Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng,cận lâm sàng hen phế quản trẻ từ 2 đến5 tuổi tại bệnh viện nhi trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.26 KB, 110 trang )

1

1

X

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hen phế quản là một trong những bệnh lý hô hấp mạn tính hay gặp nhất
ở trẻ em. Đặc biệt tỷ lệ mắc hen phế quản có xu hướng gia tăng trong những
thập niên gần đây. Theo tổ chức y tế thế giới, trên thế giới có khoảng 300 triệu
người bị hen và khoảng 250 nghìn người chết vì hen trong năm 2005 [1].
Theo Hiệp hội hô hấp Hoa Kỳ (American Lung Asociation), khoảng 34,1 triệu
người Mỹ, trong số đó có 9 triệu trẻ em được chẩn đoán HPQ, con số này
ngày càng tăng và đặc biệt ở trẻ em dưới 6 tuổi [2]. Theo hiệp hội Hen và dị
ứng trẻ em-ISADS (International study of Asthma and Allenagies in Children)
tỷ lệ mắc hen phế quản ở trẻ em rất dao động từ 3-20% tại các nước. Một số
nghiên cứu gần đây tại tại Việt Nam cho thấy hen phế quản ở trẻ em đang có xu
hướng gia tăng, với tỷ lệ mắc dao động vào khoảng 7 - 11% [3].
Mặc dù chương trình khởi phát phòng chống hen toàn cầu GINA (Global
Intiative for asthma) đã có nhiều thành tựu trong việc cải thiện chẩn đoán và
quản lý kiểm soát hen trên toàn cầu. Tuy nhiên hen phế quản ở trẻ em còn gặp
nhiều khó khăn trong chẩn đoán, đặc biệt là hen trẻ nhỏ. Đây là lứa tuổi khó
thực hiện thăm dò chức năng hô hấp - một trong chỉ số khách quan giúp chẩn
đoán hen thì rất khó thực hiện ở trẻ nhỏ. Với trẻ dưới 5 tuổi, hầu hết các bác
sỹ dựa vào triệu chứng lâm sàng, tiền sử bệnh và sự đáp ứng với thuốc giãn
phế quản và kháng viêm corticoid điều trị thử để chẩn đoán. Vì thế dẫn đến
hiện tượng một số trung tâm thì chẩn đoán quá mức hoặc một số nơi thì bỏ sót
chẩn đoán khiến trẻ bị tái phát cơn nhiều lần và sử dụng thuốc kháng sinh
không hợp lý.
Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật được ứng dụng vào lĩnh vực y tế,


trong đó có thăm dò chức năng hô hấp, hiện nay một số cơ sở y tế trong và


2

2

ngoài nước đã ứng dụng kỹ thuật đo sức cản đường thở bằng hệ thống dao
động xung lực - Impulse Oscillation System (IOS). Kỹ thuật này trải qua
nhiều cải tiến và được giới thiệu ra thị trường lần đầu tiên vào năm 1998. IOS
giúp đánh giá mức độ tắc nghẽn đường thở. Đây là một kỹ thuật không xâm
lấn, không đòi hỏi sự gắng sức và có thể thực hiện dễ dàng ở trẻ nhỏ.
Bệnh viện Nhi Trung ương là một Bệnh viện đầu ngành về Nhi khoa, có
nhiều tiến bộ mới về chẩn đoán, điều trị và quản lý hen phế quản trẻ em. Kỹ
thuật đo sức cản đường thở bằng hệ thống dao động xung lực đã bắt đầu được
ứng dụng trong thời gian gần đây. Điều này giúp bác sỹ chẩn đoán và điều trị
hen phế quản, nhất là trẻ nhỏ ngày một hiệu quả. Để góp phần nâng cao kiến
thức về chẩn đoán, điều trị và quản lý hen trẻ dưới 5 tuổi, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng hen phế
quản trẻ từ 2 đến 5 tuổi tại Bệnh viện nhi Trung ương”, với hai mục tiêu:
1.

Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng hen phế quản trẻ từ 2
đến 5 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương.

2.

Khảo sát sức cản đường thở của trẻ hen phế quản từ 2 đến 5 tuổi
bằng hệ thống dao động xung lực.



3

3

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN
1.1. Hen phế quản ở trẻ em
* Đại cương
+ Định nghĩa:
Theo GINA 2017, hen là một bệnh đa dạng, thường đặc trưng bởi tình
trạng viêm mạn tính đường dẫn khí. Hen được định nghĩa bởi bệnh sử có các
triệu chứng hô hấp như khò khè, khó thở, tức ngực và ho, các triệu chứng này
thay đổi theo thời gian và cường độ cùng với giới hạn luồng khí thở ra [4].
Định nghĩa này đã đạt được sự đồng thuận dựa trên đặc điểm của hen
điển hình cũng như phân biệt với các bệnh lý hô hấp khác [4].
Hen phế quản là nguyên nhân hàng đầu khiến trẻ phải nghỉ học, phải đi
khám cấp cứu và phải nằm viện [5].
Hen phế quản là một bệnh lý không đồng nhất với những đặc điểm và
diễn biến bệnh khác nhau. Những trường hợp có chung một số đặc điểm về
lâm sàng và/hoặc cơ chế bệnh sinh được gọi là kiểu hình của hen. Một số thể
hen nặng hơn có thể được điều trị theo hướng dẫn điều trị của kiểu hình tương
ứng. Tuy nhiên vẫn chưa có mối liên quan rõ ràng giữa đặc điểm sinh lý bệnh,
triệu chứng lâm sàng và đáp ứng điều trị ở những kiểu hình này. Chính vì vậy,
cần thêm những nghiên cứu giúp hiểu rõ hơn về bệnh cảnh lâm sàng của hen
cũng như giúp phân loại kiểu hình của hen một cách phù hợp hơn [6], [7].
1.2. Dịch tễ học hen phế quản
1.2.1. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong trên thế giới [8], [9].
Tỷ lệ mắc hen trên thế giới 20 năm trước là 0,5-6%, hiện nay tỷ lệ đó

tăng lên 5-10%. Tỷ lệ tử vong trước đây là 0,5-2% hiện nay là 2-3%. Cách
đây 10 năm cả thế giới có khoảng 150 triệu người hen, đến nay có khoảng


