Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Xây dựng chính phủ kiến tạo và liêm chính trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.36 KB, 10 trang )

S45. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ KIẾN TẠO,
LIÊM CHÍNH TỪ GÓC ĐỘ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN
VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Tóm tắt
Xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính là thông điệp được người đứng đầu
Chính phủ nhiệm kì 2016-2021 đưa ra ngay sau khi tuyên thệ nhậm chức và trở thành
mục tiêu, nhưng đồng thời cũng là yêu cầu đối với tất cả các thành viên của Chính
phủ. Từ định nghĩa của Thủ tướng Chính phủ về "xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm
chính", các vấn đề đặt ra đối với ngành tài nguyên và môi trường trong việc thực hiện
mục tiêu này tương ứng sẽ bao gồm các vấn đề chính là: i) quản lý tài nguyên và bảo
vệ môi trường phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, tạo điều kiện cho khu vực ngoài
nhà nước tham gia, đầu tư vào lĩnh vực tài nguyên và môi trường; ii) xây dựng Chính
phủ điện tử trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, phát huy ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý ngành; iii) cải cách thủ tục hành chính trong quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người
dân; và iv) phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường. Đây vừa là các thách thức, vừa là các cơ hội to lớn để ngành tài nguyên và
môi trường thực hiện các trọng trách mà Chính phủ giao phó, đóng góp cho sự phát
triển chung của đất nước trong tình hình mới.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới, từ những năm 80 thế kỷ XX, khi nghiên cứu về sự phát triển thần
kỳ của Nhật Bản, Chalmers Johnson đã đưa ra thuật ngữ Chính phủ kiến tạo phát triển
(developmental government), nhà nước kiến tạo phát triển (developmental state).
Chalmers Johnson đã nhận ra có ba mô hình Chính phủ: Chính phủ điều chỉnh (Chính
phủ của các nước theo mô hình thị trường tự do); Chính phủ kế hoạch hóa tập trung
quan liêu (Chính phủ của các nước phủ nhận vai trò của thị trường) và Chính phủ kiến
tạo phát triển (Chính phủ của các nước coi trọng vai trò của thị trường, nhưng không
tuyệt đối hóa vai trò này, mà tích cực can thiệp để định hướng thị trường). Như vậy,
theo nhận thức của Chalmers Johnson, Chính phủ kiến tạo phát triển nằm ở giữa hai
mô hình Chính phủ điều chỉnh và Chính phủ kế hoạch hóa tập trung, quan liêu1.
Tại Việt Nam, vấn đề xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính lần đầu được đưa


ra khi Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tuyên thệ nhậm chức và phát biểu
trước Quốc hội và cử tri cả nước ngay sau khi được Quốc hội tín nhiệm bầu giữ chức
vụ Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021. Trong bài phát biể u nhâ ̣m chức của
mình, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã xác đinh
̣ rõ mu ̣c tiêu xây dựng
Chin
́ h phủ mới trong nhiê ̣m kỳ của miǹ h, đó là "Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm
chính, hành động quyết liệt, phục vụ Nhân dân".
Trong một phiên trả lời tại Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đưa ra
định nghĩa của ông về Chính phủ kiến tạo2, với 4 nội dung chính:
1
2

PGS, TS. Lê Quốc Lý (2017). Xây dựng Chính phủ kiến tạo - Thời cơ và thách thức đối với Việt Nam.
"Chính phủ kiến tạo" tại Việt Nam qua định nghĩa của Thủ tướng. Nguồn: VnEconomy, ngày 18/11/2017.

1210


Thứ nhất, đó phải là một Chính phủ chủ động thiết kế ra một hệ thống pháp luật
tốt, những chính sách tốt, thể chế tốt để nuôi dưỡng nền kinh tế phát triển, chứ không
phải bị động đối phó với những diễn biến trên thực tế.
Thứ hai, là Nhà nước không làm thay thị trường, những khu vực nào thị trường
có thể làm được, doanh nghiệp tư nhân có thể làm được thì Nhà nước không can thiệp,
mà thay vào đó là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm. Nhà nước sẽ chỉ đầu tư vào
những khu vực các doanh nghiệp tư nhân không thể đầu tư.
Thứ ba, theo Thủ tướng, Chính phủ phải kiến thiết được môi trường kinh doanh
thuận lợi, không chỉ đứng đầu trong nhóm các nước ASEAN, mà còn phấn đấu vươn
lên tiêu chí của các nước nhóm OECD.
Thứ tư là Chính phủ cũng phải nói đi đôi với làm, siết chặt kỷ cương, đặc biệt

