở của Đảng được lập ở đơn vị cơ
sở. Theo Điều 10 Điều lệ Đảng
Ở xã, phường, thị trấn có từ 3 Đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức

cơ sở Đảng (trực thuộc cấp ủy cấp huyện), ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác
xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba
Đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở Đảng (Tổ chức cơ sở đảng hoặc
chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở). Tổ chức cơ sở Đảng dưới 30 Đảng viên, lập
chi bộ cơ sở, có các tổ Đảng trực thuộc. Tổ chức cơ sở có từ 30 Đảng viên trở
lên lập Đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc Đảng uỷ. Theo Khoản 3 Điều
21 Điều lệ Đảng
Tổ chức cơ sở Đảng của Đảng cộng sản Việt Nam gồm chi bộ cơ sở,
Đảng bộ cơ sở. Đảng bộ cơ sở có 2 loại: Đảng bộ cơ sở có các chi bộ trực
thuộc; Đảng bộ cơ sở có Đảng bộ bộ phận và chi bộ trực thuộc. Các tổ chức cơ
sở Đảng đều có cấp uỷ cấp trên trực tiếp. Ví dụ: huyện uỷ là cấp trên trực tiếp
của tổ chức cơ sở Đảng ở xã, thị trấn thuộc huyện đó; quận uỷ và cấp trên trực
tiếp của tổ chức cơ sở Đảng ở phường thuộc quận. Ngoài ra, nếu được cấp uỷ
cấp trên trực tiếp đồng ý, trong một số tổ chức cơ sở Đảng còn có Đảng bộ bộ
phận trực thuộc Đảng uỷ cơ sở. Trong các Đảng bộ bộ phận có các chi bộ trực
thuộc.
II. Vai trò, vị trí của Tổ chức cơ sở Đảng:
Theo Khoản Điều 21 Chương 5 Điều lệ Đảng xác định rõ vị trí, vai trò
cụ thể là: Tổ chức cơ sở Đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Với vị trí là nền tảng của Đảng, TCCSĐ
có vai trò rất quan trọng đối với sự vững mạnh và năng lực lãnh đạo của Đảng.
1. Đây là cấp tổ chức cuối cùng trong hệ thống tổ chức bốn cấp của
Đảng ta, là cấp tổ chức sâu rộng nhất, gắn với các đơn vị cơ sở trên toàn lãnh
thổ và các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng tới từng cơ sở, từng đảng viên và từng người dân. Là hạt nhân chính trị ở
cơ sở, TCCSĐ là nơi thể hiện toàn diện, trực tiếp và cụ thể nhất mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân.
2. Đây là nơi trực tiếp thực hiện và lãnh đạo các tầng lớp nhân dân thực
hiện chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật Nhà nước. Đưa đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống. Nhằm khơi

dậy nguồn lực trí tuệ của nhân dân. Đồng thời qua đó góp phần kiểm nghiệm
và bổ sung đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
3. Đây cũng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động quan trọng trong
công tác xây dựng phát triển Đảng, như kết nạp, quản lý, phân công nhiệm vụ,
kiểm tra, đánh giá, sàng lọc đảng viên; nơi đảng viên thường xuyên thực hành
các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt; nơi xuất phát đề cử, cung cấp cán bộ ra cơ
quan lãnh đạo các cấp của Đảng. Bác Hồ đã nói: Để lãnh đạo cách mạng, Đảng
phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt.


4. Tổ chức cơ sở đảng còn là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân
dân, là mắt khâu trọng yếu để duy trì mối liên hệ của Đảng với nhân dân; là tổ
chức gần dân nhất, trực tiếp lãnh đạo nhân dân và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng
của quần chúng nhân dân để phản ánh với Đảng. Dân tin Đảng, theo Đảng hay
không là nhờ ở vai trò rất quan trọng, trực tiếp của TCCSĐ, của cán bộ đảng
viên tại cơ sở. Bác Hồ đã dạy: “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì
mọi việc sẽ tốt”.
5. Với vị trí, vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở, tổ chức cơ sở đảng tuy là
một bộ phận trong hệ thống chính trị ở cơ sở, nhưng là tổ chức lãnh đạo tất cả
các tổ chức khác trong hệ thống chính trị đó, là tổ chức bảo đảm cho mọi hoạt
động ở cơ sở theo dung định hướng chính trị của Đảng.
Bác Hồ đã dạy: Đối với Đảng ta, xây dựng chi bộ cho tốt, cho vững
mạnh và một việc vô cùng quan trọng. Đảng ta luôn coi xây dựng, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, là nhiệm vụ thường
xuyên, quan trọng hang đầu của công tác xây dựng Đảng.
III. Liên hệ thực tiễn.
IV. Đề xuất biện pháp để nâng cao năng lực, sức chiến đấu.
1. Công tác thể chế hóa
Hoàn thiện việc xây dựng quy chế hoạt động, nắm vững và thực hiện
đúng chức nãng nhiệm vụ của các loại hình TCCSĐ.

2. Công tác đánh giá
Đánh giá đúng chất lượng TCCSĐ theo hướng coi trọng chất lượng,
chống bệnh thành tích. Cụ thể hoá tiêu chuẩn đánh giá chất lượng TCCSĐ theo
hướng dẫn của Ban chấp hành Trung ýơng.
3. Công tác kiện toàn về tổ chức
Kiện toàn đảng ủy, chi ủy gắn với nâng cao đội ngũ cán bộ công chức.
Kiện toàn Đảng ủy theo hướng coi trọng tiêu chuẩn nhưng phải chú ý đến cơ
cấu (giới tính, độ tuổi, dân tộc, các bộ phận).
4. Công tác quán triệt
Từng đảng viên cần nhận thức và phát huy đầy đủ vai trò của tổ chức
đảng đối với mọi mặt hoạt động của đơn vị. Cán bộ chủ chốt cấp ủy đảng phải
thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt,
đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải
quyết kịp thời”.
5. Nâng cao tính gương mẫu
Đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chủ chốt của địa phương, cơ sở phải thực sự
gương mẫu trước nhân dân. “Mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là một tấm gương về phẩm chất
đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng
viên và nhân dân”.


