Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

NGHIÊN cứu tác DỤNG làm mềm, mở cổ tử CUNG của ỐNG THÔNG HAI BÓNG cải TIẾN kết hợp với TRUYỀN OXYTOCIN TĨNH MẠCH gây CHUYỂN dạ tại BỆNH VIỆN PHỤ sản TRUNG ƯƠNG năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.14 KB, 54 trang )

BỘ Y TẾ

BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG

BÁO CÁO NGHIỆM THU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ

Tên đề tài

NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG LÀM MỀM, MỞ CỔ TỬ CUNG
CỦA ỐNG THÔNG HAI BÓNG CẢI TIẾN KẾT HỢP VỚI TRUYỀN
OXYTOCIN TĨNH MẠCH GÂY CHUYỂN DẠ TẠI BỆNH VIỆN
PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG NĂM 2014

Chủ nhiệm đề tài:

TS. Lê Thiện Thái
Ths. Đoàn Thị Phương Lam

Cán bộ tham gia:

HS CK1. Phó Thị Quỳnh Châu

Cơ quan chủ trì đề tài: Bệnh viện Phụ Sản Trung ương

HÀ NỘI, NĂM 2014


BỘ Y TẾ

THUYẾT MINH ĐỀ TÀI
Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ


I. Thông tin chung về đề tài
1. Tên đề tài:Nghiên cứu tác dụng làm mềm, mở cổ tử
cung của ống thông hai bóng cải tiến kết hợp với
truyền oxytocin tĩnh mạch gây chuyển dạ tại bệnh viện
Phụ sản Trung Ương năm 2014

2. Mã số

3. Thời gian thực hiện
(Từ tháng .06 /2014. đến hết tháng 12 /2014.. )

4. Cấp quản lý
NN
Bộ
Tỉnh

5.

Kinh phí
Tổng số:
Trong đó, từ Ngân sách

6.

CS .X...

SNKH:

Thuộc Chương trình (nếu có, ghi mã số của Chương trình): _________
Mã số của đề tài (do Cơ quan quản lý ghi sau khi có Quyết định phê duyệt): _______


7

Chủ nhiệm đề tài

Họ và tên: Lê Thiện Thái
Học hàm/học vị: Tiến sỹ
Chức danh khoa học: Tiến sỹ y học
Điện thoại:
(CQ)/
(NR)
Mobile:
E-mail:
Địa chỉ cơ quan: 43 Tràng Thi – Hà Nội
Địa chỉ nhà riêng:
Đồng chủ nhiệm đề tài: Đoàn Thị Phương Lam
Học hàm/học vị: Thạc sỹ
Chức danh khoa học: Thạc sỹ - bác sỹ sản phụ khoa
Điện Thoại: 0912424923

8

Fax:

Cơ quan chủ trì đề tài

Tên tổ chức KH&CN: Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương

2



ĐẶT VẤN ĐỀ
Gây chuyển dạ là một trong những can thiệp sản khoa hay gặp nhất,
chiếm tỷ lệ 9,5 - 23,7% các trường hợp thai nghén [1][2].Đạt được sinh đường
âm đạo với những trường hợp gây chuyển dạ luôn là một thách thức đối với
các bác sỹ sản khoa hiện nay [3].
Hầu hết các trường hợp gây chuyển dạ có CTC không thuận lợi, vì vậy
đã có nhiều phương pháp làm mềm mở CTC được nghiên cứu sử dụng, trong
đó phương pháp hiệu quả nhất là sử dụng Prostaglandin E2 (PGE2) đặt âm
đạo hoặc kênh CTC [4]. Nhược điểm của PGE2 là có thể gây cơn co tử cung
cường tính, vỡ tử cung dẫn đến suy thai nên hiện nay ít được sử dụng.
Dùng ống thông Foley đặt ống CTC làm mềm mở cổ tử cung trong gây
chuyển dạ được nghiên cứu đầu tiên bởi Embrey và Mollison năm 1967 với tỷ
lệ thành công đạt 94% [5]. Nhược điểm của phương pháp này là nhân viên y
tế phải thường xuyên kéo ống thông 2- 4 lần/ giờ để nong CTC. Để khắc phụ
nhược điểm của ống thông Foley, năm 1991 Atad và cộng sự sáng chế ra ống
thông hai bóng (bóng Cook) đặt ở vị trí lỗ trong và lỗ ngoài CTC làm mềm,
mở CTC trong gây chuyển dạ và cũng thu được thành công đạt 94% và hiệu
quả đẻ đường âm đạo đạt 86% (43/50), không gặp trường hợp nào bị vỡ tử
cung, nhiễm khuẩn hay rách màng ối trong quá trình gây chuyển dạ [6][7]. Sử
dụng bóng Cook làm mềm, mở CTC trong gây chuyển dạ cho 105 thai phụ tại
nước Ý, Cromi và cộng sự đã thu được kết quả thành công mềm, mở CTC đạt
91,4% và đẻ đường âm đạo đạt 76,2% [8]. Tại Việt Nam chưa có một nghiên
cứu nào được thực hiện do giá thành bóng Cook cao so với mặt bằng kinh tế
người dân.
Dùng bóng Cook làm mềm, mở cổ tử cung kết hợp với truyền oxytocin tĩnh
mạch trong gây chuyển dạ có nhiều ưu điểm so với các phương pháp khác vì nó
vừa cho hiệu quả thành công cao, vừa an toàn, ít tai biến, dễ sử dụng. Xuất phát

3



từ nhu cầu thực tiễn đang cần có một phương pháp mới, hiệu quả, an toàn, ít
tai biến, rẻ tiền, bệnh viện Phụ Sản Trung Ương đã sáng chế ra ống thông hai
bóng cải tiến giống bóng Cook làm mềm mở CTC đạt thành công 90%, hiệu
quả đẻ đường âm đạo 90% và không gặp một trường hợp tai biến nào [9].
Với mong muốn góp phần giúp cho các bác sỹ sản khoa có thêm sự lựa
chọn phương pháp làm mềm mở CTC mới, an toàn, ít tai biến, dễ sử dụng,
phù hợp với kinh tế, đáp ứng nhu cầu gây chuyển dạ ngày càng tăng cao hiện
nay, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG
LÀM MỀM, MỞ CỔ TỬ CUNG CỦA ỐNG THÔNG HAI BÓNG CẢI TIẾN
KẾT HỢP VỚI TRUYỀN OXYTOCIN TRONG GÂY CHUYỂN DẠ TẠI
BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG NĂM 2014”
Mục tiêu:
1.