phải thay ngay cán bộ không đáp ứng yêu cầu công việc. Cần xây dựng chính quyền
điện tử, thương mại điện tử đến tòa án điện tử… Đây là yếu tố quan trọng để xây dựng
Chính phủ kiến tạo.
Việc xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính là một sự vận dụng sáng tạo từ tư
tưởng Hồ Chí Minh3 của Thủ tướng và Chính phủ nhiệm kỳ này, phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại, tình hình đất nước. Từ góc độ quản lý tài nguyên (QLTN) và
bảo vệ môi trường (BVMT), các vấn đề đặt ra để xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm
chính theo bốn nội dung của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cần tập trung vào giải
quyết các vấn đề tương ứng sau, đó là: i) Quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường phù
hợp với thể chế kinh tế thị trường (KTTT), thay thế các cơ chế ‘bao cấp’, ‘xin cho’
bằng các cơ chế thị trường, tạo điều kiện cho khu vực ngoài nhà nước tham gia, đầu tư
vào lĩnh vực QLTN và BVMT; ii) Xây dựng Chính phủ điện tử trong quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường, phát huy ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong
quản lý ngành; iii) Cải cách thủ tục hành chính trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân, giảm thiểu các thủ tục
phiền hà, không cần thiết; và iv) Phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường để thực hiện mục tiêu liêm chính.
2. QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG PHÙ HỢP VỚI
THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Tổng kết 30 năm xây dựng và phát triển đất nước theo mô hình KTTT định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và văn kiện Đại hội XI của Đảng đã khẳng định
những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế, khuyết
điểm của cả mô hình phát triển và những yếu kém, nguy cơ của nền kinh tế đất nước.
Đến Đại hội lần thứ XII, Đảng tiếp tục kiên định đường lối phát triển kinh tế dựa trên
mô hình KTTT định hướng XHCN, với một trong những nhiệm vụ trọng tâm được xác
định là: "...Tiếp tục thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược (trong đó có mục tiêu
hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN)4".
GS. Hoàng Chí Bảo (2017). Chính phủ kiến tạo là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh. Báo Nhân dân điện tử,
ngày 15/1/2017.
4

Nghị quyết số 05/NQ-TW ngày 1/11/2016, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về
một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng,
năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
3

1211


Ngày 03 tháng 6 năm 2017, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
đến năm 2020 mà Đảng đã đặt ra tại Nghị quyết này là: "Hoàn thiện thể chế gắn kết
tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội,
quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu".
Việt Nam là một trong mười nước trên thế giới được đánh giá có sự phong phú
cao về đa dạng sinh học (ĐDSH) và được xác định là một đất nước được ưu tiên trong
hệ thống bảo tồn toàn cầu. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam đang phải đối mặt với những
khó khăn như diện tích rừng tự nhiên bị suy giảm, đất đai bị xói mòn và thoái hóa, môi
trường nguồn nước tiếp tục bị ô nhiễm, xuống cấp; môi trường biển, đảo chịu nhiều
ảnh hưởng từ hoạt động của con người; môi trường không khí diễn biến xấu, nhất là tại
các đô thị lớn; việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản thiếu sự kiểm soát chặt
chẽ gây thất thoát, lãng phí, mặt khác tác động tiêu cực đến các hệ sinh thái, làm tăng số
lượng loài bị đe dọa và diệt chủng. Thảm họa thiên tai như bão, lũ lụt, hạn hán, sạt lở
đất, tình trạng biến đổi khí hậu (BĐKH) đã tác động ngày càng tiêu cực đến sản xuất và
đời sống nhân dân, gây ra những thiệt hại lớn về sinh mạng và tài sản của con người.
Theo đánh giá của nhiều tổ chức quốc tế, Việt Nam là một trong những quốc gia
bị ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH5. Tác động của BĐKH đối với nước ta là rất
nghiêm trọng, là nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo, cho việc thực
hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước. Theo Kịch bản
BĐKH được Bộ TN&MT công bố năm 2012, vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ ở nước ta có