6. Công tác sinh hoạt Đảng
Giữ vững các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng gắn với nâng cao chất
lượng sinh hoạt đảng ủy, chi bộ. Các tổ chức đảng cần duy trì sinh hoạt có nền
nếp, coi sinh hoạt đảng là nơi để tổ chức đảng và mỗi đảng viên thực hiện đúng
chức năng lãnh đạo, giáo dục và chiến đấu của mình.
7. Công tác dân vận
Phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị và quần chúng
nhân dân tham gia xây dựng Đảng, đóng góp ý kiến, phê bình cán bộ, đảng

viên nhất là người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể. Phải xác định
rằng, tham gia xây dựng Đảng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của các
tổ chức chính trị-xã hội và của quần chúng nhân dân.
8. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo
Tăng cường sự chỉ đạo của tổ chức Đảng cấp trên. Khuyến khích cơ sở
tăng cường tính năng động, sáng tạo, đồng thời tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn
của tổ chức Đảng cấp trên, trước hết là cấp trên trực tiếp. Đây là giải pháp quan
trọng, nhằm tháo gỡ những khó khăn cho cơ sở, tạo điều kiện cho cơ sở đi đúng
hướng.
9. Công tác kiểm tra
Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút
kinh nghiệm về nâng cao tính chiến đấu của TCCSĐ. Các TCCSĐ cần thường
xuyên nắm chắc tình hình, đánh giá đúng thực trạng tính chiến đấu của từng chi
bộ, đảng bộ, từng cán bộ, đảng viên, từ đó xác định chủ trương, kế hoạch, nội
dung, biện pháp xây dựng, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức đảng làm tốt công tác
kiểm tra, giám sát.


Câu 4: Phân tích nội dung công tác đảng viên của tổ chức cơ sở
đảng? Những vấn đề đặt ra tại chi bộ (đảng bộ)? Đề xuất biện pháp để
nâng cao chất lượng, số lượng đội ngũ đảng viên ở chi bộ (đảng bộ) mình?
I. Nội

dung công tác đảng viên của tổ chức cơ sở đảng

II. Những

vấn đề đặt ra tại chi bộ

Để thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, cần phải cập nhật những bổ

sung mới liên quan đến công tác đảng viên được nêu trong Hướng dẫn số 01HD/TW ngày 20-9-2016 của Ban Bí thư về một số vấn đề cụ thể thi hành Điều
lệ Đảng. Hướng dẫn này được xây dựng trên cơ sở kế thừa những nội dung còn
phù hợp của Hướng dẫn số 01-HD/TW ngày 05-01-2012 của Ban Bí thư khóa
XI; bổ sung một số nội dung mới để đồng bộ với Quy định số 29-QĐ/TW của
Ban Chấp hành Trung ương về thi hành Điều lệ Đảng. Theo đó,có một số nội
dung mới về công tác đảng viên được bổ sung, sửa đổi như sau:
Thứ nhất: Về công tác kết nạp đảng viên
1. Về trình độ học vấn của người vào Đảng (Mục 1.2)
So với Hướng dẫn của nhiệm kỳ trước, trong Hướng dẫn mới đã qui định cụ
thể hơn tại Mục 1.2.a về người vào Đảng nếu chỉ có trình độ học vấn “tối thiểu
hoàn thành chương trình bậc tiểu học” phải là những người “đang sinh sống ở
miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế
- xã hội đặc biệt khó khăn hoặc ngư dân thường xuyên làm việc ngoài biển,
đảo”.
Đồng thời, tại Mục 1.2.b quy định người vào Đảng “là già làng, trưởng bản,
người có uy tín” cũng phải là những người đang sinh sống ở những địa bàn nêu
trên và tối thiểu phải “biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” và phải được “ban
thường vụ cấp ủy trực thuộc Trung ương đồng ý bằng văn bản trước khi cấp ủy
có thẩm quyền ra quyết định kết nạp”.
2. Về thẩm tra lý lịch của người vào Đảng (Mục 3.4.c)
Trong nội dung qui định về phương pháp thẩm tra xác minh, ở Hướng dẫn
trước đây đặt ra trường hợp “nghi vấn” về chính trị thì đến cơ quan an ninh ở
trong nước để thẩm tra. Nay Hướng dẫn mới diễn đạt lại, thay cụm từ “nghi
vấn” bằng “chưa rõ” và diễn đạt lại là” “trường hợp chưa rõ về chính trị thì đến
cơ quan an ninh có trách nhiệm quản lý, theo dõi tổ chức đó để thẩm tra”.
3.Về nghị quyết giới thiệu của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Mục
3.6 và Mục 5.4.a)


Ở Hướng dẫn trước đây, nội dung này chỉ thể hiện trách nhiệm của ban chấp

hành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cơ sở trong việc ra nghị quyết giới thiệu đoàn
viên vào Đảng. Hướng dẫn mới đã bổ sung trách nhiệm của “tập thể chi đoàn
cơ sở”, nhằm bảo đảm thống nhất với qui định về thủ tục này trong tổ chức và
hoạt động của Đoàn Thanh niên, phù hợp với thực tiễn hoạt động của tổ chức
đoàn thanh niên hiện nay.
4. Về xem xét, kết nạp đảng viên đối với người vào Đảng thay đổi nơi công tác
hoặc nơi cư trú (Mục 3.9)
Trong Hướng dẫn trước đây, ở các qui định liên quan đến việc thẩm quyền kết
nạp người vào Đảng chỉ nêu “cấp ủy có thẩm quyền”, để cụ thể hóa và thống
nhất thực hiện, ở Hướng dẫn mới bổ sung và thống nhất trình bày “cấp ủy có
thẩm quyền kết nạp đảng viên”.
Bên cạnh đó, ở Mục 3.9.b qui định cụ thể: “cấp ủy có thẩm quyền kết nạp đảng
viên (đảng ủy được ủy quyền, ban thường vụ đảng ủy được giao quyền, ban
thường vụ cấp ủy cấp huyện và tương đương)”.
5. Về việc phân công đảng viên theo dõi, giúp đỡ đảng viên dự bị (Mục 3.10)
Mục này có 2 nội dung mới được bổ sung, sửa đổi so với Hướng dẫn trước đây:
Một là, Đảng viên dự bị chuyển sinh hoạt đảng (chính thức hoặc tạm thời) đến
nơi làm việc, học tập, hoặc nơi cư trú mới, thì chi ủy, đảng ủy cơ sở nơi đảng
viên chuyển đi nhận xét vào bản tự kiểm điểm của đảng viên dự bị “và gửi kèm
bản nhận xét về đảng viên dự bị của đảng viên chính thức được phân công giúp
đỡ đảng viên” báo cáo cấp ủy…
Hai là, bổ sung nội dung mới: “Đảng viên chính thức theo dõi, giúp đỡ đảng
viên dự bị trước khi chuyển sinh hoạt đảng đến tổ chức cơ sở đảng khác, có
trách nhiệm gửi bản nhận xét về đảng viên dự bị. Chi bộ phân công đảng viên
chính thức khác tiếp tục theo dõi, giúp đỡ đảng viên dự bị”.
6. Về kết nạp đảng viên trong một số trường hợp cụ thể (Mục 6.4.c)
Hướng dẫn trước đây quy định về kết nạp những người đang làm hợp đồng tại
cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp: “Nếu làm hợp đồng dưới 12 tháng
(có thời hạn) thì tổ chức đảng nơi cư trú xem xét kết nạp”. Nay Hướng dẫn mới
bổ sung, sửa đổi như sau: “Nếu làm hợp đồng có thời hạn, thời gian thực tế làm