Bước đầu đánh giá hiệu quả làm mềm, mở cổ tử cung của ống thông
hai bóng cải tiến trong gây chuyển dạ.

4


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN VỀ GÂY CHUYỂN DẠ
1.1.1. Khái niệm về gây chuyển dạ:
Gây chuyển dạ là việc sử dụng thuốc và/hoặc các phương pháp kỹ thuật
để tạo ra cuộc chuyển dạ trước khi vào chuyển dạ tự nhiên bất kể là ối đã vỡ
hay chưa, nhằm mục đích giúp thai nhi sổ ra ngoài theo đường âm đạo, kết
thúc hiện tượng mang thai khi mà việc kéo dài thai kỳ gây nguy hiểm cho mẹ

và/ hoặc thai nhi [10][11][12].
Mục đích của gây chuyển dạ là đạt được sinh đường âm đạo, tránh nguy
cơ phải mổ lấy thai.
Gây chuyển dạ thất bại: là khi sử dụng các loại thuốc hay các kỹ thuật
gây chuyển dạ mà TC không có một đáp ứng nào, hoặc khi TC có những thay
đổi bất thường gây nguy hiểm cho sản phụ và thai nhi như CCTC cường tính,
hoặc khi CTC không mở, thai suy.
1.1.2. Cơ chế sinh lý của gây chuyển dạ
Cơ chế sinh lý của gây chuyển dạ cho đến nay vẫn chưa được hoàn
chỉnh. Khi phải gây chuyển dạ, đặc biệt là ở những trường hợp CTC không
thuận lợi, điều quan tâm lớn nhất của các nhà sản khoa là dùng phương pháp
gây chuyển dạ nào để có được một CTC “chín muồi” hay CTC “thuận lợi”.
Các thay đổi ở CTC xảy ra khi chuyển dạ tới gần bao gồm sự mềm dần,
ngắn dần đi và sự mở dần của lỗ trong CTC, quá trình này gọi là sự “chín
muồi” CTC. Điều kiện của CTC khi bắt đầu gây chuyển dạ là yếu tố quan
trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại gây chuyển dạ. Khi CTC
chưa chín muồi thì cuộc chuyển dạ thường hay kéo dài, gây nguy hiểm cho
cả sản phụ và thai nhi, phải can thiệp bằng mổ lấy thai [10][11][12].
Cơ chế sinh lý của sự chín muồi CTC chưa được biết rõ, nhưng có nhiều
giải thuyết giải thích cho việc chín muồi CTC, trong đó quan trọng nhất là sự
tác động của PGE2 và PGF2a. Các PG có nguần gốc từ tiền chất arachidonic
5


acid, được tìm thấy ở trong cơ tử cung, đặc biệt là các PGF2a có nhiều trong
màng rụng mẹ, còn các màng thai, đặc biệt là màng ối, sản xuất chủ yếu
PGE2 [13]. Ngoài ra, PG nhóm E và F trong tử cung gia tăng khi chuyển dạ
cả ở thai trưởng thành lẫn thai non tháng. Tác dụng của các PG là tạo ra các
phản ứng sinh hóa phức tạp làm biến đổi các sợi collagen ở CTC cũng như
chất nền CTC. Các sợi collagen trở nên tách rời nhau và không còn gắn bó

chặt chẽ với nhau bởi các glycosaminoglycans khiến chúng dễ dàng chuyển
động; ngoài ra còn có sự gia tăng của Cytokin, sự thẩm thấu của bạch cầu làm
CTC mở ra, bắt đầu cho cuộc chuyển dạ. Trong in vitro cả PGF2a lẫn PGE2
đều gây ra cơn co TC. Tuy nhiên trong in vivo PGF2a màng rụng tác động
chủ yếu là thúc đẩy CCTC, trong khi PGE2 có vẻ hiệu quả hơn cho sự chín
muồi CTC. Vào cuối thai kỳ có sự tăng tổng hợp PG nhờ vào các cơ chế:
-

Giảm Progesteron nên giảm tác dụng ức chế sản xuất PG.

-

Estrogen tăng gây kích thích tổng hợp PG.

-

Sự gia tăng nồng độ oxytocin cũng kích thích làm tăng PG.
Các quan sát cho thấy ở động vật, sự chín muồi CTC được khởi đầu chủ

yếu bằng sự giảm nồng độ progesterone máu, trong khi đó ở người còn có
thêm sự gia tăng các chất đối kháng progesterone nội sinh. Sự chín muồi CTC
diễn ra từ trước khi bắt đầu vào chuyển dạ có thể vài ngày đến vài tuần.
1.1.3. Chỉ định và chống chỉ định của gây chuyển dạ [10][11][12].
1.1.3.1. Chỉ định.


Về phía mẹ:
- Tiền sản giật nặng: ở thai đủ tháng thì tiến hành gây chuyển dạ sau khi

người mẹ tạm ổn định bằng điều trị nội khoa. Đối với thai non tháng nhưng đã

có biểu hiện tổn thương trên các cơ quan của sản phụ thì cũng nên chấm dứt
thai kỳ.
- Đái tháo đường: Thai nhi có nguy cơ cao vào những tuần cuối của thai
kỳ nếu đường huyết người mẹ không ổn định. Nếu các thử nghiệm đánh giá
6


sức khỏe thai cho thấy thai có thể chịu được một cuộc gây chuyển dạ thì khởi
phát chuyển dạ có thể được xem xét khi thai được 38 - 39 tuần.
- Bệnh lý nội khoa nặng: Suy tim, suy thận …
- Ung thư: chấm dứt thai kỳ là nhằm mục đích bắt đầu điều trị sớm cho
thai phụ.
- Các chỉ định về tâm lý xã hội: hoang thai, ngoại tình, thai kỳ do loạn luân


Về phía thai:
- Thai quá ngày sinh: có sự suy giảm chức năng bánh rau và nồng độ

oxy trong máu thai nhi dẫn đến nhiều nguy cơ: thai chết lưu, thai suy trường
diễn, thai suy trong chuyển dạ.
- Thai chậm phát triển trong tử cung.
- Thai không đáp ứng với các test đánh giá sức khỏe trước sinh [14]
- Thai lưu.
- Thai bất thường
- Thai đủ trưởng thành nhưng nhà sản phụ xa trung tâm chăm sóc sức
khỏe trước sinh hay sản phụ có tiền sử đẻ nhanh.