4

4

300 triệu người và dự đoán đến năm 2025 có 400 triệu người mắc hen trên
toàn thế giới.
Ở các nước phát triển (Mỹ, Anh, Australia, New Zealand) tỷ lệ mắc cao
gấp 8-10 lần so với các nước đang phát triển, nhóm người có thu nhập thấp
sống ở thành thị mắc bệnh nhiều hơn các nhóm người khác [10].
Theo một nghiên cứu Quốc tế về hen và dị ứng ở trẻ em, tỷ lệ mắc thay
đổi từ 3-20% ở nhiều nước khác nhau trên toàn thế giới. Các nước nói tiếng
Anh và các nước gần bờ biển, khí hậu ôn đới, cận nhiệt đới có tỷ lệ mắc hen ở
trẻ em cao nhất. Các nước đang phát triển hoặc các nước khí hậu nhiệt đới có
tỷ lệ mắc thấp hơn [10], [11].
Tỷ lệ mắc hen ở trẻ từ 6-7 tuổi chiếm từ 4-32%, từ 13-14 tuổi chiếm từ
2-26% tùy theo từng đất nước khác nhau, tỷ lệ mắc bệnh thấp ở các nước
đang phát triển và Tây Âu, tỷ lệ mắc cao hơn ở châu Mỹ La Tinh và các nước
nói tiếng Anh [10], [12].
Ở Mỹ, có khoảng 34,1 triệu người được chẩn đoán hen, theo trung tâm
dự phòng và kiểm soát bệnh (CDC) có khoảng 6,7% người lớn và 8,5% trẻ
em mắc hen từ năm 2001 đến 2003, tỷ lệ mắc tăng nhanh hơn 75% từ năm
1980 đến năm 1999. Số trẻ em phải nghỉ học và phải nhập viện do bệnh hen
nhiều hơn do các bệnh mạn tính khác, hầu hết trẻ em được chẩn đoán hen tại
thời điểm phải nhập viện [1].
Tỷ lệ mắc hen cao hơn ở nhóm người thiểu số (da đen, Tây Ban Nha), tuy
nhiên những nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ mắc gia tăng ở trẻ em da trắng

[13]. Ở Los Angeles, tỷ lệ hen ở người da đen, da trắng, Châu Á và Châu Mỹ
La Tinh ở trẻ dưới 17 tuổi lần lượt là 15,8%; 7,3%; 6%; 3,9% (p < 0.001) [14].
Một nghiên cứu ở Melbourne năm 1991 thấy rằng tỷ lệ khò khè hoặc hen
ở trẻ em Châu Á nhập cư thấp hơn những trẻ em Châu Á được sinh ra ở
Australian và những trẻ em Châu Á không sinh ra ở Australia (p < 0.001). Tuy


5

5

nhiên, tỷ lệ hen ở những trẻ Châu Á nhập cư tăng theo khoảng thời gian trẻ ở
lại Australia, thể hiện yếu tố môi trường đóng vai trò quan trọng trong sự tiến
triển của bệnh [15].
Trước tuổi dậy thì, trẻ nam mắc bệnh nhiều hơn trẻ nữ gấp 3 lần, tuổi
thiếu niên tỷ lệ mắc là ngang nhau, hen khởi phát ở tuổi trưởng thành thường
gặp ở nữ nhiều hơn nam giới.
Hầu hết ở trẻ em hen thường khởi phát trước 5 tuổi, hơn một nửa trong
số đó khởi phát trước 3 tuổi.
Trẻ ở độ tuổi mẫu giáo, có khoảng 20% các trường hợp khò khè do
nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, 60% các trường hợp không kéo dài đến 6
tuổi. Nhiều trường hợp trẻ khò khè thoáng qua ở giai đoạn tiền học đường
hoặc vào những năm đầu đi học nhưng trẻ không có biểu hiện dị ứng và chức
năng phổi bình thường.
Những trẻ khò khè biểu hiện sớm thường có cơ địa dị ứng, khò khè
thường bắt đầu từ 6 tuổi, kéo dài đến 11 tuổi.
Theo WHO năm 2005, tỷ lệ hen của các nước cao nhất là xứ Wales
(17%), sau đó là New Zealand, Ireland, Mỹ, Pháp, Nhật, Hy Lạp, và Albania
(khoảng 1,4%) [16]. Tuy nhiên tỷ lệ tử vong không phụ thuộc vào độ lưu
hành của hen. Nước có tỷ lệ mắc thấp nhưng có tỷ lệ tử vong cao là Nga,

Uzbekistan, Albani, Singapore.
Cùng với sự gia tăng của tỷ lệ mắc hen phế quản, tỷ lệ tử vong cũng tăng
rõ rệt, hàng năm có khoảng 20 đến 25 vạn người tử vong do hen, cứ 250
người tử vong có một người tử vong do hen [17].
1.2.2. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở Việt Nam
Những năm cuối thế kỷ XX tỷ lệ dân số Việt Nam mắc hen phế quản
chiếm khoảng 5%. Tỷ lệ này ở trẻ em gia tăng từ 4% (năm 1984) lên 11,6%
(năm 1995) [13]. Theo thống kê của Viện bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em, tỷ lệ


6

6

hen phế quản trẻ em điều trị nội trú tại viện là 4% và số lượng này tăng 30%
từ năm 1995 đến năm 1997 [18]. Hen phế quản trở thành một bệnh phổ biến
có tỷ lệ mắc cao, ảnh hưởng đến sức khỏe, học tập, sinh hoạt của trẻ.
Tại Việt Nam năm 2011, ước tính có khoảng 4 triệu người. Tỷ lệ hen một
số vùng dân cư Hà Nội năm 1997 như quận Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Thanh
Xuân, Từ Liêm là 3,15%, trong đó trẻ dưới 15 tuổi chiếm 73% [19].
Một số tác giả nghiên cứu tỷ lệ hen ở Hà Nội, Hải Phòng, Hòa Bình,
Lâm Đồng, Nghệ An, Thành phố Hồ Chí Minh (2011), bằng phỏng vấn trực
tiếp theo mẫu 8038 người thì thấy tỷ lệ hen thấp nhất ở Lâm Đồng là 1,1%,
Hòa Bình là 5,35%, tỷ lệ hen trung bình là 4,1%. Những nghiên cứu gần đây
của khoa Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng Bạch Mai dự báo tỷ lệ mắc hen phế
quản ở nước ta là 6-7%. Tỷ lệ học sinh một số trường trung học phổ thông tại
Hà Nội năm 2006 là 8,7% [20].
Hiện nay chưa có số liệu thống kê chính xác về tỷ lệ mắc bệnh cũng như
tỷ lệ tử vong do hen, nhưng ước tính có tỷ lệ mắc khoảng 4-5% thì Việt Nam
có khoảng 4 triệu người bị hen và tỷ lệ tử vong chắc chắn không thấp. Lý do

tỷ lệ tử vong tăng là vì độ lưu hành hen tăng, phát hiện điều trị không kịp thời,
sử dụng thuốc không đúng, chủ quan coi nhẹ việc quản lý kiểm soát hen tại
cộng đồng [9].
Nguyên nhân của sự gia tăng tỷ lệ mắc và tử vong do hen:
Trên thế giới đã được nhiều tác giả nghiên cứu và nhận xét:
+ Tình trạng ô nhiễm môi trường sống và xã hội.
+ Lạm dụng sử dụng thuốc, hóa chất trong chữa bệnh và đời sống sinh
hoạt hàng ngày.
+ Khí hậu và thời tiết thay đổi.
+ Nhịp sống khẩn trương, hiện đại, nhiều stress.
+ Thiếu kiến thức phòng [17].