thể tăng từ 2,5 - 3,7oC, nước biển dâng khoảng 1m; theo đó, khoảng 39% diện tích
đồng bằng sông Cửu Long, trên 10% diện tích đồng bằng sông Hồng và Quảng Ninh,
trên 2,5% diện tích các tỉnh ven biển miền Trung và trên 20% diện tích TP.HCM bị
ngập trong nước.
Đối chiếu thực trạng các vấn đề đã và đang đặt ra trong QLTN, BVMT và ứng
phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) với các nội hàm của thể chế kinh tế thị trường, để
thúc đẩy mục tiêu xây dựng Chính phủ kiến tạo, công tác QLTN và BVMT ở nước ta
đang đặt ra nhiều vấn đề như:
(i) Hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, thiếu ổn định, chưa minh
bạch, thậm chí còn chồng chéo và có những mâu thuẫn. Các vấn đề về bảo hộ quyền
tài sản cá nhân, về quyền của công dân trong hệ thống sở hữu toàn dân về tài nguyên,
về giải quyết tranh chấp quyền về tài sản giữa nhà nước, tổ chức và công dân, trong
phân phối lợi ích từ tài nguyên…, còn rất nhiều hạn chế, cản trở phát triển6.
Theo nghiên cứu của Tổ chức Germanwatch (CHLB Đức), trong vòng 20 năm qua (1991 - 2010), Việt Nam
nằm trong số 10 nước có chỉ số rủi ro khí hậu (Climate Risk Index - CRI) cao nhất thế giới, xếp thứ 6, sau các
nước Bangladesh, Myanmar, Honduras, Nicaragua và Haiti.
6
Điển hình là tranh chấp về đất đai. Theo thống kê, tổng số vụ việc khiếu nại các cơ quan hành chính nhà nước
đã tiếp nhận và giải quyết trong các năm từ 2004 đến 2012 là: 528401/612115 vụ việc đạt 86%, trong số đó,
hằng năm, khiếu nại hành chính liên quan đến đất đai luôn chiếm khoảng 70%. Riêng tại Bộ Tài nguyên và Môi
trường, từ năm 2004 đến năm 2011 theo thống kê, đã tiếp nhận được 59.751 lượt đơn của 29.671 vụ việc, trong
đó khiếu nại hành chính về đất đai là 17.711 vụ chiếm 58,59%, 5.966 vụ việc khiếu nại quyết định hành chính
trong giải quyết tranh chấp đất đai chiếm 20,11%, 4.639 vụ đòi lại đất cũ chiếm 15,63% và 1.355 vụ việc tố cáo
chiếm 4,57%. Trong đó, chủ yếu liên quan tới khiếu nại các quyết định hành chính về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ
5

1212


(ii) Phân bổ nguồn lực quốc gia vẫn còn mang nhiều dấu ấn của cơ chế kế hoạch

hoá tập trung quan liêu, bao cấp, quan hệ xin - cho, cấp - phát còn phổ biến, đã xuất
hiện hình thành các nhóm lợi ích trong xã hội, gây ra những bất bình về phân phối thu
nhập có nguyên nhân từ thể chế quản lý, nhất là trong lĩnh vực đất đai. Tài nguyên bị
sử dụng lãng phí, không hiệu quả, làm ô nhiễm môi trường nặng nề gây ra những tổn
thất trước mắt và lâu dài cho xã hội; nguồn lực tài nguyên và môi trường chưa được
phát huy đầy đủ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững của đất
nước7; tiềm năng tài nguyên biển chưa được đánh giá đầy đủ để quản lý, khai thác và
bảo vệ....; lợi ích của người dân và địa phương nơi có các dạng tài nguyên thiên nhiên
được khai thác chưa được đảm bảo gây ra nguy cơ xung đột giữa chủ thể khác nhau
trong tiếp cận, khai thác, sử dụng và hưởng lợi từ tài nguyên thiên nhiên.
(iii) Các yếu tố thị trường và các loại thị trường chức năng hình thành và phát
triển còn chậm, thiếu đồng bộ. Các quan hệ thị trường chưa được thiết lập đồng bộ,
các loại thị trường về tài nguyên và môi trường chưa phát triển hoặc hoạt động chưa
thông suốt, chưa minh bạch và không hiệu quả... Cơ sở hạ tầng và kỹ thuật cho các thị
trường chức năng còn lạc hậu8. Việc ứng phó với BĐKH, BVMT vẫn chủ yếu dựa trên
cơ chế mệnh lệnh, chỉ huy mà chưa cân nhắc đến các yếu tố thị trường để tạo ra động
lực cho việc thay đổi các hành vi của cả người sản xuất và người tiêu dùng trong thực
hiện các mục tiêu này.
(iv) Vai trò của Nhà nước trong tạo dựng, hỗ trợ phát triển, giám sát, điều tiết thị
trường còn yếu. Các cải cách diễn ra chủ yếu mang tính cơ cấu lại tổ chức và biên chế
nhân sự của bộ máy, chưa phải cải cách thể chế đúng với vận hành của thể chế kinh tế
thị trường tạo ra một sự cạnh tranh lành mạnh. Các cơ chế định giá, lượng hóa giá trị,
thiết lập tài khoản, hạch toán tài nguyên và môi trường chưa được áp dụng hoặc đã có
nhưng còn bất cập so với yêu cầu của thể chế kinh tế thị trường; giá trị của tài nguyên
và môi trường chưa được lượng hóa, quy đổi thành tiền để có thể hạch toán phục vụ
phát triển kinh tế; các thiệt hại kinh tế do suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường
gây ra cũng chưa được lượng hóa, chưa được tính đầy đủ dẫn đến chưa thực sự đo
lường được chất lượng phát triển, thực chất của phát triển hướng đến bền vững.
(v) Việc huy động nguồn lực của xã hội cho công tác BVMT, ứng phó với
BĐKH còn rất hạn chế. Phần lớn các nguồn lực hiện nay do nhà nước đầu tư là chính