Về phần phụ của thai.
-


Vỡ ối sớm.

-

Nhiễm trùng ối.

-

Thiểu ối.

1.1.3.2. Chống chỉ định


Chống chỉ định tuyệt đối:
+ Bất tương xứng giữa thai nhi và khung chậu người mẹ.
+ Ngôi thai bất thường không có chỉ định sinh đường âm đạo: ngôi vai,

ngôi trán, ngôi mặt..
+ Rau tiền đạo.
+ Sẹo mổ bóc u xơ TC trước đó, hoặc mổ tạo hình TC, sẹo mổ dọc thân
TC lấy thai trước đó.
+ Não úng thủy nặng.
7


+ Nhiễm Herpes sinh dục.
+ Ung thư CTC.



Chống chỉ định tương đối:
+ Ngôi mông.
+ Đa thai.
+ Tiển sử đẻ con to nhiều lần.
+ Tiền sử mổ ngang đoạn dưới TC lấy thai.
+ Thai non tháng.
+ Nghi ngờ thai to.

1.1.4. Tai biến, biến chứng của gây chuyển dạ:
Gây chuyển dạ thường liên quan đến việc sử dụng các kỹ thuật hoặc
các loại thuốc để tạo cơn co tử cung và làm xóa mở CTC nên có những rủi ro
khi sử dụng, vì vậy điều quan trong khi thực hiện gây chuyển dạ là các bác sỹ
phải cân nhắc kỹ về lợi ích, tác hại của từng phương pháp để lựa chọn được
phương pháp gây chuyển dạ thích hợp.
- Nguy cơ mổ lấy thai: Gây chuyển dạ có khả năng dẫn đến phải mổ lấy
thai nếu thất bại. Gây chuyển dạ thất bại thường là do CTC không được làm
thuận lợi, chiếm 15% các trường hợp gây chuyển dạ [15]. Osmundson S và
cộng sự năm 2011 nghiên cứu so sánh tỷ lệ mổ lấy thai ở những người phụ nữ
sinh con so có CTC không thuận lợi được gây chuyển dạ với những phụ nữ
sinh con so chuyển dạ tự nhiên ở tuần thai thứ 39 trở đi thu được kết quả
giống nhau ở cả hai nhóm [15][16][17].
- CCTC cường tính: gây ra bởi một số thuốc gây chuyển dạ như
oxytocin, Prostaglandin E2. Egarter CH và cộng sự nghiên cứu sử dụng PGE2
liều thấp gây chuyển dạ cho 3099 sản phụ, tỷ lệ CCTC cường tính gặp 181
trường hợp (5,8%) trong đó có 57 trường hợp có CCTC cường tính làm thay
đổi nhịp tim thai nhi bất thường (31,8%). Nghiên cứu cũng cho thấy sử dụng
8


thuốc làm giảm co bóp tử cung có tác dụng làm CCTC và tim thai trở lại bình

thường 178 trường hợp (98,3%), có 3 trường hợp phải mổ lấy thai và không
có tai biến nào thêm [18].
- Sinh non: Nguy cơ đẻ ra một trẻ non tháng nếu không ước tính tuổi
thai chính xác trước khi tiến hành gây chuyển dạ. Trẻ non tháng sẽ dẫn đến
các tổn thương về thể chất lẫn tinh thần, ảnh hưởng đến cuộc sống sau này
của đứa trẻ đồng thời gây gánh nặng cho gia đình và xã hội.
- Sa dây rốn: Là nguy cơ tiềm ẩn tại thời điểm làm rách màng ối trong
gây chuyển dạ. Do đó để làm giảm khả năng sa dây rốn thì phải:
+ Trước khi gây chuyển dạ phải thăm khám đánh giá kỹ tình trạng sản
phụ, tình trạng ối, ngôi thai.
+ Trước khi làm rách màng ối phải kiểm tra kỹ xem có dây rốn ở trước
ngôi thai hay ở bên ngôi thai không. Sau khi làm rách màng ối phải để cho
nước ối chảy ra từ từ với tay khám vẫn giữ trong âm đạo.
+ Tránh làm rách màng ối khi đầu thai nhi còn ở rất cao so với đầu ối.
- Suy thai: Sử dụng các thuốc gây chuyển dạ không đúng liều lượng
hoặc theo dõi không đầy đủ trong khi gây chuyển dạ làm tử cung có thắt quá
mức dẫn tới làm giảm cung cấp oxy cho trẻ dẫn tới bất thường tim thai và hậu
quả là trẻ sinh ra có chỉ số Apgar thấp.
- Vỡ tử cung: Có thể xảy ra trong quá trình gây chuyển dạ nhưng
thường hiếm gặp. Vỡ tử cung có thể làm tử vong sản phụ và thai nhi nên phải
mổ cấp cứu ngay kể cả khi thai nhi đã chết.
- Nhiễm trùng: Thời gian chuyển dạ trong gây chuyển dạ thường kéo
dài có thể gây nhiễm trùng cho sản phụ và thai nhi nhất là trong những trường
hợp ối vỡ lâu.
- Chảy máu sau đẻ: Có thể xảy ra nếu cuộc chuyển dạ kéo dài quá lâu,
nhất là trong những trường hợp ỗi vỡ trước khi gây chuyển dạ.
9


1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự thành công của gây chuyển dạ.