việc tại cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp dưới 12 tháng thì tổ chức
đảng nơi cư trú xem xét kết nạp”.
Đồng thời qui định: “Nếu làm hợp đồng liên tục từ đủ 12 tháng trở lên thì tổ
chức đảng của cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp nơi người đó làm việc
xem xét kết nạp”.


Thứ hai: Về công tác quản lý đảng viên
1. Về việc phát và quản lý thẻ đảng viên (Mục 7)
Bổ sung trong Hướng dẫn một mục mới (Mục 7.1.c): “Đảng viên bị khai trừ,
xóa tên và đưa ra khỏi Đảng bằng các hình thức khác thì chi bộ có trách nhiệm
thu lại thẻ đảng nộp lên cấp ủy cấp trên trực tiếp”.
Và bổ sung, sửa đổi ở Mục 7.1.d như sau: “Đảng viên hoặc tổ chức đảng phát
hiện việc sử dụng thẻ đảng viên sai qui định, thẻ đảng bị thất lạc, mất hoặc làm
giả thì phải kịp thời báo cáo cấp ủy”.
2. Về yêu cầu quản lý hồ sơ đảng viên (Mục 8)
Bổ sung quy định về trách nhiệm của đảng viên và cấp ủy trong việc quản lý hồ
sơ đảng viên (Mục 8.3). Để khắc phục tình trạng không thực hiện nghiêm chế
độ báo cáo về sự biến động của đảng viên của đảng bộ lên cấp ủy cấp trên, làm
khó khăn trong công tác tổng hợp, thống kê, Hướng dẫn mới bổ sung quy định
trách nhiệm của cấp ủy cơ sở trong việc kiểm tra, bổ sung danh sách đảng viên;
viết “Phiếu báo đảng viên đã từ trần”, “Phiếu báo đảng viên ra khỏi Đảng”
chuyển giao cùng hồ sơ của những đảng viên này lên cấp ủy cấp trên trực tiếp
“chậm nhất 30 ngày làm việc” kể từ khi lập phiếu báo”.
Trong mục này và một số nội dung khác liên quan, trong việc diễn đạt các tổ
chức đảng bị giải tán, giải thể, sáp nhập có bổ sung cụm từ “hợp nhất” cho
thống nhất cách diễn đạt với Qui định thi hành Điều lệ Đảng.
3. Về giải quyết việc thay đổi họ tên và ngày, tháng, năm sinh
Ở Hướng dẫn trước đây có nội dung (8.2.h. Giải quyết việc thay đổi họ tên,
ngày tháng năm sinh), trong Hướng dẫn mới toàn bộ nội dung này được tách ra

và lập thành một Mục mới (Mục 9).
Về giải quyết việc thay đổi họ, tên giữ như Hướng dẫn khóa XI, riêng nội dung
thay đổi, điều chỉnh ngày tháng năm sinh được biên tập lại, bổ sung Mục 9.2
như sau:
“Kể từ ngày 18-8-2016, không xem xét điều chỉnh tuổi của đảng viên; thống
nhất xác định tuổi của đảng viên theo tuổi khai trong hồ sơ đảng viên (hồ sơ
gốc) khi được kết nạp vào Đảng”. Đây là sự bổ sung, thống nhất với Thông báo
số 13-TB/TW ngày 17-8-2016 của Ban Bí thư.
Thứ ba: Về chuyển sinh hoạt Đảng cho đảng viên
Về trách nhiệm của đảng viên và cấp ủy về chuyển sinh hoạt đảng (Mục 10)


Hướng dẫn có quy định về trách nhiệm của tỉnh ủy và tương đương, trách
nhiệm của Đảng ủy Ngoài nước trong việc làm thủ tục chuyển sinh hoạt đảng
cho đảng viên đi lao động, công tác, học tập ở nước ngoài. Hướng dẫn mới nêu
rõ việc chuyển sinh hoạt đảng: “thực hiện theo hướng dẫn của Đảng ủy Ngoài
nước” (Mục 10.1.đ).
Về thủ tục chuyển sinh hoạt đảng chính thức, ở trong nước, Hướng dẫn mới bổ
sung đối tượng là bộ đội biên phòng tăng cường cho cấp xã nơi biên giới hải
đảo và qui định cụ thể như sau: “Đảng viên được cấp có thẩm quyền quyết định
chuyển công tác sang đơn vị khác, được nghỉ hưu, nghỉ mất sức, phục viên
hoặc thay đổi nơi cư trú lâu dài; đảng viên đi công tác biệt phái, tăng cường
cho cấp xã nơi biên giới, hải đảo (đối với bộ đội biên phòng), hoặc đến làm
việc theo hợp đồng không xác định thời hạn từ 12 tháng trở lên ở các cơ quan,
doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp và hội quần chúng, thì giải quyết việc chuyển
sinh hoạt đảng…”.
Thứ tư: Việc xóa tên đảng viên trong danh sách đảng viên (Mục 11.1)
Để khắc phục tình trạng đảng viên xin ra khỏi Đảng hoặc cần phải xóa tên
trong danh sách đảng viên, việc xóa tên đảng viên cũng phải bảo đảm quy
trình, trong thực tế đảng viên bất hợp tác, chi bộ yêu cầu đến lần thứ 3 nhưng