7

7

1.3. Cơ chế bệnh sinh hen phế quản
Có nhiều giả thuyết về cơ chế bệnh sinh của hen phế quản, nhưng đa số
các tác giả đã công nhận các cơ chế sau:
- Viêm mạn tính đường thở: là yếu tố chủ yếu trong bệnh sinh của hen
phế quản, có sự tham gia của nhiều tế bào, thành phần tế bào và các hóa chất
trung gian.
- Co thắt phế quản: đường thở bị bít tắc ở các mức độ khác nhau, có tái
tạo lại đường thở.
- Tăng tính phản ứng của đường thở với các tác nhân kích thích.
- Tái cấu trúc đường thở.

Yếu tố nguy cơ
(làm phát sinh bệnh hen)


Viêm phế quản
mạn tính

Tăng đáp ứng đường thở

Co thắt cơ trơn phế quản

Yếu tố nguy cơ (Gây cơn hen cấp)
Triệu chứng của Hen
Sơ đồ 1.1. Cơ chế bệnh sinh hen phế quản
Các quá trình bệnh lý trong hen phế quản.
Các quá trình bệnh lý trên kết hợp với các yếu tố nguy cơ từ môi
trường làm xuất hiện cơn hen cấp với các triệu chứng khó thở, khò khè,
ho và nặng ngực.


8

8

1.3.1. Viêm là quá trình chủ yếu trong cơ chế bệnh sinh của hen phế quản
[21], [22], [23], [24].
- Viêm mạn tính niêm mạc đường thở với nhiều bạch cầu ái toan là nét đặc
trưng phân biệt giữa viêm của hen với viêm của bất kỳ bệnh lý hô hấp nào khác.
- Các tế bào gây viêm như đại thực bào, bạch cầu đa nhân trung tính,
bạch cầu ái toan, bạch cầu ưa kiềm, mastocyte, tế bào T và B, tế bào
monocyte, tiểu cầu…
- Nhiều Cytokin gây viêm được giải phóng từ đại thực bào, tế bào B như
IL4, IL5, IL6, 6MCSF (Granulocyte marcophage colony stimulating factor) gây

viêm dữ dội làm tổn thương vận chuyển nhung mao niêm mạc đường hô hấp.
Leucotrien B4 kéo bạch cầu ưa acid khi bị hoạt hóa sẽ sản xuất ra Leucotrien
C và yếu tố hoạt hóa tiểu cầu gây hẹp và phù nề phế quản.
- Các yếu tố gây viêm, các dị nguyên như một kháng thể vào cơ thể kết
hợp với các kháng thể trên bề mặt dưỡng bào (tế bào Mast) làm thoái hóa hạt
giải phóng nhiều chất trung gian hóa học tiên phát và thứ phát như histamin,
serotonin, bradykinin, thromboxan A2 (TXA2), prostagladin (PGD2, PGE2,
PGF2), leucotrien (LTB4, LTC4, LTD4) có tác dụng làm tăng tính thấm thành
mạch, tăng tính phản ứng phế quản, tăng tiết nhầy….
- Yếu tố hoạt hóa tiểu cầu (Platet activating factor: PAF) gây co thắt,
viêm nhiễm phù nề phế quản.
- Vai trò của các neuropeptid do các bạch cầu ái toan tiết ra một số chất
trung gian như MBP (Major Basic Protein), ECP (Eosinophile Cathionic
Peptid) làm viêm tróc biểu mô giải phóng các neuropeptid gây viêm như chất
P (Substance P), VIP, CGRP, ET1…
- Các phần tử kết dính (Adehension Molicule: AM) được phát hiện trong
những năm gần đây và các cytokin có mối quan hệ tương hỗ rất gắn bó với
các Cytokin trong quá trình viêm dị ứng, có tác dụng gắn kết các tế bào với


9

9

nhau ở trong các mô, tổ chức, tạo điều kiện cho các tế bào di tản đến vị trí
viêm dị ứng, chủ yếu là phân tử kết dính liên bào 1 và 2.
1.3.2. Co thắt phế quản [9], [25]
- Hậu quả của hiện tượng viêm nói trên đã gây nên tình trạng co thắt phế
quản như cơ chế đã trình bày. Ngoài ra ở trẻ bị hen phế quản thụ thể β2 bị suy
giảm làm cho men adenylcyclase kém hoạt hóa, gây nên thiếu hụt AMPc ở cơ

trơn phế quản. Tình trạng này làm cho các ion calci xâm nhập vào tế bào,
đồng thời dưỡng bào (mastocyte) bị thoái hóa hạt giải phóng các chất trung
gian hóa học gây co thắt phế quản.
- Sự rối loạn hệ thần kinh tự động giao cảm làm tăng tiết cholin kích
thích hệ Cholinergic làm giải phóng các chất trung gian hóa học và tăng
AMPc nội tế bào gây phản xạ co thắt phế quản.
- Trong các tế bào và các chất hóa học trung gian gây viêm cần lưu ý vai
trò của leucotrien đó là những sản phẩm chuyển hóa của acid arachinodic theo
con đường 5 - lipooxygenase hình thành hai typ leucotriens: sulfido - peptid
và LTB4. Thực chất các sulfido - peptid là chất SRS - A gây phản ứng quá
mẫn chậm (Slow Reacting Subtance of Anaphylaxic) có tác dụng co thắt phế
quản rất mạnh.
- Prostagladin, đặc biệt là PGD 2 là do mastocyt tiết ra thúc đẩy dự giải
phóng histamin từ basophil cũng chịu trách nhiệm về sự co thắt và gia tăng
tính phản ứng của phế quản. PAF cũng là một yếu tố làm co thắt phế quản.
1.3.3. Gia tăng tính phản ứng phế quản [9], [25].
Tăng tính phản ứng phế quản là đặc điểm quan trọng trong bệnh sinh hen
phế quản. Sự biến đổi tính phản ứng phế quản liên quan đến nhịp ngày đêm
của sức cản phế quản.
Tăng tính phản ứng phế quản làm mất cân bằng giữa hệ adrenergic và hệ
cholinergic dẫn đến tình trạng ưu thế thụ thể α và β, tăng ưu thế của GMPc