mà chưa tạo ra được một động lực bền vững để huy động được nguồn lực toàn xã hội
giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư (chiếm khoảng 70%), sau đó là khiếu nại các quyết định hành chính về
giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất (chiếm khoảng 20%).
7
Trong khi thế giới ngày càng sử dụng ít nguyên liệu thô hơn để tạo ra một đơn vị GDP thì Việt Nam lại gia
tăng tỷ lệ này. Nếu như năm 1990, Việt Nam sử dụng khoảng hơn 8 kg nguyên liệu thô để tạo ra 1 USD GDP thì
con số này đến năm 2008 lên tới khoảng 13 kg, trong khi con số tương ứng để tạo ra 1 USD GDP trung bình của
thế giới năm 1990 là khoảng 1,8 kg và đến năm 2008 chỉ còn khoảng 1,5 kg. Điều này cho thấy tài nguyên đang
bị sử dụng kém hiệu quả. Nguồn: Báo cáo Đề án Tăng cường quản lý tài nguyên, góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, Bộ TNMT, 2013.
8
Đơn cử như với thị trường đất đai: Nhà nước vẫn giữ quyền độc tôn trong quyết định mục đích sử dụng đất; về
qui định giá các loại đất; về qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất; về giao đất và thu hồi đất… Các thị trường liên
quan như thị trường dịch vụ, thị trường vốn…, chưa phát triển đồng bộ; cơ sở hạ tầng vật chất (giao thông, cấp
thoát nước, thông tin liên lạc, cung cấp năng lượng…) còn rất yếu, lạc hậu; việc tạo dựng hạ tầng thông tin, cơ
sở dữ liệu đất đai có độ tin cậy thấp, thông tin thiếu đầy đủ, không đồng bộ, công nghệ cung cấp thông tin lạc
hậu và đặc biệt là thông tin thiếu công khai, thiếu minh bạch.

1213


cho công tác BVMT và ứng phó với BĐKH9.
3. XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ TRONG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN
VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển
CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế đã nhận định "công
nghệ thông tin là hạ tầng mềm tạo phương thức phát triển mới". Nghị quyết số
36a/NQ-CP của Chính phủ về Chính phủ điện tử cũng đã khẳng định "công nghệ
thông tin được coi là một công cụ hữu hiệu tạo lập phương thức phát triển mới và bảo
vệ Tổ quốc; là động lực quan trọng phát triển kinh tế tri thức, xã hội thông tin, nâng

cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế; góp phần đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững đất nước".
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển, với sự nhận thức và công nghệ thay đổi,
điều kiện từng thời kỳ, CNTT được triển khai trong cơ quan nhà nước nói chung và
ngành tài nguyên và môi trường nói riêng còn hạn chế. Mặc dù đã đạt được một số
thành tựu, nhưng cần phải nhìn nhận vào một số vấn đề đang đặt ra trong việc thực
hiện mục tiêu Chính phủ điện tử trong QLTN và BVMT, đó là:
- Việc ứng dụng CNTT còn nhỏ lẻ và chưa đồng bộ. Thông tin, cơ sở dữ liệu
(CSDL) chưa luân chuyển, trao đổi thông suốt do hạn chế bởi sự kết nối các hệ thống
thông tin, dữ liệu còn có hiện tượng chồng lấn, cát cứ. Các dự án ứng dụng CNTT đầu
tư đáp ứng theo những vấn đề trước mắt mà chưa thực sự đánh giá, xem xét trên vấn
đề tổng thể để đáp ứng sự phát triển bền vững.
- Cơ sở hạ tầng thông tin (HTTT) đã lạc hậu và dần dần không đủ năng lực tính
toán và lưu trữ, cần phải được đầu tư nâng cấp, mở rộng các trung tâm dữ liệu về tài
nguyên và môi trường hiện tại để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
- Các HTTT/CSDL chuyên ngành triển khai theo hàng dọc (theo từng lĩnh vực
chuyên ngành), không hoặc ít có sự chia sẻ, kết nối thông tin; chưa có kho dữ liệu
ngành TN&MT; CSDL dùng chung còn hạn chế, cần phải có rà soát, quy hoạch lại các
HTTT/CSDL, xác định được những CSDL dùng chung, xác định được những CSDL
đưa vào kho dữ liệu của ngành TN&MT.
- Nền tảng chia sẻ, tích hợp của ngành (LGSP) còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng
được yêu cầu liên thông nghiệp vụ, dữ liệu.
- Các dịch vụ công trực tuyến đã cung cấp còn hạn chế về số lượng hồ sơ nộp
trực tuyến, một phần do đặc thù của ngành TN&MT, nhưng cũng cần chú trọng việc
công bố rộng rãi trên các phương tiện đại chúng, kết hợp với tuyên truyền.
Nếu không có sự rà soát, sắp xếp, định hình lại toàn bộ việc ứng dụng, đầu tư
CNTT trong Bộ TN&MT sẽ dần dần dẫn đến điểm tới hạn, khi đầu tư càng nhiều, hệ
thống phức tạp càng tăng lên sẽ dẫn tới sự lộn xộn và nảy sinh ra nhiều vấn đề khó giải
Mặc dù vậy, đầu tư mới chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu. Nguồn kinh phí của Nhà nước chi cho sự
nghiệp môi trường mới chỉ đạt 1% tổng chi ngân sách, trong khi đó, ở Trung Quốc và các nước ASEAN, đầu tư

cho môi trường trung bình hàng năm chiếm từ 3% - 4% GDP. Theo Bộ Tài chính, tỷ lệ chi cho mục đích bảo vệ
môi trường so với nguồn thu tương ứng ngày càng giảm trong vòng 5 năm qua. Cụ thể, thu từ thuế BVMT đã
tăng hơn 3 lần trong vòng 5 năm qua, lên khoảng 38.000 tỷ đồng trong năm 2016. Trong khi đó, số chi tăng
không đáng kể, từ 9.000 tỷ lên 12.290 tỷ đồng.
9

1214


quyết, không tận dụng được nguồn tài nguyên đã được xây dựng kéo theo sự phát triển
không bền vững.
4. CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG QUẢN LÝ TÀI
NGUYÊN VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Trong thời gian qua, công tác cải cách hành chính (CCHC) của ngành tài nguyên
và môi trường đã luôn được lãnh đạo các cấp quan tâm, tập trung chỉ đạo và tổ chức
thực hiện nhiều nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên và cấp bách; cùng với sự cố gắng, nỗ lực
của toàn ngành, đặc biệt là của những tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp đến công tác
CCHC, công tác CCHC đã có những chuyển biến tích cực, mang lại nhiều hiệu quả
thiết thực10. Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác CCHC trong cơ
quan, đơn vị ngành tài nguyên và môi trường vẫn đang đặt ra một số vấn đề như:
- Nhận thức về CCHC ở một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự đầy đủ, toàn diện
dẫn đến công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện chưa quyết liệt, chưa hiệu quả;
- Quyết tâm đổi mới, sự quan tâm đầy đủ, toàn diện và công tác chỉ đạo, điều
hành của một số thủ trưởng cơ quan, đơn vị các cấp còn hạn chế;
- Chỉ số CCHC (PAR INDEX) những năm gần đây mặc dù đã được cải thiện
nhưng không được ổn định, thậm chí năm 2016 còn bị tụt hạng11;
- Công tác xây dựng thể chế vẫn còn tình trạng chậm ban hành, nợ đọng; một số
thủ tục hành chính (TTHC) nội bộ rườm rà, thời gian xử lý chưa được rút ngắn;
- Sự phối hợp giữa các đơn vị thuộc Bộ, giữa các đơn vị trực thuộc Sở TN&MT
và giữa các đơn vị này với nhau trong giải quyết, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về