đảng viên vẫn cố tình không thực hiện. Trong trường hợp này, Hướng dẫn mới
quy định chi bộ thực hiện quy trình xóa tên đảng viên, nội dung bổ sung như
sau:
“Đảng viên làm bản tự kiểm điểm và kiểm điểm trước chi bộ. Trường hợp chi
ủy đã yêu cầu đến lần thứ 3 nhưng đảng viên đó không làm bản kiểm điểm
hoặc không đến dự họp để kiểm điểm thì chi bộ vẫn xem xét, xử lý đối với
đảng viên đó. Trường hợp đảng viên cố tình không làm bản kiểm điểm theo
yêu cầu của chi bộ thì chi bộ thực hiện ngay quy trình đề nghị xóa tên đảng
viên”.
Thứ 5: Về khen thưởng đảng viên
1. Về tặng Huy hiệu Đảng (Mục 18)
Thống nhất với Qui định thi hành Điều lệ Đảng, Hướng dẫn mới cũng qui định
bổ sung Huy hiệu Đảng 45 năm và nêu rõ ở Mục 18.3 “Mức tặng phẩm kèm
theo Huy hiệu Đảng thực hiện theo Qui định của Ban Bí thư và hướng dẫn của
Văn phòng Trung ương Đảng”.
Ở mục 18.5, về trách nhiệm của cấp ủy về xét tặng Huy hiệu Đảng, trong
Hướng dẫn mới đã qui định trách nhiệm của cấp ủy cấp cơ sở trong việc: “Thu
hồi Huy hiệu Đảng của đảng viên bị khai trừ khỏi Đảng, xóa tên, gửi lên cấp ủy
cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng”. Như vậy, trường hợp đảng viên đã
được tặng Huy hiệu Đảng, nhưng bị khai trừ hoặc xóa tên thì phải thu hồi lại
Huy hiệu này.


2. Về khen thưởng đối với tổ chức đảng và đảng viên (Mục 19)
So với Hướng dẫn trước đây, Hướng dẫn mới có bổ sung, sửa đổi trong việc xét
tặng Giấy khen, Bằng khen cho tổ chức đảng đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững
mạnh”, trước đây các tổ chức đảng đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh” 3
năm liền thì nay qui định cao hơn, phải đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh”
5 năm liền; tương tự như vậy đối với khen thưởng đảng viên đạt tiêu
chuẩn “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” 5 năm liền, thay vì qui định 3 năm liền

như Hướng dẫn trước đây.
Trên đây là một số nội dung liên quan đến công tác đảng viên đã được bổ sung
mới theo Hướng dẫn số 01-HD/TW ngày 20-9-2016 của Ban Bí thư về một số
vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng. Để làm tốt công tác đảng viên cần nắm rõ
những điểm mới nêu trên. Đây cũng là một trong số những nội dung, xây dựng
đội ngũ đảng viên vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong giai
đoạn hiện nay.
III. Đề xuất biện pháp đề nâng cao chất lượng, số lượng đội ngữ đảng
viên ở chi bộ

Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay,
cần tiếp tục đổi mới và nâng cao hơn nữa chất lượng sinh hoạt chi bộ để đáp
ứng tốt yêu cầu công tác trong tình hình mới, đảm bảo việc sinh hoạt của Chi
bộ thể hiện rõ tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu của công tác Đảng;
tiếp tục xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững về chính trị, tư tưởng, mạnh về tổ
chức, giữ vững vai trò lãnh đạo trong sự nghiệp đổi mới.
1. Vị trí, vai trò của chi bộ:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Chi bộ là nền móng của
Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”
(1); “Chi bộ vững mạnh thì mọi chính sách của Đảng và Chính phủ nhất
định thi hành được tốt. Muốn vững mạnh, thì tất cả đảng viên trong chi bộ phải
thật thà đoàn kết nhất trí”
(2); “Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chuyền
để liên hệ Đảng với quần chúng”
(3). Muốn chi bộ phát triển tốt, thì cần chú trọng đến việc nâng cao chất
lượng chi bộ, “phải quan tâm đến việc xây dựng chi bộ, phải làm cho chi bộ trở
thành “bốn tốt”


(4). Chi bộ có vị trí, vai trò rất quan trọng, là cầu nối giữa Đảng với nhân

dân, do vậy hoạt động của chi bộ (mà chủ yếu thông qua sinh hoạt chi bộ
thường kỳ) chính là nhằm thống nhất tư tưởng, tổ chức và hành động trong toàn
Đảng, để thực hiện mục tiêu của Đảng, duy trì cầu nối này cũng là nhằm tăng
cường tính chiến đấu, tạo sức mạnh cho Đảng, gây dựng và giữ vững niềm tin
trong nhân dân.
Với nhiệm vụ đề ra chủ trương, lãnh đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ
chính trị của đảng bộ, chi bộ; xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh
về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung
dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê
bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; làm công
tác phát triển đảng viên; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân; liên hệ mật thiết, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; kiểm
tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp
luật của Nhà nước; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành
Điều lệ Đảng..., các chi bộ trong tất cả các loại hình tổ chức cơ sở đảng phải
thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt định kỳ theo quy định của Điều lệ Đảng.
Bởi đây chính là nơi, là lúc để thực hiện các nhiệm vụ trên; là nơi truyền đạt,
chỉ đạo, phân công cụ thể và các đảng viên tiếp thu, tổ chức thực hiện các công
việc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi
bộ tốt là do các đảng viên đều tốt ”. Để đạt được điều đó, phải đổi mới và nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới.
Việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ là nhân tố quyết định vai trò
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, giúp đảng viên nâng cao nhận
thức chính trị, tư tưởng và thực hiện chức năng lãnh đạo, giáo dục của chi bộ
2. Mục đích, ý nghĩa của sinh hoạt chi bộ:
Sinh hoạt chi bộ là một trong những hoạt động chủ yếu của chi bộ, có tác
động trực tiếp đến quá trình lãnh đạo của Đảng và quá trình nhận thức của mỗi
đảng viên. Do đó, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ thực chất là nâng cao

năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng,
trình độ mỗi đảng viên và là cơ sở, môi trường để phát huy dân chủ trong