10

10

nội bào, biến đổi hàm lượng men phosphodiesterase nội bào, rối loạn chuyển
hóa prostaglandin.
Sự gia tăng tính phản ứng phế quản là cơ sở để giải thích dự xuất hiện

cơn hen phế quản do gắng sức, do khói các loại (khói bếp than, thuốc lá,
xăng,…), không khí lạnh và các mùi mạnh khác. Tăng tính phản ứng phế
quản được chứng minh bằng thử nghiệm acetylcholin hoặc methacholin.
1.3.4.Tái cấu trúc đường thở
Từ ba hiện tượng viêm, co thắt và tăng tính phản ứng phế quản dần dần
làm thay đổi hình thái tổ chức giải phẫu bệnh trong lòng phế quản của trẻ em
bị bệnh hen phế quản:
- Thâm nhiễm tế bào viêm (dưỡng bào, tế bào lympho T, bạch cầu ái
toan và các tế bào khác) có vai trò quan trọng trong viêm.
- Phù nề biểu mô phế quản và làm dày lớp dưới màng đáy.
- Tăng số lượng tế bào tiết nhầy và phì đại các tuyến dưới niêm mạc.
- Phì đại và tăng sinh cơ trên phế quản.
- Giãn mạch.
- Nút nhầy phế quản.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng [26], [27].
1.4.1. Yếu tố chủ thể
Là những yếu tố quyết định một người dễ hay khó mắc bệnh hen.
Yếu tố di truyền: hen phế quản có tính chất di truyền. Nếu cả hai bố mẹ
đều bị hen, tỷ lệ hen ở con cái là 50%. Nếu chỉ có một người hen, tỷ lệ này
còn 30%, nếu không có ai bị hen thì tỷ lệ này là 10 - 15%. Nếu trong gia đình
có cơ địa dị ứng như viêm mũi dị ứng, viêm xoang, viêm da cơ địa,... thì trẻ
sinh ra trong gia đình đó có nguy cơ mắc hen cao hơn.
Với sự phát triển của sinh học phân tử, ngày nay người ta đã tìm được
nhiều gen tương tác lẫn nhau đóng vai trò nhất định nào đó trong sinh bệnh
học của hen. Nhóm nhiễm sắc thể số 11, 12, 13 chứa các gen nhạy cảm với


11

11


hen phế quản [8], [28], [29]. Các dữ kiện hiện nay cho thấy nhiều gen liên
quan đến sinh bệnh học của hen, có nhiều gen có mối liên quan tới chủng tộc
khác nhau. Các nghiên cứu về gen liên quan phát sinh hen được tập trung vào
4 nhóm chính là: sản xuất kháng thể IgE đặc hiệu, biểu hiện tăng phản ứng
của đường thở, sự hình thành các hoạt chất trung gian gây viêm (cytokine,
yếu tố tăng trưởng) và xác định tỷ số đáp ứng miễn dịch qua TH1 và TH.
Yếu tố cơ địa dị ứng: những trẻ có cơ địa dị ứng hoặc có các bệnh dị ứng
khác dễ bị hen hơn những trẻ không có cơ địa dị ứng hoặc bệnh dị ứng. Hen dị
ứng thường kết hợp với tiền sử bệnh dị ứng của trẻ hoặc gia đình như viêm mũi
dị ứng, chàm, mày đay. Những trường hợp này nồng độ IgE huyết thanh thường
tăng. Hen khởi phát sớm ở trẻ nhỏ thường có xu hướng hen dị ứng. Trường hợp
khởi phát chậm ở trẻ lớn thường là hen không dị ứng hoặc kết hợp [25].
Tăng phản ứng đường thở: tăng phản ứng đường thở là tình trạng phế
quản bị co thắt quá nhanh và mạnh khi đáp ứng với tác nhân kích thích. Gen
chi phối tăng phản ứng đường thở nằm trên nhiễm sắc thể 5q gần vị trí gen
điều chỉnh lượng IgE trong huyết thanh [30].
Tuổi: hen phế quản thường gặp trẻ trên 1 tuổi: 80 - 90% trẻ có biểu hiện
hen trước 5 tuổi. Tới 30% trẻ có triệu chứng lúc 1 tuổi. Hen phế quản có thể
giảm nhẹ hoặc khỏi ở tuổi dậy thì [29], [30].
Giới: trước tuổi dậy thì bé trai bị hen phế quản nhiều hơn bé gái, sau tuổi
dậy thì thì trai và gái ngang nhau [31], [32]. Còn chưa rõ vì sao có sự khác
biệt này, tuy nhiên có điều đáng chú ý là khi sinh ra kích thước phổi bé trai
nhỏ hơn bé gái, nhưng đến khi trưởng thành phổi nam lại có kích thước lớn
hơn nữ. Theo một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bị hen phế quản khác nhau
theo các lứa tuổi và cũng khác nhau theo nơi sinh sống của trẻ. Ở Braxin, tỷ lệ
hen phế quản ở trẻ trai là 7,3%, ở trẻ gái là 4,9% cho lứa tuổi 6-7 tuổi, thì tỷ lệ
hen là 9,8% ở trẻ trai và 10,2% ở trẻ gái cho lứa tuổi 13-14 tuổi.
Béo phì: có một số bằng chứng cho thấy có sự tương quan giữa chỉ số
khối cơ thể (BMI) với nguy cơ tăng phát sinh bệnh hen. Một vài hóa chất



12

12

trung gian như leptin tăng cao trong béo phì có ảnh hưởng đến chức năng
đường thở và làm tăng nguy cơ khởi phát bệnh [33], [34], [35], [36].
1.4.2. Yếu tố môi trường
Là những yếu tố làm bệnh hen khởi phát ở những người có cơ địa hen,
chúng có tác dụng thúc đẩy cơn hen cấp hoặc làm triệu chứng nặng lên và kéo dài.
Yếu tố môi trường bao gồm các yếu tố dị nguyên [30].
Dị nguyên trong nhà:
Bụi nhà: thành phần bụi nhà rất phức tạp, có xác côn trùng, nấm mốc,
các chất thải của người và động vật, hoa, cỏ, các hợp chất hữu cơ, vô cơ…
nhưng những con mạt bụi nhà có trong thành phần của bụi nhà mới là nguyên
nhân chính gây hen phế quản. Hiện nay người ta đã phát hiện ra 130 loài mạt
bụi nhà ở 27 họ khác nhau, nhưng chỉ có 12 loài liên quan đến người về mặt
sinh thái học. Trong các loài đó thì D. Pteronyssinus là loài phổ biến và thấy
nhiều ở nhà bệnh nhân hen phế quản, viêm mũi dị ứng [26], [27].
Lông súc vật: các loại lông súc vật như lông chó, mèo, gà, vịt,… đều có
khả năng gây hen, viêm mũi dị ứng. Trong các loại dị nguyên là lông súc vật
thì lông mèo có khả năng gây mẫn cảm đường hô hấp nhiều nhất. Dị nguyên
từ lông mèo có kích thước rất nhỏ chỉ khoảng 3-4 µm nên tồn tại rất lâu trong
không khí và dễ dàng lọt sâu trong phế nang của người bệnh mẫn cảm để gây
nên cơn khó thở. Hiện nay người ta cũng đã xác định được nhiều dị nguyên
của các loài gián gây hen phế quản. Phát hiện sự có mặt của chúng trong bụi
nhà bằng các kháng thể đơn dòng đặc hiệu.
Dị nguyên ngoài nhà: phấn hoa và bào tử nấm là hai dị nguyên ngoài
chính gây hen phế quản.