chính sách, pháp luật tài nguyên và môi trường chưa được thường xuyên, thực chất và
hiệu quả chưa cao.
5. PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC TRONG QUẢN LÝ TÀI
NGUYÊN VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực có một vai trò và ý nghĩa rất quan
trọng trong việc thực hiện mục tiêu Chính phủ kiến tạo, liêm chính. Nghị quyết số
04/NQ-TW ngày 30/10/2016, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hoá" trong nội bộ đã đưa ra mục tiêu "Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong
công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng
lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể,
quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân".
Tuy nhiên hiện nay đang có một số vấn đề đặt ra với công tác phòng chống tham
nhũng nói chung và trong QLTN và BVMT nói riêng, vốn được coi là "nhạy cảm",
Trong năm 2016, Bộ TN&MT đã cố gắng loại bỏ các quy định về điều kiện kinh doanh không còn phù hợp.
Hoàn thành việc sửa đổi rút ngắn từ 02 - 20 ngày đối với các thủ tục cấp GCN và đăng ký biến động; triển khai
liên thông thủ tục với cơ quan thuế; xây dựng khung pháp lý và cơ sở dữ liệu về đất đai để triển khai cung cấp
các dịch vụ công trực tuyến; công bố công khai tỷ lệ đất đã cho thuê trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp để
doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận đất đai. Đã rà soát công bố TTHC; đã hoàn thành và đang triển khai thử
nghiệm hệ thống thông tin cung cấp 15 dịch vụ công trực tuyến tại Bộ TN&MT.
11
Năm 2016 đạt 77,47%, xếp thứ 16/19 bộ và cơ quan ngang bộ. Năm 2015 Bộ đạt 84,29%, xếp thứ 11.
10

1215


nhất là với một số lĩnh vực như đất đai12, khoáng sản13…do nhiều nguyên nhân. Ngoài

ra, các quy định chung về phòng, chống tham nhũng hiện nay đang tồn tại nhiều bất
cập như:
- Các cơ chế phòng chống tham nhũng, tiêu cực chưa phát huy được hiệu lực,
cũng như chưa được thực hiện quyết liệt. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế,
chính sách, luật pháp thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
chưa kịp thời. Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chồng chéo, hoạt động kém hiệu lực,
hiệu quả. Cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở. Thiếu
cơ chế để xử lý, thay thế kịp thời những cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu về năng lực,
giảm sút uy tín, trì trệ trong công tác, kém hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh chống
tham nhũng, tiêu cực như Nghị quyết Trung ương đã chỉ ra.
- Các quy định về công khai, minh bạch tài sản và thu nhập của những đối tượng
thuộc diện phải kê khai chưa mang tính bao quát và thiếu các biện pháp bảo đảm thực
hiện. Các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập chưa giúp kiểm soát biến động về
thu nhập. Thiếu cơ chế về việc xử lý tài sản, thu nhập không được giải trình một cách
hợp lý. Thiếu quy định mang tính bắt buộc về thời hạn đối với người thuộc diện phải
kê khai tài sản, thu nhập thực hiện nghĩa vụ kê khai hoặc giải trình về tài sản, thu nhập
của mình.
- Các quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình còn chung
chung chưa cụ thể, chưa rõ ràng, chưa khuyến khích được tính chủ động của người
đứng đầu trong phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng.
- Các quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với những hành vi tham nhũng
còn thiếu các biện pháp bảo đảm thực hiện, đặc biệt là các biện pháp bảo vệ người tố
cáo, khen thưởng người có thành tích trong tố cáo tham nhũng. Chính vì vậy mà hiệu
quả của công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua chưa cao.
6. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG
- Thứ nhất, về QLTN và BVMT phù hợp với thể chế KTTT: Để phù hợp với định
hướng và mục tiêu chung của Đảng về phát triển KTTT, xây dựng Chính phủ kiến tạo
đòi hỏi phải có những giải pháp hoàn thiện trong cơ chế quản lý và phương thức điều
hành toàn bộ nền kinh tế, từng khâu, từng bộ phận. Trong đó, lĩnh vực QLTN và