Đảng. Chi bộ không sinh hoạt thường kỳ xem như ngưng hoạt động. Chất
lượng sinh hoạt chi bộ thấp thì chi bộ không thể hoàn thành nhiệm vụ.
Bên cạnh việc bảo đảm thực hiện nghiêm túc sinh hoạt định kỳ, trong
cuộc họp cần có sự phân công rõ ràng, nội dung sinh hoạt thiết thực và thời
gian phù hợp để mọi đảng viên trong chi bộ có thể phát huy dân chủ và bảo
đảm nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thực tiễn đã cho thấy, những chi bộ trong sạch, vững mạnh là những chi
bộ duy trì sinh hoạt chi bộ nền nếp, có nội dung sinh hoạt chi bộ phong phú,
thiết thực, có hình thức sinh hoạt đa dạng, có chất lượng tốt.
Sinh hoạt chi bộ là một trong những nội dung cơ bản của công tác xây
dựng đảng, là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của đảng và là chế độ được quy
định rõ trong Điều lệ Đảng. Việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, trong đó
có sinh hoạt chi bộ chuyên đề là hình thức sinh hoạt đi sâu thảo luận, giải quyết
một hoặc một vài vấn đề mà chi bộ thấy cần thiết, mang tính cốt lõi trong lãnh
đạo, chỉ đạo của chi bộ đối với yêu cầu nhiệm vụ đang đặt ra qua đó đề ra giải
pháp tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc, nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác lãnh đạo, chỉ đạo của chi bộ. Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng đó,
Ngày 30/3/2007 Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) đã ban hành Chỉ
thị số 10-CT/TW “Về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”,
Ngày 2/3/2012 Ban Tổ chức Trung ương ban hành Hướng dẫn số 09-HD/
BTCTW về “Nội dung sinh hoạt chi bộ”,
Ngày 6/7/2018, Ban Tổ chức Trung ương ban hành Hướng dẫn số 12 để
thay thế Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW, ngày 02-3-2012, về nâng cao chất
lượng sinh hoạt chi bộ.
3. Thực trạng sinh hoạt chi bộ:
3.1. Ưu điểm

Trong những năm qua, sinh hoạt chi bộ đã được thực hiện tương đối bài
bản, nghiêm túc, theo định kỳ hằng tháng. Về nội dung, đa số các chi bộ đã
thực hiện đúng theo Hướng dẫn số 09 của Ban Tổ chức Trung ương, bên cạnh
đó đã xây dựng các chuyên đề riêng phù hợp, thống nhất với chỉ đạo của cấp ủy
cấp trên và xuất phát từ nhiệm vụ phát sinh của cơ quan, đơn vị. Về hình thức,


cơ bản đều có phân công thư ký ghi chép và sử dụng hình thức lấy biểu quyết
để ban hành nghị quyết. Công tác chuẩn bị, điều hành sinh hoạt chi bộ của cấp
ủy, trực tiếp là đồng chí bí thư chi bộ cũng cơ bản được nâng cao. Việc thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt chi bộ tương đối tốt. Đảng
viên có trách nhiệm hơn trong tham gia phát biểu ý kiến, tham luận, thảo luận
tìm giải pháp khắc phục hạn chế, tồn tại. Tinh thần tự phê bình và phê bình
nhằm nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng được thực hiện khá tốt.
3.2. Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, chất lượng sinh hoạt chi bộ
vẫn còn những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới đó là: chi bộ chưa thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt đảng, buông
lỏng công tác quản lý, giáo dục đảng viên; nội dung sinh hoạt chi bộ chưa sâu,
chưa được chuẩn bị tốt, thiếu tính giáo dục và sự sinh động, hấp dẫn; tính
gương mẫu, tính chiến đấu, tinh thần tự phê bình và phê bình còn yếu, kể cả
cấp ủy; việc sinh hoạt tư tưởng để cấp ủy nắm và hiểu tâm tư, nguyện vọng
chính đáng của đảng viên còn chưa được thực hiện tốt. Đôi khi, trong sinh hoạt,
chi bộ bàn những chuyện rất xa xôi, ở tầm vĩ mô nhưng lại ít quan tâm giải
quyết những vấn đề thực tế sát sườn của địa phương, cơ quan, đơn vị, của
chính đảng viên trong chi bộ. Trong chi bộ chưa thật sự đoàn kết và chưa thể
hiện rõ tình thương yêu giữa đồng chí, đồng nghiệp với nhau. Chi bộ cũng chưa
thể hiện tốt vai trò là nơi lãnh đạo, giáo dục, quản lý, kiểm tra, giám sát và rèn
luyện đội ngũ đảng viên. Từ đó, vai trò hạt nhân của chi bộ, tính tiền phong,
gương mẫu của đảng viên chưa được thể hiện rõ nét, ít nhiều làm suy giảm

lòng tin của quần chúng đối với Đảng và chính quyền.
4. Giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ:
Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên, trong thời gian tới cần tập trung
vào một số nội dung sau:
4.1. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên về ý nghĩa quan trọng của sinh hoạt chi bộ và yêu cầu cấp thiết phải
nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong tình hình hiện nay.
Thường xuyên quán triệt cho cán bộ đảng viên về vị trí, vai trò và chức
năng, nhiệm vụ của chi bộ trong từng loại hình chi bộ đảng, nhất là đội ngũ cấp
ủy, bí thư chi bộ. Không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực, phẩm


chất chính trị, đạo đức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là đồng chí bí
thư và cán bộ chủ chốt. Tổ chức các lớp bồi dưỡng cho các đồng chí lần đầu
tham gia cấp ủy để nâng cao năng lực tổ chức, điều hành sinh hoạt chi bộ.
Nâng cao ý thức đảng viên trong sinh hoạt Chi bộ. Đảng viên phải nắm
vững nội dung, chương trình của một buổi sinh hoạt chi bộ định kỳ, sinh hoạt
chuyên đề để có cơ sở giám sát vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, bí thư chi bộ...
Đồng thời, thực hiện nghiêm túc chế độ và nguyên tắc tự phê bình và phê bình
trên tinh thần coi trọng việc xây dựng tình đồng chí, đồng nghiệp, thương yêu
giúp đỡ lẫn nhau... Có như vậy sinh hoạt chi bộ mới thực sự chất lượng, chi bộ
mới nâng cao được năng lực, sức chiến đấu, mới xây dựng được các tổ chức cơ
sở đảng trong sạch, vững mạnh, mới giữ vững và phát huy được vai trò hạt
nhân chính trị ở cơ sở.
Mỗi đảng viên phải nâng cao ý thức trách nhiệm, tự học tập, tự tu dưỡng,
rèn luyện và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; thực hiện tốt 4 nhiệm vụ đảng viên và
nhiệm vụ cụ thể do cấp trên, chi bộ giao. Thường xuyên củng cố, kiện toàn,
nâng cao chất lượng đội ngũ cấp ủy, đặc biệt là bí thư chi bộ.
Khi sinh hoạt, mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thực, thẳng thắn trong