Khói thuốc lá: tác động của yếu tố khói thuốc lá bao gồm cả hút thuốc lá
chủ động và hút thuốc lá thụ động. Trong khói thuốc lá có nhiều chất gây hại
như Polycyclic hydrocarbon, Nicotine, Carbon monoxide, Carbon dioxide,


13

13

Nitric oxide, Nitrogen oxide…các chất này làm tăng phản ứng của phế quản,
gây viêm nhiễm, tăng xuất tiết phế quản. Khói thuốc lá làm cho chức năng
phổi của bệnh nhân hen mau bị suy giảm, làm tăng mức độ nặng của hen và
làm giảm đáp ứng với thuốc điều trị.
Ô nhiễm môi trường: không khí trong và ngoài nhà ở bị ô nhiễm các loại
khí thải sinh hoạt và công nghiệp như SO 2, CO, CO2, NO, NO2,…Sự ô nhiễm
này làm tăng co thắt phế quản, tăng tính phản ứng của phế quản và hậu quả là
gây cơn hen.
Nhiễm khuẩn đường hô hấp: các nhiễm khuẩn đường hô hấp có mối liên
quan chặt chẽ với hen phế quản. Những nhiễm khuẩn đường hô hấp do virus là
yếu tố thuận lợi khởi phát cơn hen ở trẻ em. Qua nghiên cứu người ta thấy các
virus hay gây bệnh đường hô hấp ở trẻ em là RSV, Rhinovirus, Adenovirus,
Influenza, Parainfluenza…trong đó RSV là loại virus hay gặp nhất. Các virus
đường hô hấp này có vai trò kích thích khởi phát cơn hen ở người bị hen [30],
[28],[24].
Thức ăn, dùng thuốc, các chất khác:
Phản ứng dị ứng với thức ăn có thể là yếu tố khởi phát cơn khó thở,
trong đó các loại thức ăn giàu đạm: tôm, cua, cá, ốc, trứng, sữa, nhộng tằm,
các loại hải sản, lạc,… là những dị nguyên chính gây phản ứng dị ứng.
Các kháng sinh, Piperazin, Methydopa, Cimetidine, Sulfathiazone,…
nhưng Aspirin và các thuốc chống viêm non-steroid là nguyên nhân hay gặp

nhất. Trong trường hợp hen do Aspirin hay gặp tam chứng: khó thở, mày đay,
polyp mũi.
Ngoài ra, các chất bảo quản, chất nhuộm màu thực phẩm cũng có thể gây
ra cơn hen như Sulfite dùng để bảo quản trái cây khô.


14

14

Thời tiết: ở nước ta thay đổi thời tiết có tác động trực tiếp đến sự khó thở
của trẻ bị hen phế quản. Nóng quá, lạnh quá, ẩm ướt quá hoặc khi chuyển
mùa nhất là khi có gió mùa Đông - Bắc, nguy cơ lên cơn khó thở là rất lớn.
Ngoài ra tình trạng kinh tế xã hội, gia đình cũng tác động lên hen phế
quản. Theo nghiên cứu thì tỷ lệ hen ở các nước phát triển, ở các gia đình có
điều kiện mắc cao hơn các nước kém phát triển, con nhà nghèo.
1.5. Triệu chứng và chẩn đoán hen phế quản ở trẻ dưới 5 tuổi
Chẩn đoán hen ở trẻ dưới 5 tuổi rất khó khăn do có rất nhiều bệnh ở thời
kỳ này có biểu hiện khò khè gần giống với hen. Chẩn đoán hen phế quản ở trẻ
dưới 5 tuổi chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng nghi ngờ hen, các yếu tố
nguy cơ của bệnh hen phế quản và sự đáp ứng với điều trị thử. Đồng thời phải
chú ý đến các chẩn đoán phân biệt.
1.5.1. Biểu hiện lâm sàng gợi ý hen ở trẻ dưới 5 tuổi
Theo GINA 2016, các biểu hiện lâm sàng gợi ý hen phế quản ở trẻ dưới
5 tuổi bao gồm ho, khò khè, khó thở, hạn chế vận động và tiền sử gia đình với
những đặc điểm như sau [37]:
Ho không có đờm tái phát và dai dẳng, có thể ho nhiều vào ban đêm,
thường đi kèm với khò khè và khó thở. Hoặc là ho liên quan đến gắng sức,
cười hoặc khóc. Ho sau khi tiếp xúc với khói thuốc lá. Ho ngoài đợt nhiễm
trùng hô hấp.

Khò khè tái phát, tăng về đêm, khởi phát liên quan đến gắng sức, cười,
khóc hoăc sau khi tiếp xúc với khói thuốc lá, không khí ô nhiễm.
Khó thở khi gắng sức, cười hoặc khóc.
Hạn chế vận động: trẻ không vận động, chơi, cười kém hơn so với trẻ
cùng trang lứa. Trẻ lười vận động, không muốn tự đi, muốn được bế.


15

15

Tiền sử gia đình có bố, mẹ hoặc anh chị em ruột mắc hen hoặc các bệnh
lý dị ứng khác (viêm da cơ địa, viêm mũi dị ứng).
Bảng 1.1. Đặc điểm gợi ý hen trẻ em dưới 5 tuổi
Tính chất

Ho

Khò khè
Trẻ khó hoặc thở
nặng hoặc hụt hơi
Giảm hoạt động

Bệnh sử hoặc tiền
sử gia đình
Điều trị thử với
Corticosteroid
dạng hít liều thấp
và SABA khi cần


Đặc điểm gợi ý hen
- Ho khan tái đi tái lại hoặc dai dẳng, có thể trở nặng
về đêm hoặc đi cùng với một ít khò khè và khó thở.
- Ho xảy ra với vận động, cười, khóc hoặc phơi nhiễm
khói thuốc lá mà không có nhiễm trùng hô hấp rõ ràng.
- Khò khè tái đi tái lại,bao gồm lúc ngủ hoặc với các
yếu tố kịch phát như hoạt động, cười, khóc hoặc phơi
nhiễm khói thuốc lá hoặc ô nhiễm không khí.
- Xảy ra với vận động, cười hoặc khóc
- Không thể chạy, chơi hoặc cười ở cùng mức độ với
trẻ em khác, mệt sớm hơn trong lúc đi bộ (muốn được
bồng).
- Có bệnh dị ứng khác (viêm da dị ứng hoặc viêm mũi
dị ứng).
- Hen ở bà con trực hệ.
- Cải thiện lâm sàng trong 2-3 tháng điều trịvới liều
thuốc kiểm soát và trở nặng khi ngưng điều trị.