Mục đích của gây chuyển dạ là đạt được sinh đường âm đạo thành công
giống như chuyển dạ tự nhiên. Trước khi gây chuyển dạ có nhiều yếu tố lâm
sàng cần xem xét một cách cẩn thận để dự đoán thành công của gây chuyển dạ
và giảm thiểu nguy cơ phải mổ lấy thai. Các yếu tố đã được biết đến làm ảnh
hưởng đến sự thành công của gây chuyển dạ bao gồm: điểm chỉ số Bishop cổ
tử cung, chiều dài CTC, số lần sinh âm đạo trước đó, chỉ số khối cơ thể người
mẹ, tuổi sản phụ, cân nặng dự đoán của trẻ sơ sinh, bệnh lý đái tháo đường ở
người mẹ, sử dụng giảm đau bằng gây tê ngoài màng cứng trong chuyển dạ.
1.1.5.1. Số lần sinh.
Trong gây chuyển dạ, sinh con lần đầu là một yếu tố nguy cơ làm gây
chuyển dạ thất bại và hậu quả là phải mổ lấy thai, nguy cơ này càng gia tăng
trong trường hợp gây chuyển dạ mà CTC không thuận lợi . Yeast và cộng sự
tiến hành nghiên cứu trong 7,5 năm ở 21000 thai phụ con so được gây chuyển
dạ, kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phải mổ lấy thai cao gấp đôi so với người
con so chuyển dạ đẻ tự nhiên [19].
1.1.5.2. Tuổi thai.
Dự đoán chính xác ngày sinh có vai trò quan trọng trong gây chuyển dạ.
Gây chuyển dạ ở thai dưới 37 tuần cần phải cân nhắc kỹ vì nguy cơ thất bại và
phải mổ lấy thai cao. Với thai quá ngày sinh thì gây chuyển dạ có tác dụng làm
giảm tỷ lệ chết chu sinh.Theo định nghĩa của trường đại học sản phụ khoa Mỹ
thì thai quá ngày sinh là thai nghén sau tuần 42 và có khoảng 7% trong tổng số
4 triệu trẻ sinh ra tại Mỹ năm 2001 là sinh ở tuần 42 [20][21], tuy nhiên tác giả
Divon và cộng sự nghiên cứu cho thấy có sự gia tăng tỷ lệ chết chu sinh ở
những trẻ đẻ ra từ tuần 41 trở lên [22]. Vì vậy, gây chuyển dạ ở thai quá ngày
sinh nên được tiến hành từ tuần thứ 41 trở đi (40 tuần 1 ngày trở đi).
1.1.5.3. Cân nặng thai theo dự đoán.
10


Chưa có một định nghĩa nào về thai to được công nhận, tuy nhiên nhiều

nghiên cứu gần đây xác nhận thai to là những thai có trọng lượng từ 4000 đến
4500gr trở lên [23][24][25]. Thai to làm tăng nguy cơ phải mổ lấy thai và
chấn thương trẻ, liệt dây thần kinh ngoại biên cánh tay vì đẻ khó do mắc vai
[26]. Có nhiều yếu tố nguy cơ góp phần làm thai to đã được xác định như:
người mẹ bị đái tháo đường có kèm hoặc không kèm béo phì, chửa nhiều lần,
thai quá ngày sinh, tuổi mẹ cao, giới tính thai nhi, tiền sử lần trước sinh con ≥
4000gr. Chẩn đoán chính xác trọng lượng thai chỉ có thể xác định được sau
khi trẻ ra đời. Siêu âm đo các chỉ số của thai cũng dự đoán được trọng lượng
thai nhi nhưng chỉ chính xác ở những thai non tháng, còn ở thai đủ tháng
không có đủ các thông số để chẩn đoán thai to.
Vì không chắc chắn chẩn đoán chính xác được cân nặng dự đoán của
thai nhi, nên quyết định gây chuyển dạ ở những trường hợp nghi ngờ thai to
vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi giữa các nhà sản khoa. Nhiều nghiên cứu đã
nghi nhận gây chuyển dạ không làm giảm tỷ lệ mổ lấy thai hoặc đẻ khó do
mắc vai trong những trường hợp nghi ngờ thai to [27][28]. Rouse và cộng sự
phân tích hiệu quả gây chuyển dạ trong những trường hợp nghi ngờ thai to
với các trường hợp cân nặng thai nhi đúng tiêu chuẩn sản khoa thu được kết
quả: ở những người phụ nữ không bị tiểu đường thì phẫu thuật lấy thai là do
yếu kém về kinh tế và y học chứ không phải do trọng lượng thai nhi [29].
Nhiều tài liệu thực hành gần đây ủng hộ việc gây chuyển dạ cho những phụ
nữ không bị tiểu đường có thai dự đoán > 4000g và những phụ nữ bị tiểu
đường có trọng lượng thai > 4500g [30].
1.1.5.4. Chỉ số Bishop
Cách đây 40 năm Bishop đã tìm ra mối liên quan giữa sự chín muồi
CTC với khả năng tiến triển của chuyển dạ tự nhiên, hệ thống điểm Bishop

11


cũng được sử dụng để dự đoán thành công của gây chuyển dạ đẻ. Bishop E.H

đã đưa ra một hệ thống cho điểm để dự đoán khả năng thành công của khởi
phát chuyển dạ ở thai đủ trưởng thành. Hệ thống cho điểm này dựa trên các
yếu tố của CTC (độ mở, độ xóa, độ lọt, mật độ) và vị trí lọt của ngôi thai.
Hiện nay, bảng điểm của Bishop đã được cải tiến: sự xóa mở của CTC được
thay bằng chiều dài CTC (bảng 1.1).
Bảng 1.1. Đánh giá tình trạng CTC trước chuyển dạ bằng chỉ số Bishop [3]
Tham số

Điểm số
0

1

2

3

Độ mở CTC (cm)

Đóng

1-2

3-4

≥5

Độ xóa CTC (%)

30


40-50

60-70

≥ 80

>2 cm

1 – 2 cm

0,5-1 cm

<0,5 cm

Mật độ CTC

Chắc

Trung bình

Mềm

Vị trí CTC trong âm đạo

Sau

Trung gian

Trước


-3

-2

Chiều dài CTC
(Bishop cải tiến)

Độ lọt ngôi thai

-1 hoặc 0 +1 hoặc +2

Vroweraets (2005) và cộng sự tiến hành nghiên cứu trên 1300 thai phụ
sinh con so đã thu được kết quả có 12 (n = 765) sản phụ chuyển dạ tự nhiên
phải mổ lấy thai, 23,4% (n = 435) sản phụ gây chuyển dạ vì lý do y tế phải
mổ lấy thai và 23,8% (n = 189) thai phụ gây chuyển dạ vì lý do đặc biệt phải
mổ lấy thai. Sử dụng phương pháp phân tích đa chiều tác giả đã chứng minh
được sự liên quan giữa tỷ lệ mổ lấy thai với điểm chỉ số Bishop khi gây
chuyển dạ: điểm chỉ số Bishop < 5 điểm làm tăng nguy cơ mổ lấy thai lên gấp
đôi. Các tác giả cũng kết luận gây chuyển dạ không nên thực hiện ở những
trường hợp đình chỉ thai nghén vì lý do đặc biệt mà sinh con so, có chỉ số
Bishop không thuận lợi kèm theo các yếu tố nguy cơ khác đi kèm [31].
12


Vahratian (2005) và cộng sự đã tìm thấy sự liên quan giữa tình trạng
CTC khi gây chuyển dạ vì lý do đặc biệt ở người sinh con so với nguy cơ mổ
lấy thai: gây chuyển dạ ở những trường hợp CTC không thuận lợi có nguy cơ
làm tăng mổ lấy thai ở giai đoạn đầu của cuộc chuyển dạ gấp 3,5 lần so với
những trường hợp có CTC thuận lợi [32].