phê bình, tự phê bình, trên tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ; đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, vụ lợi cá
nhân, vi phạm những chuẩn mực về tư tưởng, đạo đức, lối sống của người đảng
viên. Bên cạnh đó, đảng viên làm công tác lãnh đạo quản lý, cấp ủy viên phải
gương mẫu thực hiện tốt việc sinh hoạt đảng, tích cực đấu tranh phê bình và tự
phê bình. Đảng viên là cán bộ lãnh đạo phải chịu sự kiểm tra, giám sát của chi
bộ, nêu gương sáng về đạo đức, lối sống, nói đi đôi với làm.
4.2. Thực hiện nghiêm túc, nền nếp chế độ sinh hoạt chi bộ theo quy
định của Điều lệ Đảng, thực hiện nghiêm túc và có chất lượng việc sinh hoạt
chuyên đề. Thời gian tới, các chi bộ cần xác định, tiếp tục đổi mới, nâng cao
chất lượng sinh hoạt là yêu cầu thường xuyên của công tác xây dựng Đảng;
đồng thời cũng là một trong những biện pháp thực hiện hiệu quả Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng,
ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ; gắn với khắc phục các yếu kém, khuyết điểm và
việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
4.3. Nâng cao chất lượng điều hành trong sinh hoạt Chi bộ.


Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, yếu tố đầu tiên đó là chất lượng
của đội ngũ cấp ủy viên và bí thư chi bộ; qua đại hội phải lựa chọn đội ngũ cấp
ủy viên có phẩm chất, năng lực có uy tín và tín nhiệm cao, có nhiều kinh
nghiệm, nhiệt tình; bí thư chi bộ ngoài các tiêu chí nêu trên còn phải thể hiện
được vị trí, vai trò của mình trong chi bộ, có thời gian kinh qua công tác đảng,
công tác quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ tại địa phương, cơ
quan, đơn vị.
Đổi mới phương thức lãnh đạo, đề cao vai trò của cấp ủy các cấp, duy trì
nghiêm nền nếp, chế độ sinh hoạt định kỳ. Thực hiện tốt quy chế dân chủ, trong
sinh hoạt dành thời gian để đảng viên phát biểu thể hiện chính kiến của mình,
đồng chí chủ trì phải công tâm, khách quan, lắng nghe ý kiến và gợi ý những

vấn đề quan trọng để đảng viên thảo luận. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình,
giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng.
Bí thư Chi bộ phải bố trí lịch sinh hoạt hợp lý; chuẩn bị kỹ nội dung sinh
hoạt; phải trăn trở suy nghĩ và nêu cao trách nhiệm bản thân, phải dám nói,
dám làm, dám chịu trách nhiệm, không ngại va chạm, dám bày tỏ chính kiến,
dám ủng hộ cái đúng, dám phê phán cái sai...
Trong sinh hoạt phải tạo cho được không khí cởi mở, thân thiện, gần gũi,
quan tâm, chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau... bằng việc thực hiện dân chủ trong
Đảng, dân chủ ở cơ sở, từ đó chi bộ mới lắng nghe được hết các ý kiến của
đảng viên. Có như vậy, cuộc họp chi bộ mới thực sự là đợt sinh hoạt chính trị
bổ ích, đảng viên có cảm giác hứng thú khi đi họp để được đóng góp, được xây
dựng, được tôn trọng, được cống hiến trí tuệ của mình cho Đảng, góp phần xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh từ cơ sở.
Chi ủy, trước hết là bí thư chi bộ phải chuẩn bị kỹ nội dung sinh hoạt chi
bộ, đồng thời thông báo trước nội dung, thời gian, địa điểm cho đảng viên biết
để chủ động bố trí thời gian dự sinh hoạt và chuẩn bị ý kiến phát biểu. Chi ủy
cần xác định và chọn những việc cụ thể thiết yếu liên quan đến thực hiện nhiệm
vụ chính trị của chi bộ và quyền lợi của đảng viên, quần chúng, nhất là những
khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để đưa ra thảo luận,
bàn biện pháp khắc phục. Kịp thời biểu dương, động viên những đảng viên
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; nhắc nhở, giúp đỡ những đảng viên có mặt hạn
chế, khuyết điểm.


Phát huy vai trò tiên phong của chi ủy đặc biệt là người đứng đầu là bí
thư chi bộ. Chuẩn bị nội dung sinh hoạt chi bộ, chủ trì điều hành các buổi sinh
hoạt chi bộ đảm bảo theo đúng quy định. Trước khi sinh hoạt chi bộ, chi ủy
phải tổ chức họp, hội ý, phải chuẩn bị kỹ nội dung sinh hoạt, phân công nhiệm
vụ cho từng đồng chí cấp ủy viên trong việc chuẩn bị và thực hiện từng nội
dung của buổi sinh hoạt.