BVMT cũng phải được quản lý trên cơ sở vận dụng các quy luật, nguyên tắc và các
biện pháp của KTTT. Đối chiếu với nội hàm của thể chế KTTT cho thấy, thể chế
KTTT trong QLTN và BVMT bao gồm toàn bộ chức năng, nhiệm vụ của nhà nước,
vừa với trách nhiệm của chủ thể quản lý công toàn bộ quốc gia, vừa là một thực thể
tham gia vào hoạt động thị trường. Như vậy, QLTN và BVMT phù hợp với thể chế
Đất đai là một trong những lĩnh vực được coi là nhiều tham nhũng nhất hiện nay. Theo Bộ TN&MT những
khâu xuất hiện hành vi tham nhũng nhiều nhất đó là: Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; công tác thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, bồi thường giải phóng mặt bằng; định giá đất…
13
Luật Khoáng sản 2010 quy định thực hiện đấu giá quyền khai thác khoáng sản nhưng lại không quy định rõ
các tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp (DN) qua đấu giá, khiến việc lựa chọn nhiều khi không đạt được mục tiêu là
DN có đủ năng lực thực hiện. Ngoài ra, quy định hiện nay cũng không yêu cầu công khai quá trình cấp phép từ
thông tin doanh nghiệp đăng ký cấp phép cho đến doanh nghiệp được lựa chọn cấp phép, nên mức độ minh bạch
trong quá trình cấp phép rất hạn chế và thiếu tính cạnh tranh. Nguồn: PanNature.
12

1216


KTTT tại Việt Nam là xây dựng và đảm bảo thực hiện các qui định pháp luật trong
lĩnh vực này, trên cơ sở vận dụng đầy đủ các nguyên tắc, nguyên lý, quy luật của
KTTT và vai trò điều tiết của Nhà nước, áp dụng các công cụ thị trường trong quá
trình điều hành và ra quyết định, nhằm đảm bảo QLTN BVMT hiệu quả, linh hoạt và
công bằng, phù hợp với sự phát triển thế giới, qua đó đóng góp cho sự thành công từ
mô hình phát triển kinh tế chuyển đổi sang mô hình KTTT phát triển tại Việt Nam, thể
hiện vai trò chủ động kiến tạo của Chính phủ.
- Thứ hai, về xây dựng Chính phủ điện tử trong QLTN và BVMT: Triển khai vai
trò Chính phủ kiến tạo phát triển, việc ứng dụng CNTT trong ngành TN&MT cần
hướng tới đơn giản hóa thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục, giấy giờ cho công
dân và doanh nghiệp đồng thời cung cấp dữ liệu về tài nguyên môi trường cho các Bộ

ngành, địa phương làm nền tảng phát triển Chính phủ điện tử. Tăng cường tính liên
thông, kết nối trao đổi dữ liệu nội bộ cũng như với bên ngoài, ứng dụng CNTT trên
một nền tảng vững chắc và đồng bộ, thống nhất tạo điều kiện tối đa cho các cơ quan,
đơn vị tập trung vào khai thác sử dụng trong nghiệp vụ, tăng khả năng tự động hóa, hỗ
trợ ra quyết định để tăng năng xuất lao động, cải thiện hiệu lực quản lý nhà nước.
Củng cố và hoàn thiện nền tảng pháp lý, đảm bảo sự an toàn thông tin, sự minh bạch
trong hoạt động quản lý nhà nước theo các quy định của pháp luật.
- Thứ ba, về cải cách hành chính: Cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong việc triển khai
thực hiện các nhiệm vụ CCHC. Xác định CCHC là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm, thường xuyên trong công tác chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá nghiêm túc, trung thực, khách quan kết quả
thực hiện cải cách CCHC tại cơ quan. Rà soát, đánh giá sự cần thiết, tính hợp lý và
hiệu quả của các TTHC nội bộ, trên cơ sở đó cắt giảm tối đa các TTHC nội bộ rườm
rà, không cần thiết, rút ngắn thời gian xử lý để giảm chi phí ngân sách nhà nước, tăng
hiệu quả giải quyết công việc gắn liền với việc xác định vị trí việc làm, tinh giản biên
chế. Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả việc rà soát, sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý ngành tài nguyên và môi trường tại Bộ và
địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo khắc phục sự chồng
chéo, giao thoa chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, đơn vị…
- Thứ tư, về phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong QLTN và BVMT: Nâng cao
công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nghiêm túc thực hiện phê bình
và tự phê bình trong đội ngũ Đảng viên và cán bộ, công chức, viên chức, nhất là người
đứng đầu. Tăng cường quản lý, giám sát cán bộ, công chức, viên chức; nâng cao hiệu
lực của các cơ chế kiểm soát tài sản, thu nhập, công khai, minh bạch tài sản. Cần tích
cực tuyên truyền và tăng cường hoạt động có hiệu quả của các đường dây nóng tiếp
nhận thông tin phản ánh, kiến nghị về tình trạng vi phạm pháp luật đất đai và nhũng
nhiễu tiêu cực trong việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
và tài sản gắn liền với đất, về ô nhiễm môi trường cũng như các hoạt động quản lý nhà
nước khác về tài nguyên và môi trường, nhằm tạo kênh liên lạc thuận tiện cho người