Khò khè là âm thanh có âm sắc cao phát ra từ lồng ngực trong suốt thì thở
ra. Khò khè có thể xuất phát từ bất cứ vị trí nào của đường dẫn khí, do thông
khí chuyển dịch và phát ra âm thanh khi đi qua lỗ hẹp hoặc bị co thắt. Vì vậy,
khò khè là một trong những dấu hiệu của sự tắc nghẽn đường dẫn khí.


16

16

Trên thực tế lâm sàng, bố mẹ bệnh nhân thường hiểu “khò khè” bao gồm
cả âm thanh khác như khụt khịt, thở rên và ho. Do đó, triệu chứng khò khè

cần được thăm khám và khẳng định bởi bác sỹ chuyên khoa.
1.5.2. Các test hỗ trợ chẩn đoán hen ở trẻ dưới 5 tuổi
Thử nghiệm điều trị
Điều trị thử bằng SABA cắt cơn (nếu cần) và dự phòng bằng corticoid
dạng hít có thể hỗ trợ trong việc chẩn đoán hen với mức độ bằng chứng D.
Điều trị trong vòng 2 đến 3 tháng sau đó đánh giá lại mức độ kiểm soát các
triệu chứng (triệu chứng ban ngày và ban đêm), tần suất của những đợt cấp và
khò khè. Nếu trẻ đáp ứng với điều trị thử và các triệu chứng lại quay lại sau
khi ngừng điều trị thì khả năng mắc hen cao hơn. Do sự thay đổi diễn biến tự
nhiên của hen ở trẻ nhỏ, thử nghiệm điều trị đôi khi cần lặp đi lặp lại nhiều
lần để khẳng định chẩn đoán [37].
Xét nghiệm đánh giá atopy
Các xét nghiệm đánh giá cơ địa atopy bao gồm test lảy da hoặc IgE đặc
hiệu với các dị nguyên đường hô hấp. Phần lớn trẻ hen có cơ địa atopy. Tuy
nhiên trẻ không có cơ địa atopy cũng không loại trừ được hen phế quản [37].
Chụp X-quang phổi
Ở trẻ hen phế quản, X-quang phổi thường bình thường. Tuy nhiên Xquang phổi có thể giúp chẩn đoán phân biệt với các nguyên nhân khác như:
một số dị tật bẩm sinh, lao phổi…[37].
Thăm dò chức năng hô hấp
Trẻ dưới 5 tuổi thường chưa có khả năng thực hiện kỹ thuật đo đường
cong lưu lượng thể tích cũng như các kỹ thuật thăm dò chức năng hô hấp đòi
hỏi gắng sức khác.
Kỹ thuật đo sức cản đường thở bằng hệ thống dao động xung lực Impulse Oscillation System (IOS) là một kỹ thuật mới giúp đánh giá mức độ
tắc nghẽn đường thở. Đây là một kỹ thuật không xâm lấn, không đòi hỏi sự


17

17


gắng sức và có thể thực hiện dễ dàng ở trẻ nhỏ. Kỹ thuật này đã được chứng
minh là có hiệu quả trong việc hỗ trợ chẩn đoán hen ở trẻ nhỏ.
Không có xét nghiệm nào chẩn đoán chắc chắn hen ở trẻ em dưới 5 tuổi.
Bảng 1.2. Xét nghiêm cận lâm sàng
Xét nghiệm

Ý nghĩa
Không khuyến cáo thực hiện thường quy.
X-Quang ngực
Chỉ định trong những trường hợp hen nặng hay có dấu
hiệu lâm sàng gợi ý chẩn đoán khác.
Những thăm dò có thể thực hiện nếu có điều kiện
Xét nghiệm lẩy da Sử dụng để đánh giá tình trạng mẫn cảm với dị nguyên.Xét
hay định lượng IgE nghiệm dị ứng dương tính giúp khả năng chẩn đoán hen.Tuy
đặc hiệu
nhiên, xét nghiệm âm tính cũng không loại trừ được hen.
Hội chứng tắc nghẽn đường dẫn khí có đáp ứng với
Hô hấp ký hay đo lưu
nghiệm pháp giãn phế quản sau khi hít Salbutamol (FEV1.
lượng đỉnh (nếu trẻ có
PEFP tăng ít nhất 12% và 200ml) (trẻ dưới 5 tuổi thường
khả năng hợp tác)
không thể thực hiện được).
Dao động xung ký Đo kháng lực đường thở chuyên biệt, góp phần vào việc
(IOS)
đánh giá giới hạn luồng khí.
Đánh giá tình trạng viêm đường thở, không khuyên cáo
Đo FeNO
thực hiện thường quy. Thường đo được ở trẻ trên 6 tuổi.
Lưu ý: chức năng phổi bình thường không loại trừ được hen, đặc biệt

trong trường hợp hen gián đoạn hay nhẹ. Nghiệm pháp giãn phế quản cũng
không loaị trừ được hen.
1.5.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán
Theo Hội Nhi khoa Việt Nam và Hội Hô hấp Việt Nam, Tiêu chuẩn chẩn
đoán dựa vào 5 tiêu chuẩn sau đây:
1. Khò khè có thể ho tái đi tái lại.
2. Hội chứng tắc nghẽn đường thở: lâm sàng có ran rít, ran ngáy (có thể
có dao động xung ký).
3. Có đáp ứng thuốc giãn phế quản và/hoặc đáp ứng với điều trị thử (4-8
tuần) và xấu đi khi ngừng thuốc.


18

18

4. Có tiền sử bản thân/gia đình dị ứng có thể yếu tố khởi phát.
5. Đã loại trừ các nguyên nhân gây khò khè khác.
Bảng 1.3.Các yếu tố gợi ý khả năng hen
Yếu tố gợi ý hen
Có khò khè kèm 1 trong các triệu chứng:
Ho

Yếu tố ít gợi ý hen
Bất cứ dấu hiệu nào dưới
đây:

Các triệu chứng chỉ có khi
cảm lạnh.