4.4. Bên cạnh các nội dung do cấp ủy chuẩn bị, chi bộ cần thêm nội
dung báo cáo của các đảng viên (nếu có) hoặc đại diện nhóm đảng viên (nếu
các đảng viên cùng thực hiện một hay nhiều nhiệm vụ chính trị giống nhau) và
tự đảng viên sẽ đưa ra các biện pháp, giải pháp, kế hoạch tổ chức thực hiện,
phương pháp nghiên cứu khoa học... và sau đó bí thư chi bộ kết luận đưa vào
nghị quyết.
4.5. Tăng cường lãnh đạo của chi bộ đối với việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị, từ đó phát huy tính tích cực chủ động, trách nhiệm của đảng viên đối
với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Cần chú ý phát huy trí tuệ tập thể của
toàn thể đảng viên trong chi bộ trong việc tham gia thảo luận xây dựng chương
trình, báo cáo, nghị quyết, bàn và quyết định những nhiệm vụ trọng tâm cũng
như những giải pháp cụ thể để thực hiện. Để đổi mới, nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ, cấp ủy phải luôn bám sát chức năng, nhiệm vụ của đơn vị để xây
dựng nội dung sinh hoạt cho phù hợp với tình hình đặc điểm của chi bộ. Trước
khi sinh hoạt, trong cấp ủy cần có sự phân công, chuẩn bị; trong sinh hoạt,
đảng viên có trách nhiệm tham gia phát biểu ý kiến xây dựng nghị quyết, phát
huy cao trí tuệ của tập thể.
Từ việc bàn bạc dân chủ, thống nhất, chi bộ đã ban hành các chủ trương
sát, đúng với thực tế nên khi tổ chức thực hiện được cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân đồng tình, ủng hộ cao. Các quyết định của chi bộ càng đúng
đắn, càng hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo, càng củng cố thêm niềm tin và
trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên về vai trò lãnh đạo của chi bộ.
Cải tiến việc ban hành nghị quyết, nâng cao chất lượng nghị quyết; nghị
quyết phải xác định đúng vấn đề cần tập trung lãnh đạo, gắn với nhiệm vụ của
địa phương, đơn vị trong từng thời kỳ để đi sâu, bàn kỹ có trọng tâm, trọng
điểm; nghị quyết phải ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ và khả năng thực thi được.
Chọn những vấn đề nổi cộm, những bức xúc, vướng mắc, những bâng khuâng,
lo lắng, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của cán bộ, đảng viên, quần chúng
nhân dân để tổ chức sinh hoạt chuyên đề, qua đó nhằm tháo gỡ những khó



khăn, vướng mắc để ổn định tư tưởng, tạo sự đồng thuận trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên của chi bộ.
4.6. Công tác tuyên truyền chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà
nước cần phải thực hiện kịp thời ngay trong kỳ họp chi bộ lần gần nhất để bảo
đảm tính thời sự của thông tin. Tránh tình trạng nghị quyết ban hành đã lâu, sự
kiện trong nước, quốc tế và khu vực đã xảy ra nhưng mấy tháng sau mới có tài
liệu tuyên truyền trong chi bộ. Làm tốt công tác này là chi bộ đã cung cấp kênh
thông tin chính thống cho các đảng viên, tránh các thông tin gây nhiễu, từ đó
định hướng được dư luận xã hội.
4.7. Thường xuyên lồng ghép trong sinh hoạt chi bộ về việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trong đó phải đặc biệt chú ý
quán triệt tới đảng viên cho sâu, cho kỹ, ít nhất là 3 tác phẩm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đó là Đạo đức cách mạng, Sửa đổi lối làm việc và Di chúc. Cần thực
hiện bằng các hình thức đa dạng, phong phú phù hợp với chi bộ để các đảng
viên không nhàm chán, không nói suông mà phải cụ thể hóa thành các công
việc, việc làm thiết thực tại cơ quan, đơn vị, chi bộ mình.
Trong bối cảnh hiện nay, khi việc triển khai thực hiện Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 khóa XII đã và đang dần đi vào thực chất, từng tổ chức cơ
sở đảng, từng cấp ủy, bí thư chi bộ, đảng viên càng cần nhận thức rõ rằng, năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một chi bộ chỉ được nâng cao khi sinh hoạt
chi bộ giữ được nền nếp, có sự nghiêm túc và chất lượng sinh hoạt thực sự
được coi trọng. Đây cũng chính là cơ sở nền tảng để các tổ chức cơ sở đảng
thường xuyên nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, coi đó là mục tiêu và động
lực quan trọng để góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng ngày
càng trong sạch, vững mạnh.
4.8. Đối với các buổi sinh hoạt chuyên đề, cấp ủy chi bộ cần nghiên
cứu chọn chuyên đề phù hợp, sát với tình hình thực tế của chi bộ, tạo sự phong
phú, lôi cuốn, tránh đơn điệu trong sinh hoạt.

Phương pháp, hình thức sinh hoạt chuyên đề luôn được đổi mới theo
hướng đa dạng, phong phú, hấp dẫn, thiết thực, tại mỗi buổi sinh hoạt chuyên
đề, chi ủy báo cáo đề dẫn đánh giá thực trạng, chỉ rõ những kết quả đạt được,
những hạn chế, khó khăn, vướng mắc của chuyên đề; với tinh thần dân chủ, cởi
mở, trách nhiệm, các đảng viên trong Chi bộ thảo luận, trong đó tập trung đưa


ra những nhận xét, đánh giá của cá nhân và đề xuất những giải pháp thiết thực
để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, khắc phục những hạn chế nhằm thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ công tác đảng cũng như nhiệm vụ công tác
chuyên môn. Kết thúc mỗi buổi sinh hoạt chuyên đề theo quý, một số chi bộ đã
ban hành Nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo về nội dung chuyên đề đã được tổ chức
sinh hoạt để tổ chức thực hiện trong thời gian tiếp theo.
4.9. Đối với đảng ủy cơ sở: Duy trì thường xuyên công tác kiểm tra,
giám sát việc chấp hành nội dung sinh hoạt định kỳ, chuyên đề của chi bộ cơ
sở; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ; xử lý nghiêm những đảng viên, kể
cả cấp ủy viên không chấp hành việc sinh hoạt chi bộ mà không có lý do chính
đáng...Thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cấp ủy;
quan tâm bồi dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ công tác đảng, cách thức, nội dung
sinh hoạt chi bộ nói chung và sinh hoạt chuyên đề nói riêng.
Kết luận:
Xác định rõ chi bộ là tế bào của Đảng và Đảng chỉ mạnh khi có các chi
bộ mạnh. Một trong những biện pháp xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh là
nâng cao chất lượng sinh hoạt, cần khắc phục tình trạng sinh hoạt chi bộ mang
tính hình thức.
Sinh hoạt chi bộ là một trong những nội dung cơ bản của công tác xây
dựng đảng, là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của đảng và là chế độ được quy
định rõ trong Điều lệ Đảng.
Việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; đồng thời, làm cho sinh hoạt
chi bộ thực sự phong phú, hấp dẫn, lôi cuốn đảng viên tham gia, mong muốn

được tham gia sinh hoạt chi bộ, khắc phục sự nhàm chán, xơ cứng, nghèo nàn,
khắc phục bệnh hình thức trong sinh hoạt, khắc phục tình trạng như Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu: “nhạt đảng – chán đoàn – thờ ơ với chính trị”
là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Nhiệm vụ đó trước hết là trách nhiệm của chi
ủy, đứng đầu là bí thư chi bộ vừa phải nắm vững nguyên tắt vừa phải linh hoạt
sáng tạo trong điều hành, tổ chức sinh hoạt./.