1.1.5.5. Fetal Fibronectin (f FN)
Với nồng độ fFN # 50 ng/ml qua phết dịch âm đạo, được cho là thử
nghiệm dương tính thì khả năng gây chuyển dạ thành công cao hơn nhóm
coFN < 50 ng/ml kể cả khi chỉ số Bishop < 5 điểm [33][34]. Tuy nhiên vấn đề
này vẫn còn đang được bàn luận.
1.1.5.6. Chỉ số khối cơ thể người mẹ (BMI)
Béo phì được coi là một bệnh dịch nó có thể gây biến chứng cho cuộc
chuyển dạ, bao gồm cả biến chứng cho sản phụ và thai nhi. Năm 2007 - 2008
trung tâm khảo sát kiểm tra dinh dưỡng và sức khỏe quốc gia của Mỹ đã thu
được kết quả 68% người trưởng thành trên 20 tuổi bị thừa cân nặng trong đó
33,8% là béo phì và 5,7% là quá béo (BMI > 40 kg/m 2). Thêm vào đó 1/3 phụ
nữ ở tuổi sinh đẻ bị béo phì và 7,6% phụ nữ trong số đó là quá béo [56]. Phụ
nữ béo phì có khả năng gặp rất nhiều vấn đề về y học, phẫu thuật và biến
chứng sản khoa bao gồm cả nguy cơ tăng tỷ lệ phải gây chuyển dạ đẻ, rối loạn
chức năng chuyển dạ, tỷ lệ phẫu thuật lấy thai tăng cao [35][36].
Cơ chế chính xác gây rối loạn chức năng chuyển dạ ở phụ nữ bị béo phì
vẫn chưa được hiểu biết một cách đầy đủ. Nghiên cứu cho thấy sự gia tăng
lượng cholesterol làm giảm sự co thắt của cơ tử cung, mà phụ nữ béo phì thì
có sự gia tăng lượng cholesterol hơn so với người phụ nữ có cân nặng bình
thường [37]. Sự gia tăng cholesterol ở phụ nữ béo phì có thể góp phần làm
tăng tỷ lệ rối loạn chức năng chuyển dạ và hậu quả phải mổ lấy thai.
Nhiều nghiên cứu đã khẳng định béo phì là yếu tố nguy cơ trong sự thất
bại của gây chuyển dạ. Katherine B và cộng sự (2011) nghiên cứu ảnh hưởng
13


của béo phì ở người mẹ lên tỷ lệ thất bại trong gây chuyển dạ thực hiện ở trên
80887 trường hợp kết quả cho thấy tỷ lệ gây chuyển dạ ở người phụ nữ béo
phì tăng cao hơn phụ nữ có cân nặng bình thường (34% ở người béo phì so
với 28% ở người bình thường) và tỷ lệ thất bại trong gây chuyển dạ ở người

phụ nữ béo phì cao hơn nhiều ở phụ nữ có cân nặng bình thường (23% so
với 13%). Trong các trường hợp gây chuyển dạ thất bại do béo phì thì có 80%
thất bại gặp ở béo phì độ III chưa sinh lần nào [38].
1.1.6. Các phương pháp gây chuyển dạ
Các phương pháp gây chuyển dạ đều hướng tới mục tiêu gây được
CCTC đều đặn, làm xóa mở CTC, giúp cho ngôi thai lọt xuống và cuối cùng
thai nhi được đẻ qua đường âm đạo một cách an toàn [10][11][12].
Các phương pháp gây chuyển dạ có những ưu thế khác nhau, có
phương pháp có ưu thế làm chín muồi CTC, có những phương pháp lại có ưu
thế tạo cơn co tử cung hữu hiệu và có những phương pháp lại có cả hai tác
dụng. Gây chuyển dạ có thể chỉ sử dụng đơn thuần một phương pháp nhưng
cũng có lúc cần sự kết hợp của nhiều phương pháp.
Các phương pháp gây chuyển dạ được phân thành hai nhóm phương
pháp chính dựa trên cơ chế tác dụng của nó gồm:
-

Phương pháp cơ học:
+ Kích thích núm vú.
+ Bấm ối.
+ Tách màng ối.
+ Nong cổ tử cung bằng que nong hút ẩm.
+ Phương pháp đặt túi nước Kovas.
+ Phương pháp đặt ống thông Foley vào ống cổ tử cung.

+ Phương pháp đặt bóng Cook vào ống cổ tử cung.
-

Phương pháp hóa học:
+ Truyền oxytocin tĩnh mạch.
+ Sử dụng Prostaglandin E1, E2 đặt âm đạo hoặc ống cổ tử cung.


14


1.2. TỔNG QUAN VỀ ỐNG THÔNG HAI BÓNG (BÓNG ATAD, BÓNG
COOK VÀ ỐNG THÔNG HAI BÓNG CẢI TIẾN)
1.2.1. Nguồn gốc và cấu tạo ống thông hai bóng Atad (bóng Cook)
1.2.1.1. Nguồn gốc:
Sử dụng ống thông có gắn quả bóng làm giãn nở cổ tử cung trong gây
chuyển dạ được mô tả lần đầu tiên bởi Embrey và Mollison năm 1967 [5].
Sau đó được Atad và cộng sự nghiên cứu, sáng chế thành ống thông hai bóng
năm 1991 với một bóng đặt ở lỗ trong CTC và một bóng đặt ở lỗ ngoài CTC
để làm mềm, mở CTC trong gây chuyển dạ với thời gian đặt bóng là 12 giờ
thu được hiệu quả làm CTC mở đến 3 cm, không gây CCTC cường tính hay
suy thai trong khi đặt bóng [6][7].
1.2.1.2. Cấu tạo:
- Ống thông hai bóng Atad (bóng Cook): cấu tạo bởi một ống thông
silicon cỡ 18 F, dài 40 cm, một đầu ống thông có gắn van khóa của bóng và
một đầu gắn hai quả bóng có thể bơm căng phồng bằng 80 ml nước muối sinh
lý. Mỗi bóng được bơm căng phồng lên qua lumen riêng từ van khóa ở cuối
của ống thông. Van khóa được đánh dấu chữ “U” là của quả bóng ở TC, van
khóa có chữ “V” là của quả bóng ở CTC – âm đạo.