Ho đơn thuần không kèm
Bất cứ dấu hiệu nào dưới đây:
khò khè, khó thở.
Triệu chứng tái phát thường xuyên
Nhiều lần nghe phổi bình
Nặng hơn về đêm và sáng sớm
thường mặc dù bệnh nhi có
Xảy ra khi gắng sức, cười, khóc hay tiếp xúc triệu chứng.
với khói thuốc lá, không khí lạnh, thú nuôi…
Có dấu hiệu/triệu chứng
Xảy ra khi không có bằng chứng nhiễm khuẩn gợi ý chẩn đoán khác.
hô hấp.
Không đáp ứng với điều trị
Có tiền sử dị ứng (viêm mũi dị ứng, chàm da) hen thử (thuốc giãn phế
Tiền sử gia đình (cha mẹ, anh chị em ruột) quản, các thuốcphòng ngừa
hen, dị ứng.
hen)
Có ran rít/ngáy khi khi nghe phổi
Đáp ứng với điều trị hen.
Khó thở

Lưu ý: triệu chứng khò khè phải được bác sỹ xác nhận do cha mẹ trẻ có
thể nhầm với bất kỳ tiếng thở bất thường nào khác.
1.5.4.Phân loại theo kiểu hình:
Theo triệu chứng:
-

Khò khè khởi phát do virus (khò khè gián đoạn): xảy ra thành từng đợt
riêng biệt, thường đi kèm với viêm đường hô hấp trên do virus và không
có triệu chứng giữa các đợt.


-

Khò khè khởi phát do vận động: khò khè xảy ra sau hoạt động thể lực
gắng sức, ngoài ra trẻ hoàn toàn khỏe mạnh.


19

19

-

Khò khè khởi phát do nhiều yếu tố: như thay đổi thời tiết, vận động,
nhiễm virus, dị nguyên, trẻ vẫn còn triệu chứng giữa các đợt khò khè,
thường ở trẻ có cơ địa dị ứng.

Theo thời gian:
-

Khò khè thoáng qua: triệu chứng bắt đầu và kết thúc trước 3 tuổi, tường
xảy ra ở trẻ có tiền sử đẻ non, nhẹ cân, gia đình có người hút thuốc lá,
nhiễm virus tái đi tái lại, không có cơ địa dị ứng.

-

Khò khè kéo dài: triệu chứng bắt đầu trước 3 tuổi và tiếp tục sau đó.

-


Khò khè khởi phát muộn: triệu chứng bắt đầu sau 3 tuổi.
Khò khè sớm thoáng qua
Cao

Khò khè không kèm
tạng dị ứng

Khò khè có liên quan IgE

Tần suất
khò khè

Thấp
Tuổi (năm)

Hình 1.1. Các kiểu hình khò khè ở trẻ em [38].
- Lưu ý: kiểu hình có thể thay đổi theo thời gian và theo điều trị. Phân
loại hen theo triệu chứng để giúp quyết định chọn lựa thuốc điều trị duy trì.
Phân loại hen theo thời gian giúp tiên đoán bệnh sau này.
Kiểu hình thay đổi theo thời gian và theo điều trị.
- Phân loại hen theo triệu chứng để giúp quyết định chọn lựa thuốc.
1.5.5. Chỉ số tiên đoán hen (API): một tiêu chuẩn chính hoặc hai tiêu
chuẩn phụ.


20

20

Cần tham khảo thêm chỉ số tiên đoán hen (Asthma Predictive Index:

API). API (+) khi có 1 tiêu chuẩn chính hay 2 tiêu chuẩn phụ. Một trẻ dưới 3
tuổi có từ 4 đợt khò khè/năm trở lên kèm với API(+) có nguy cơ hen thật sự ở
độ tuổi 6-13 cao hơn 4-10 lần trẻ có API(-).
+ Một tiêu chuẩn chính:
- Cha, mẹ bị hen
- Chàm da (được bác sỹ chẩn đoán).
- Dị ứng với dị nguyên (xác định bằng bệnh sử hay test dị ứng).
+ Hai tiêu chuẩn phụ:
-

Khò khè không liên quan đến cảm lạnh.

-

Bạch cầu ưa axit máu ngoại vi trên 4

-

Dị ứng thức ăn.
1.5.6. Yếu tố nguy cơ tiên lượng xấu của hen trẻ em dưới 5 tuổi:
Yếu tố nguy cơ lên cơn kịch phát trong vài tháng tới:
- Không kiểm soát được triệu chứng hen.
- Có ≥ 1 cơn hen nặng trong năm qua.
- Bắt đầu vào mùa thường lên cơn hen của trẻ.
- Tiếp xúc khói thuốc lá, không khí ô nhiễm trong nhà hoặc ngoài trời, dị
nguyên không khí trong nhà (mạt nhà, gián, thú nuôi, nấm mốc), đặc biệt đi
kèm với nhiễm Virus.
- Trẻ hoặc gia đình có vấn đề tâm lý hoặc kinh tế- xã hội.
- Tuân thủ điều trị duy trì kém hoặc kỹ thuật hít thuốc không đúng.
Yếu tố nguy cơ giới hạn luồng khí cố định:

- Nhập viện nhiều lần vì cơn hen nặng.
- Tiền sử bị viêm tiểu phế quản.
Yếu tố nguy cơ tác dụng phụ của thuốc:


21

21

- Toàn thân: dùng nhiều đợt Corticossteroid uống hoặc liều cao
Corticossteroid hít.
- Tại chỗ: dùng liều trung bình/cao Corticossteroid hít, kỹ thuật hít thuốc
không đúng, không bảo vệ da hoặc mắt khi dùng Corticossteroid phun khí
dung hoặc qua buồng đệm có mặt nạ.
1.5.7. Các chẩn đoán phân biệt với hen phế quản ở trẻ dưới 5 tuổi
Chẩn đoán hen phế quản ở trẻ dưới 5 tuổi là một công việc khó khăn tuy
nhiên nó lại rất quan trọng trong thực hành lâm sàng. Trước khi chẩn đoán xác
định là hen phế quản, chúng ta cần phân biệt với những nguyên nhân thường
gặp khác có thể gây ho, khò khè và khó thở (bảng 1.4) [37].
Bảng 1.4. Các chẩn đoán phân biệt của hen phế quản ở trẻ dưới 5 tuổi [38]
Tình trạng

Tính chất điển hình
Trẻ dưới 24 tháng, khò khè lần đầu, có triệu chứng

Viêm tiểu phế quản niễm virus hô hấp trên, đáp ứng kém với thuốc giãn
phế quản..
Tiếng thở khác thường xuất phát từ vùng mũi họng,
Viêm mũi xoang


khám mũi họng thấy xuất tiết ở vùng mũi sau, có kèm
theo mùi hôi, khám phổi hoàn toàn bình thường..
Xảy ra đột ngột, trẻ ho, thở rít, khó thở, tiền sử có hội

Dị vật đường thở

chứng xâm nhập, X-quang phổi có hình ảnh ứ khí

Các dị tật về giải

khư trú một bên phổi, soi phế quản gắp được dị vật.
Khò khè sớm trước 6 tháng tuổi, cần kết hợp lâm

phẫu (vòng mạch,

sàng và các xét nghiệm: nội soi khí phế quản,CT

hẹp khí quản bẩm

scan.