1. Khái niệm Đảng viên: Đảng viên là người ở trong một tổ chức của
một chính đảng.
- Theo quy định tại Điều 1 Điều lệ Đảng: Đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân


dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng
của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao
động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh;
gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn
đoàn kết thống nhất trong Đảng.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng viên là những người
thừa nhận Cương lĩnh chính trị của Đảng, tự nguyện suốt đời phấn đấu vì mục
đích, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; đó là những người gắn bó chặt chẽ với Đảng
bằng việc tự nguyện tham gia vào một tổ chức cơ sở của Đảng, chịu sự quản lý
của tổ chức đó; là những người kiên quyết, gương mẫu trong hành động cách
mạng; đi đầu, tập hợp và lôi cuốn quần chúng đấu tranh cho lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và dân tộc.
2. Vai trò, vị trí của Đảng viên
- Về mặt lý luận: Đảng viên có vai trò, vị trí là hạt nhân của tổ chức cơ
sở Đảng; là tế bào của Đảng; là nhịp cầu nối giữa tổ chức đảng với quần chúng

nhân dân; Đảng viên trực tiếp giữ vai trò xây dựng Đảng; và giữa trọng trách là
lực lượng lãnh đạo
Đảng viên có vị trí quan trọng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng
cũng như đối với công cuộc xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: để lãnh đạo cách
mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ tốt, cho bộ tốt là do các đảng
viên đều tốt. Người thường nhắc nhở: “Đảng viên đi trước, làng nước theo
sau”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta cũng đã khằng định: đảng
viên là một vấn đề chủ yếu trong xây dựng Đảng. Vai trò, vị trí của đảng viên
đã được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn trong suốt gần 80 năm qua và đặc
biệt là trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Theo quan điểm chủ nghĩa Mac Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng ta, đảng viên là những người thừa nhận Cương lĩnh chính trị của Đảng, tự
nguyện phấn đấu suốt đời vì mục đích, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa đó là
những ngườigắn bó chặt chẽ với Đảng bằng việc tự nguyện tham gia vào một
tổ chức cơ sở của Đảng, chịu sự quản lý của tổ chức đó; là những người kiên
quyết, gương mẫu trong hành động cách mạng; đi đầu, tập hợp và lôi cuốn
quần chugn1 đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và dân tộc. Vị trí, vai trò của đảng viên được thể hiện ở các vấn đề sau:
Một là, đảng viên là người chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phogn của giai cấp công nhân Việt
Nam. Đảng chính là đội quân ưu tú nhất, là bộ tham mưu chính trị của giai cấp
công nhân và là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của cả dân tộc.


Đảng ta hoạt động không vì mục đích tự thân của mình, mà chính là vì
hạnh phúc của nhân dân, tức là nhằm xây dựng một nước Việt Nam độc lập,
dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ

nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Đảng cộng sản Việt Nam trước hết là một tổ chức, Đảng là một cơ chế
chính trị-xã hội sống, cho nên toàn bộ sức mạnh của đảng, năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng đều được tạo thành từ mỗi một thành viên trong tổ
chức, từ mỗi tế bào cấu tạo nên Đảng, tức là từ từng người đảng viên. Nói cách
khác, sức mạnh của Đảng phụ thuộc vào số lượng và chất lượng của đội ngũ
đảng viên. Đảng viên tồn tại gắn liền với tổ chức; chịu sự lãnh đạo, giáo dục,
quản lý, kiểm tra của tổ chức. Tổ chức mạnh đảm bảo từng người mạnh, từng
người mạnh khiến cả tổ chức mạnh. Chất lượng đội ngũ đảng viên ngày càng
cao, nội bộ càng ổn định, thì uy tín của Đảng đối với quần chúng càng lớn.
Hai là, đội ngũ đảng viên là những người vừa có trách nhiệm góp phần
xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách
nhiệm tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách đó.
Nếu cho rằng chất lượng và số lượng đảng viên là nhân tố hàng đầu
quyết định sức mạnh của Đảng thì đường lối đúng đắn của đảng là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Người đảng viên phải có trách nhiệm
tích cực đóng góp xây dựng đường lối chính trị, đồng thời tổ chức cho quần
chúng tham gia xây dựng đường lối chính trị của đảng. Sau khi có đường lối
chính trị đúng đắn, người đảng viên phải nêu cao vai trò tiên phogn gương mẫu
trong việc chấp hành và tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng, pháp
luật của nhà nước, phải thể hiện quan điểm của Đảng: “nói đi đôi với làm”.
Với vai trò này, đòi hỏi người đảng viên phải có lập trường chính trị
vững vàng, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của cách mạng; có
năng lực trí tuệ am hiểu thực tiễn; có nhiệt tình cách mạng cao và năng lực
hành động.
Ba là, người đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo,
vừa là người phục vụ quần chúng
Đảng viên là tiền đề, là cơ sở xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, nhà
nước và các đoàn thể nhân dân. Có đội ngũ đảng viên ưu tú, mới cung cấp cho
đảng, nhà nước và nhân dân những cán bộ tốt, đáp ứng với đòi hỏi của nhiệm

vụ cách mạng trong từng thời kỳ lịch sử.
Trên cương vị là người lãnh đạo: với tư cách là người giác ngộ lý tưởng
Đảng, người đảng viên mang đường lối, chủ trương chính sách của dảng, pháp
luật của nhà nước tuyên truyền cho quần chúng nhân dân. Do đó, yêu cầu đặt ra
đối với người đảng viên là phải giữ gìn mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng,
không đứng trên quần chúng, không xa rời quần chúng, không mưu cầu những
đặc quyền, đặc lợi cho bản thân mình và gia đình mình. Đảng viên phải thể
hiện là người trực tiếp xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa đảng với nhân dân.
Ở vị trí là người phục vụ: với tư cách là người đứng trong hàng ngũ
đảng, người đảng viên phải ra sức phúc vụ cho lý tưởng của đảng, đó chính là


×