Hình 1.1. Hình vẽ ống thông hai bóng Atad
1.2.2. Nguần gốc, cấu tạo ống thông hai bóng cải tiến
1.2.2.1. Nguần gốc của ống thông hai bóng cải tiến
15


Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương sáng tạo dựa vào mô hình ống thông

hai bóng Atad.
1.2.2.2. Cấu tạo của ống thông hai bóng cải tiến[9]
Ống thông Foley 3 chạng vô khuẩn có sẵn một quả bóng ở đầu ống
thông, quả bóng thứ 2 được tạo ra ở đỉnh ống thông bằng cách cắt một đoạn
3cm ngón găng tay phẫu thuật chùm vào đỉnh ống, sau đó lấy chỉ lanh vô
khuẩn buộc lại tạo quả bóng, khoảng cách giữa chỗ buộc đến quả bóng có sẵn
là 1,5cm. Quả bóng tạo thêm này gọi là bóng tử cung - sẽ được bơm căng
phồng qua lỗ ống thông không có van nên khi sử dụng phải dùng panh kẹp
tránh nước chảy ngược ra ngoài, quả bóng có sẵn là bóng CTC – AD và được
bơm căng qua van của ống thông.

Hình 1.2. Hình vẽ ống thông hai bóng cải tiến

16


Hình 1.3. Thiết bị bóng Atad (bóng Cook) và thiết bị bóng cải tiến
1.2.3. Cơ chế tác dụng của ống thông hai bóng
Khi hai bóng được đặt vào kênh CTC đúng vị trí: một qủa bóng ở lỗ
trong CTC và một quả nằm ở vị trí lỗ ngoài cổ tử cung – âm đạo, hai bóng sẽ
làm mềm và mở CTC theo hai cơ chế sau:
- Dựa vào lực ép liên tục của hai bóng vào CTC làm cho CTC ngắn lại
và mở dần ra.
- Kích thích sản xuất PG tại chỗ: do hai bóng tác động trực tiếp vào CTC
tạo ra phản ứng viêm tại chỗ gây kích thích tạo PG làm mềm và mở CTC.

17


1.2.4. Ứng dụng của ống thông hai bóng trong sản khoa:

1.2.3.1. Chỉ định:
Dùng để làm mềm, mở CTC trong khi gây chuyển dạ đẻ mà CTC
không thuận lợi ở những thai ≥ 34 tuần, ngôi chỏm, màng ối còn nguyên vẹn,
và có chỉ định đình chỉ thai nghén đường âm đạo. Các chỉ định gồm:
-

Thai già tháng.

-

Thai chậm phát triển trong tử cung.

-

Thai thiểu ối.

-

Bệnh lý người mẹ: Tiền sản giật, cao huyết áp mãn, đái tháo đường
typ II.

-

Đái tháo đường thai nghén.

-

Lý do xã hội: có thai ngoài ý muốn, tâm lý lo lắng của sản phụ và
gia đình.


1.2.3.2. Chống chỉ định:
-

Thai < 34 tuần.

-

Không phải ngôi chỏm: ngôi mông, ngôi vai.

-

Màng ối rách.

-

Không có chỉ định sinh đường âm đạo: rau tiền đạo, rau bám thấp,
tiền sử có phẫu thuật tử cung lấy thai hoặc bóc nhân xơ.

-

Đa thai.

-

Thai to

-

Tiền sử dị ứng với cao su.


-

Viêm nhiễm đường sinh dục dưới do liên cầu.

-

Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.

1.2.3.3. Tác dụng phụ:
-

Rách cổ tử cung.

-

Chảy máu cổ tử cung.
18


-

Nhiễm trùng.

-

Vỡ tử cung.

-

Gây cảm giác khó chịu cho thai phụ.


1.2.5. Tóm tắt một số nghiên cứu về hiệu quả của ống thông hai bóng
1.2.5.1. Tác dụng làm chín muồi CTC trong gây chuyển dạ đẻ ở thai phụ
không có sẹo mổ đẻ cũ:
- Năm 1991 Jack Atad và cộng sự lần đầu tiên tiến hành thử nghiệm lâm
sàng sử dụng thiết bị ống thông hai bóng đặt ống CTC làm mềm, mở CTC và
gây chuyển dạ đẻ cho 50 sản phụ thu được kết quả làm mềm, mở CTC đạt 94%
(47/50 thai phụ) và hiệu quả sinh đường âm đạo đạt 86% [7].
- Năm 1996 Atad và cộng sự nghiên cứu so sánh ngẫu nhiên về hiệu
quả gây chuyển dạ của 3 phương pháp: sử dụng PGE2 (30 bệnh nhân),
oxytocin (30 bệnh nhân) và dụng cụ quả bóng đôi (35 bệnh nhân). Kết quả thu
được: điểm chỉ số Bishop tăng ở nhóm dùng PGE2 và nhóm dùng thiết bị quả
bóng đôi cao hơn nhóm truyền oxytocin, CTC mở > 3 cm ở nhóm dùng thiết
bị quả bóng đôi cao hơn ở cả hai nhóm dùng PGE2 và oxytocin (85,7% so với
50% và 23,3%), tổng thời gian từ khi gây chuyển dạ đến khi đẻ ở nhóm dùng
thiết bị quả bóng đôi ít hơn ở nhóm dùng PGE2 và oxytocin [6].
- Atad và cộng sự (1997) nghiên cứu hiệu quả làm chín muồi CTC và
gây chuyển dạ của thiết bị quả bóng đôi Atad cho 250 trường hợp có CTC
không thuận lợi (chỉ số Bishop ≤ 4 điểm). Các chỉ định dùng thiết bị quả bóng
đôi gồm: tăng huyết áp (118 thai phụ), thai quá ngày sinh (69 thai phụ), các
chỉ định tương đối (23 trường hợp), các trường hợp thai chậm phát triển trong
tử cung, đái tháo đường, tiền sử phẫu thuật tử cung (40 trường hợp). Kết quả
thu được: thiết bị Atad có tác dụng làm tăng điểm chỉ số Bishop có ý nghĩa ở
tất cả các nhóm nghiên cứu (từ 2 điểm trước khi đặt lên 6,6 điểm sau khi tháo
bóng với p < 0,005), tổng thời gian từ khi đặt thiết bị đến khi sinh là 18,9 giờ
19


và từ khi tháo bóng đến đến khi sinh là 6,9 giờ. Tỷ lệ phải phẫu thuật lấy thai
là 39/250 thai phụ (16%), số còn lại sinh đường âm đạo [39].