dân, tổ chức đóng góp ý kiến, phản ánh, kiến nghị, hỏi đáp các nội dung liên quan
1217


thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ, ngành. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát về chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính, về trách nhiệm và đạo đức công
vụ, đạo đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức khi thi
hành nhiệm vụ, công vụ.
KẾT LUẬN
Từ góc độ quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, mục tiêu xây dựng Chính
phủ kiến tạo, liêm chính đang đặt ra nhiều yêu cầu và nhiệm vụ to lớn đối với ngành.
Đó là việc cần phải tiến hành quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường phù hợp với thể
chế kinh tế thị trường, vận dụng các công cụ thị trường trong quản lý ngành, tôn trọng
và phát huy sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong lĩnh vực tài nguyên và môi
trường; tích cực áp dụng các thành quả của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 vào trong
lĩnh vực tài nguyên và môi trường, nhất là áp dụng tối đa công nghệ thông tin trong
việc xây dựng Chính phủ điện tử ngành; không ngừng rà soát, kiện toàn cơ cấu tổ chức
theo hướng tinh gọn, giảm thiểu các thủ tục hành chính rườm ra, không cần thiết, gây
khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp và người dân; và tăng cường kiểm tra, giám sát,
chủ động phòng, chống tham nhũng trong toàn ngành, nhất là với các lĩnh vực như đất
đai, khoáng sản, môi trường. Những điều này đòi hỏi toàn ngành phải có nhận thức
đầy đủ, sâu sắc, đồng thời mỗi người phải phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo trong
việc thực hiện nhiệm vụ để có thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra đối với mục tiêu Chính
phủ kiến tạo, liêm chính.
Tài liệu tham khảo
1. Các Nghị quyết của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện một số
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.
2. Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 30/10/2016, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện

"tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.
3. Nghị quyết số 05/NQ-TW ngày 1/11/2016, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XII) về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục
đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao
động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
4. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
5. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
6. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/06/2013 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường.
7. Chỉ thị số 04/CT-BTNMT ngày 15/11/2017 về việc tăng cường hiệu quả công tác
1218


8.
9.
10.
11.
12.
13.

14.

15.

16.


17.

cải cách hành chính trong cơ quan, đơn vị ngành tài nguyên và môi trường.
GS. Hoàng Chí Bảo (2017). Chính phủ kiến tạo là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí
Minh. Báo Nhân dân điện tử, ngày 15/1/2017.
PGS, TS. Lê Quốc Lý (2017). Xây dựng Chính phủ kiến tạo - Thời cơ và thách
thức đối với Việt Nam.
Phạm Thị Hồng Đào (2017). Phòng, chống tham nhũng - kinh nghiệm của một số
quốc gia và những hạn chế của pháp luật nước ta.
Nguyễn Thắng Lợi, Một số giải pháp đổi mới mô hình giải quyết tranh chấp hành
chính trong lĩnh vực đất đai, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 10/2013.
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2017). Kiến trúc Chính phủ điện tử Bộ Tài nguyên
và Môi trường. Version 1.0.
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2017). Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện nhiệm
vụ công tác năm 2016 và kế hoạch công tác năm 2017 của ngành tài nguyên và
môi trường.
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014). Báo cáo Đề án Tăng cường quản lý tài
nguyên, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế.
Website VnEconomy: "Chính phủ kiến tạo" tại Việt Nam qua định nghĩa của Thủ
tướng. Nguồn: ngày 18/11/2017.
Website Pan Nature: Hội thảo Minh bạch trong lĩnh vực khoáng sản: Đo lường
khoảng
cách
từ
chính
sách
đến
thực

tiễn.
Nguồn:
ngày 21/3/2017.
Website Germanwatch, Global Climate Risk Index (Chỉ số rủi ro khí hậu toàn
cầu). Nguồn: />
1219



×