sinh…), bất thường
chức năng (rối
loạn vận động khí


22

22


Tình trạng
phế quản, rối loạn

Tính chất điển hình

chức năng dây
thanh âm…)
Chèn ép phế quản

Ho, khò khè, khó thở kéo dài, không đáp ứng với

do: u trung

thuốc giãn phế quản. Chẩn đoán dựa vào X-Quang

thất,hạch to,nang

phổi thẳng, nghiêng, CT scan ngực thấy hình ảnh

phế quản

khối u chèn ép đường thở.
Triệu chứng lâm sàng giống hen, nguyên nhân do ký

Thâm nhiễm phổi
tăng bạch cầu ái
toan
Trào ngược dạ dày

sinh trùng, giun đũa hoặc các nguyên nhân khác như

thuốc hoặc dị nguyên khác, tiến triển tốt và có thể tự
khỏi.
Có tiền sử nôn trớ hoặc nhiễm trùng hô hấp tái diễn,

thực quản hoặc hội cần đi pH thực quản, nội soi phế quản, chụp thực
chứng hít tái diễn,

quản cản quang để xác định chẩn đoán

dò khí thực quản
Nhiễm trùng đường hô hấp tái nhiễm, không đáp ứng
Suy giảm miễn dịch
bẩm sinh

với điều trị kháng sinh thông thường, nồng độ IgG
giảm hơn 2SD so với lứa tuổi, tiền sử gia đình có anh
chị em ruột bị mắc bệnh suy giảm miến dịch bẩm
sinh.


23

23

Lưu đồ 1. Tiếp cận chẩn đoán:
Trẻ có khò khè tái đi tái lại, hỏi bệnh sử,
lâm sàng có yếu tố gợi ý hen không ?
Không




Trẻ có thực hiện được hô
hấp ký hay dao động
xung ký không ?


Xem xét các chẩn
đoán phân biệt hen

Không

Điều trị thử,
xem xét làm
thêm xét
nghiệm dị
ứng

Khảo sát/ điều trị

Hô hấp ký hay
dao động xung ký
(DĐXK) đủ tiêu
chuẩn chẩn đoán
hen không ? (hội
chứng tắc nghẽn
có hồi phục

các bệnh khác

Đáp ứng

Không

Đáp ứng


Tiếp
tục
điều trị

Không

Đánh giá tuân
thủ điều trị
XN khác
chuyển
chuyên khoa

Điều trị như
hen

NX khác
chuyển
chuyên
khoa



Tiếp tục
điều trị


Lưu đồ 1.1. Tiếp cận chẩn đoán
+ Điều trị thử
- Cơn nhẹ: khí dung Salbutamol.
- Cơn trung bình-nặng: khí dung Salbutamol + Corticosteroid uống hoặc tiêm.
- Triệu chứng giống hen kéo dài ≥ 8 ngày/tháng hoặc cơn trung bìnhnặng cần Corticosteroid uống hoặc nhập viện: Corticosteroid hít liều trung
bình/montelukast.


24

24

1.5.8. Đánh giá mức độ nặng cơn hen
Bảng 1.5. Đánh giá mức độ nặng cơn hen [38]
Nhẹ
 Tỉnh
 Khó

thở

Trung bình
Nặng
Nguy kịch
 Tỉnh
 Kích thích, vật vã  Lơ mơ, hôn mê
khi  Khó thở rõ,  Khó thở liên tục,  Thở chậm, cơn

gắng sức, vẫn thích ngồi hơn phải nằm đầu cao
nằm được
nằm

 Nói được cả câu  Chỉ nói cụm từ  Nói từng từ
ngắn
 Thở

nhanh,  Thở nhanh, rút  Thở

không rút lõm lõm lồng ngực
lồng ngực
 SpO2 ≥ 95%
 SpO2 92- 95%

nhanh,

 Rì rào phế nang

giảm và không
nghe thấy.
rút  Rì rào phế nang

lõm lồng ngực rõ
 SpO2< 95%

ngừng thở

giảm/ không nghe
thấy
 Tím tái, SpO2<
92%

1.5.9. Đánh giá mức độ nặng bệnh hen

Bảng 1.6. Đánh giá mức độ nặng bệnh hen [38]
GIÁN
ĐOẠN
Triệu chứng ban
≤ 2 lần/
ngày
tuần
Thức giấc về đêm Không
Dùng thuốc cắt
cơn tác dụng
< 2 lần/
nhanh để cải
tuần
thiện triệu chứng
Ảnh hưởng đến
hoạt động hàng Không
ngày

DAI DẲNG
Vừa

Nhẹ
Nặng
≥ 2 lần/ tuần
nhưng không phải Hàng ngày
Cả ngày
hàng ngày
1-2 lần/ tháng
3-4 lần/tháng > 1 lần/ tuần
> 2 lần/ tuần

nhưng không phải
hàng ngày
Đôi khi

Hàng ngày

Vài lần mỗi
ngày

Ảnh hưởng
Ảnh hưởng
không thường
thường xuyên
xuyên

1.5.10. Phân loại hen theo mức độ kiểm soát
Bảng 1.7. Phân loại hen theo mức độ kiểm soát [38]


25

25

Triệu chứng lâm sàng

Đã được

Kiểm soát

Chưa được


trong 4 tuần vừa qua
Tiệu chứng ban ngày kéo dài

kiểm soát

một phần

kiểm soát

Có 1 hoặc 2

Có 3 hoặc 4

dấu hiệu

dấu hiệu

trên vài phút, trên 1 lần/tuần
Có □ Không □
Hạn chế vận động do hen
Có □ Không □
Nhu cầu dùng thuốc cắt cơn
điều trị cấp cứu trên 1
lần/tuần

Không có
dấu hiệu
nào


Có □ Không □
Thức giấc về đêm hoặc ho
về đêm do hen
Có □ Không □
1.6. Sức cản đường thở bằng hệ thống dao động xung lực ở trẻ hen phế quản
1.6.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu và áp dụng đo lực cản đường thở bằng hệ
thống dao động xung lực.
Kỹ thuật dao động chu kỳ áp lực mạnh -FOT (Forced oscilation
technique) được mô tả lần đầu tiên vào năm 1956 bởi Dubois AB và cộng sự
[39], tác giả sử dụng kỹ thuật này để đánh giá lực cản phổi và thành ngực ở
người trưởng thành. FOT sử dụng các bộ phát xung riêng lẻ vào trong phổi
của bệnh nhân ở các tần số (2Hz, 4Hz, 6Hz,…).
Vào những năm sau đó rất nhiều tác giả đã tiến hành nghiên cứu và áp
dụng kỹ thuật này một cách rộng rãi để xác định sự thay đổi lực cản đường
thở gây ra bởi nhiều bệnh lý khác nhau. Có thể kể tới một vài công trình
nghiên cứu nổi bật sau:


×