- Cromi A và cộng sự (2012) [8] đã tiến hành nghiên cứu so sánh hiệu
quả làm chín muồi CTC và gây chuyển dạ của hai phương pháp: đặt
dinoproston âm đạo và thiết bị quả bóng đôi trên 210 sản phụ có chỉ số Bishop
≤ 6 điểm thì thu được kết quả tỷ lệ đẻ đường âm đạo trong vòng 24 giờ của
nhóm sử dụng thiết bị quả bóng đôi cao hơn nhóm sử dụng PGE2 (68,6% so
với 49,5%), tỷ lệ mổ lấy thai là ngang nhau (23,8% so với 26,2%), sử dụng
oxytocin truyền tĩnh mạch thêm ở nhóm dùng thiết bị quả bóng đôi nhiều hơn
ở nhóm PGE2. Rối loạn cơn co tử cung và CCTC cường tính hay gặp ở nhóm
PGE2 hơn nhóm sử dụng thiết bị quả bóng đôi (9,7% so với 0%).
Katarzyna Sufecool và cộng sự năm 2013 tiến hành nghiên cứu tại
trung tâm sản khoa của bệnh viện Luke - Roosevelt, Mỹ so sánh hiệu quả gây
chuyển dạ ở người sinh con so có CTC không thuận lợi bằng cách sử dụng
ống thông hai bóng và dùng Dinoprstone: nghiên cứu được tiến hành trên 62
sản phụ đủ tiêu chuẩn lựa chọn gây chuyển dạ (con so, tuổi mẹ ≥ 18 tuổi, tuổi
thai ≥ 37 tuần, màng ối còn, một thai ngôi đầu, chỉ số Bishop CTC, 6 điểm).
Trong 62 thai phụ thì 31 thai phụ được chỉ định dùng 10 mg Dinoprostone đặt
âm đạo và 31 thai phụ được đặt ống thông hai bóng vào kênh CTC, oxytocin
được chỉ định dùng truyền tĩnh mạch kèm cho những trường hợp không có đủ
3 cơn co tử cung /10 phút sau khi đặt Dinoprostone 60 phút và sau khi đặt ống
thông hai bóng 6 giờ. Kết qủa gây được chuyển dạ (CTC mở ≥ 3 cm) đạt 84%
ở nhóm dùng Dinoprostone và 81% ở nhóm bóng, thời gian từ khi gây chuyển
dạ đến khi sinh ở nhóm dùng bóng ngắn hơn nhóm dùng Dinoprostone (19,7
giờ so với 26,3 giờ), số 7, sản phụ đạt sinh trong vòng 24 giờ ở nhóm dùng
bóng cao hơn nhóm dùng thuốc (87,1% so với 48,4%), bất thường về CCTC
xảy ra ở nhóm dùng Dinoprostone là 25,8% còn ở nhóm dùng bóng thì không
bị trường hợp nào [40].

20



- Lê Thiện Thái, Đoàn Thị Phương Lam (2013) [9], bước đầu nghiên
cứu 30 bệnh nhân gây chuyển dạ bằng đặt thiết bị bóng đôi cải tiến thu được
kết quả đẻ đường âm đạo 90% (27/30 bệnh nhân), không có một tai biến nào
xảy ra cho mẹ và thai nhi.
- Elad Mei - Dan và cộng sự (2012) [41] tiến hành so sánh hiệu quả làm
chín muồi CTC trong gây chuyển dạ của hai thiết bị: ống thông Foley và ống
thông hai bóng (bóng làm chín muồi CTC – Cook) tại trung tâm y học ở Israel
từ tháng 10/2007 đến tháng 7/2009. Có 188 hai phụ có đủ tiêu chuẩn (1 thai
ngôi đầu, tuổi thai ≥ 37 tuần, màng ối còn, chỉ số Bishop ≤ 4 điểm) được chia
thành hai nhóm: nhóm 1 gồm 100 thai phụ được đặt bóng Cook với thể tích
mỗi bóng là 80 ml, nhóm 2 gồm 88 thai phụ được đặt ống thông Foley với
thể tích bóng được làm căng là 30 ml kèm thêm có truyền nhỏ giọt dung dịch
nước muối sinh lý vào ngoài ối đạt tốc độ 50 ml/giờ. Sau 12 giờ đặt nếu
chuyển dạ chưa xuất hiện thì thiết bị được tháo ra và CTC được đánh giá lại
bằng thang điểm Bishop, trong trường hợp làm chín muồi CTC thành công
(điểm chỉ số Bishop tăng lên 2 điểm so với trước đặt hoặc CTC mở ≥ 3 cm)
thì gây chuyển dạ tiếp theo được tiến hành: truyền oxytocin tĩnh mạch và/
hoặc làm rách màng ối. Còn với các trường hợp CTC không chín muồi sẽ
được đánh giá lại để sử dụng các phương pháp gây chuyển dạ khác theo chỉ
định sản khoa. Kết quả nghiên cứu thu được điểm chỉ số Bishop thay đổi ở
nhóm dùng bóng Cook cao hơn nhóm dùng ống thông Foley ở người sinh con
so, thời gian từ khi đặt bóng đến khi bóng bị trục xuất ra ngoài và thời gian từ
khi đặt bóng đến khi sinh ở nhóm dùng Foley ngắn hơn ở nhóm dùng bóng
Cook. Không có sự khác nhau giữa hai nhóm nghiên cứu về: thời gian từ khi
tháo bóng đến khi sinh, làm rách màng ối, sử dụng oxytocin, tỷ lệ phẫu thuật,
cảm giác đau trong khi đặt bóng.
- Kehl S và cộng sự nghiên cứu sự chấp thuận của phụ nữ về việc sự
dụng phương pháp dùng ống thông hai bóng để gây chuyển dạ kết hợp với

21



dùng Misoprostol đường uống ở 122 sản phụ kết quả cho thấy không có sản
phụ nào cảm thấy phiền hà khi được đặt bóng vào ống cổ tử cung [42].
- WenYan Wang và cộng sự nghiên cứu so sánh sự an toàn của hai
phương pháp gây chuyển dạ dùng ống thông hai bóng đặt kênh CTC hoặc
dùng Dinoproston đặt âm đạo thai phụ bị thiểu ối chỉ số Bishop CTC < 6
điểm. Nghiên cứu được tiến hành ở 126 thai phụ trong đó 67 thai phụ được
đặt ống thông hai bóng vào kênh CTC, 59 thai phụ được đặt Dinoprospone
âm đạo. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác nhau về tỷ lệ phải
phẫu thuật lấy thai hay sự thay đổi chỉ số Bishop giữa hai nhóm, sử dụng ống
thông hai bóng ít gây tai biến về CCTC và suy thai hơn sử dụng thuốc, tuy
nhiên tỷ lệ thai phụ phải dùng thêm oxytocin và bấm ối ở nhóm dùng bóng
cao hơn nhóm dùng thuốc [43].
- Nguyễn Bá Mỹ Ngọc, Phạm Việt Thạch (2013)[44]. So sánh hiệu quả
khởi phát chuyển dạ của Prostaglandin E2 và ống thông Foley ở thai >=37
tuần thiểu ối cho kết quả hiệu quả của hai phương pháp là như nhau, tuy nhiên
sử dụng PGE2 gặp nhiều tác dụng phụ như nôn, CCTC cường tính, suy thai
trong khi phương pháp sử dụng Foley không gặp trường hợp nào.
1.2.5.2. Tác dụng làm chín muồi CTC và gây chuyển dạ đẻ trên thai phụ có
sẹo mổ đẻ cũ hoặc những thai phụ đã sử dụng phương pháp gây chuyển dạ
khác thất bại:
- A Nnochiri và cộng sự (2010) sử dụng bóng Cook làm chín muồi cổ tử
cung và gây chuyển dạ cho 43 thai phụ (24 thai phụ đã thất bại trong gây
chuyển dạ bằng Prostaglandin và 19 thai phụ có tiền sử mổ đẻ cũ nhưng lần
này muốn sinh đường âm đạo). Kết quả sinh đường âm đạo của nhóm đã thất
bại trong sử dụng PG là 15/24 bệnh nhân (62,5%) và nhóm có tiền sử mổ đẻ
cũ là 63%. Sự thay đổi chỉ số Bishop có giá trị là 4,1 [45].
Hiệu quả của ống thông hai bóng đặt kênh CTC đang dần được khẳng
định trong lĩnh vực sản khoa với những ưu điểm vượt trội mà các phương

22


pháp khác không có được. Qua một số nghiên cứu đã nêu trên, các tác giả đã
cho thấy hiệu quả của ống thông hai bóng đặt kênh CTC không chỉ ở tác dụng
làm mềm mở CTC và gây chuyển dạ ở thai phụ chưa mổ đẻ lần nào mà nó
còn có tác dụng trong những trường hợp gây chuyển dạ bằng phương pháp
khác thất bại và các trường hợp có sẹo mổ đẻ cũ. Tuy nhiên phương pháp này
vẫn chưa được nghiên cứu và ứng dụng ở Việt Nam, vì vậy cần thiết phải có
những nghiên cứu khẳng định tác dụng của ống thông hai bóng đặt kênh CTC
làm mềm, mở CTC và gây chuyển dạ, qua đó giúp các thầy thuốc có thêm
một phương pháp hữu hiệu trong thực hành sản khoa.

23


CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là những thai phụ có chỉ định gây chuyển dạ
nhưng có cổ tử cung không thuận lợi trong thời gian từ tháng 06 năm 2014
đến tháng 12 năm 2014 tại khoa Đẻ bệnh viện Phụ Sản Trung Ương. Các đối
tượng nghiên cứu được lựa chọn theo các tiêu chuẩn nhất định sau:
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu
- Một thai
- Ngôi chỏm
- Thai sống.
- Tuổi thai ≥34 tuần (tính theo kinh cuối cùng nếu vòng kinh của thai phụ
đều hoặc theo siêu âm lúc thai < 20 tuần).
- Không có dấu hiệu nhiễm khuẩn toàn thân: không sốt, xét nghiệm

HIV, giang mai âm tính, xét nghiệm máu BC bình thường, CPR âm tính,
lấy dịch âm đạo soi tươi không có nhiễm khuẩn do Trichomonas hoặc do
vi khuẩn.
-Màng ối còn nguyên vẹn: đặt mỏ vịt âm đạo quan sát không có dịch
trong âm đạo, làm test Nitrazine âm tính. Thăm khám bằng tay có thể sờ
thấy màng ối còn nguyên vẹn, không có nước ối theo găng trong trường hợp
CTC hé.
- Chưa có dấu hiệu chuyển dạ: chuẩn đoán dựa vào các dấu hiệu sau:
* Lâm sàng:
+ Thai phụ không có cảm giác đau bụng, không ra nhầy hồng âm đạo
hoặc ra nước âm đạo.
+ Sờ bụng thai phụ không có cơn co tử cung (CCTC)

24


+ Thăm âm đạo: CTC đóng hoặc lọt ngón tay, đầu ối chưa thành lập.
+ Đánh giá chỉ số Bishop CTC ≤ 6 điểm.


Cận lâm sàng:

+ Monitoring sản khoa: CCTC không có hoặc thưa (< 2 cơn / 10 phút,
cường độ < 20 mmHg).
Cụ thể trong nghiên cứu của chúng tôi, các trường hợp gây chuyển dạ có
CTC không thuận lợi sau được lựa chọn vào nghiên cứu:
+ Thai quá ngày sinh.
+ Thai chậm phát triển trong tử cung.
+ Thai thiểu ối.
+ Thai bất thường.

+ Đái tháo đường thai nghén.
+ Cao huyết áp mãn tính hoặc cao huyết áp thai kỳ chưa biến chứng.
+ Sản phụ lo lắng.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Tất cả những trường hợp thiếu một trong những tiêu chuẩn lựa chọn
ở trên.
- Có chống chỉ định sinh đường âm đạo:
+ Thai to, đa thai.
+ Tử cung có sẹo mổ cũ, tử cung dị dạng,
+ Ngôi ngang, ngôi mông, rau tiền đạo, u tiền đạo.
- Bệnh lý toàn thân nặng: TSG nặng, suy tim, suy gan, suy thận…
- Tiền sử dị ứng với thuốc oxytocin hoặc với cao su.
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu

25


×