1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
----------
TRẦN THỊ THẢO
ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU PHANH MÔI TRÊN VÀ
ẢNH HƯỞNG PHANH MÔI TRÊN BÁM THẤP LÊN RĂNG,
CUNG RĂNG VÀ NHA CHU Ở NHÓM HỌC SINH 9 TUỔI
TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC LÊ LỢI, HÀ NỘI, NĂM 2017
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SĨ RĂNG HÀM MẶT
KHÓA 2011 - 2017
Người hướng dẫn khoa học:
TS. TRẦN THỊ MỸ HẠNH
ThS. PHÙNG THỊ THU HÀ
HÀ NỘI - 2017
1
2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành khóa luận này, em
đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ quý báu và tận tình của các thầy cô và các
bạn đồng khóa.
Em xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS. Trần Thị
Mỹ Hạnh, cô đã tận tình hướng dẫn, dìu dắt và chỉ bảo em trong quá trình học
tập và làm khóa luận.
Em xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Võ
Trương Như Ngọc, TS. Vũ Mạnh Tuấn, ThS. Nguyễn Hà Thu là những thầy,
cô đã tận tình hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu giúp em hoàn thành
khóa luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
- Ban giám hiệu, Viện đào tạo Răng Hàm Mặt, Trường đại học Y Hà Nội.
- Bộ môn Răng Trẻ Em.
- Trường Tiểu học Lê Lợi – Hà Đông.
Đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình
học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và
người thân đã luôn động viên, khuyến khích, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất
cho em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận.
Hà Nội, ngày 23 tháng 05 năm 2017
SV. Trần Thị Thảo
2
3
LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi:
Ban giám hiệu trường Đại học Y Hà Nội.
Viện đào tạo Răng Hàm Mặt.
Bộ môn Răng trẻ em trường Đại học Y Hà Nội.
Hội đồng chấm khóa luận tốt nghiệp.
−
−
−
−
Tôi xin cam đoan đề tài “Đặc điểm giải phẫu phanh môi trên và ảnh
hưởng phanh môi trên bám thấp lên răng, cung răng và nha chu ở nhóm học
sinh 9 tuổi tại trường tiểu học Lê Lợi, Hà Nội năm 2017” là đề tài do em tự
thực hiện.
Các số liệu trong bản khóa luận này là hoàn toàn trung thực, chưa được
công bố ở bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày 23 tháng 5 năm 2017
Ký tên
Trần Thị Thảo
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
3
4
OR
Odds ratio – Tỷ suất chênh
PMT
Phanh môi trên
TB
Trung bình
4
5
DANH MỤC BẢNG
5
6
DANH MỤC HÌNH
6
7
BIỂU ĐỒ
7
8
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu thẩm mỹ của
mọi người ngày càng cao việc chăm sóc sức khỏe răng miệng đồng thời cũng
được quan tâm nhiều hơn, nhất là ở trẻ đang độ tuổi thay răng sữa mọc răng
vĩnh viễn. Nhiều trẻ sở hữu bộ răng sữa khá đẹp nhưng khi thay răng vĩnh
viễn lại lệch lạc, khấp khểnh. Một trong những nguyên nhân gây sai lệch đó là
do phanh môi trên (PMT) bám sai vị trí, tạo khe thưa giữa răng cửa giữa, gây
mất thẩm mỹ, ảnh hưởng sự mọc răng và vấn đề nha chu của trẻ.
Phanh môi trên là một cấu trúc tuy nhỏ trong khoang miệng, nhưng lại
rất phong phú về hình thái, vì vậy nó nhận được nhiều sự quan tâm trong nha
khoa. Trên thế giới một số tác giả đã thực hiện nghiên cứu về vị trí bám, hình
thể của phanh môi trên với đối tượng nghiên cứu đa dạng về chủng tộc, lứa
tuổi… Điển hình như nghiên cứu của Placek năm 1974 ở người lớn [1]; nghiên
cứu của Janczuk & Bananch năm 1980 ở thanh thiếu niên [2]; nghiên cứu của
Boutsi EA và Tatakis DN năm 2011 của trẻ em ở một số quốc gia châu Âu. Ở
nghiên cứu của 2 tác giả Boutsi EA và Tatakis cho thấy tỉ lệ các dạng phanh
môi hàm trên theo vị trí bám như sau: 10,2% bám dính niêm mạc, 41,6% bám
vào lợi dính, 22,1% bám vào nhú lợi và 26,1% bám dính quá nhú [3].
Phanh môi trên bám sai vị trí, không chỉ cản trở sự mọc sát khít của hai
răng cửa giữa, hình thành khe thưa, dễ dàng nhận thấy khi trẻ bắt đầu mọc
răng vĩnh viễn, mà đồng thời còn làm cho việc vệ sinh răng miệng khó khăn
hơn, gây nên tình trạng viêm lợi, tụt lợi [4]. Ở trẻ, sau 7 tuổi là có thể đánh giá
hoàn chỉnh về hình thái phanh môi trên. Để đánh giá về vị trí và ảnh hưởng
của phanh môi với khe thưa răng cửa thường từ sau 9 tuối, lúc răng nanh bắt
đầu mọc xuống. Răng cửa giữa và răng cửa bên khi mọc, chân răng có xu
8
9
hướng phân kì, vào thời điểm răng nanh mọc xuống, sẽ ép chân răng của 2
răng cửa về song song [5]. Từ đó mới đánh giá được chính xác tình trạng của
khe thưa có phải từ nguyên nhân ở phanh môi không. Cho đến nay, các nghiên
cứu về sự đa dạng của vị trí bám và hình thể phanh môi trên ở lứa tuổi 9-11 ở
Việt Nam còn chưa nhiều.
Từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Đặc điểm giải phẫu
phanh môi trên và ảnh hưởng phanh môi trên bám thấp lên răng, cung răng
và nha chu ở nhóm học sinh 9 tuổi tại trường tiểu học Lê Lợi, Hà Nội năm
2017”, với 2 mục tiêu:
1.
Mô tả đặc điểm giải phẫu của phanh môi trên ở nhóm học sinh 9
tuổi tại trường tiểu học Lê Lợi, Hà Nội năm 2017.
2.
Mô tả ảnh hưởng của phanh môi trên bám thấp lên răng, cung
răng và nha chu ở nhóm đối tượng nghiên cứu trên.
9
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Đại cương về phanh môi trên
1.1.1. Giải phẫu phanh môi trên
PMT là một nếp gấp niêm mạc có hình lăng trụ tam giác [6], xuất phát
từ bề mặt phía trong của môi, tạo ra một vách ngăn biểu mô nhẵn, hẹp ngăn tiền
đình thành hai nửa đối xứng nhau qua đường giữa theo chiều dọc một cách
không hoàn toàn. Nó tiến ra sau và dính vào sườn trước xương của răng, hai bên
phanh láng bóng liên tục với niêm mạc tiền đình [7].
1.1.2. Mô học phanh môi trên
Henry và cộng sự (1976) đã chỉ ra phanh môi cấu tạo từ 4 dạng mô cơ
bản ở người: biểu mô, mô liên kết, thần kinh, mô cơ [6].
Cấu trúc mô học của phanh môi rất hay thay đổi phụ thuộc vào vị trí bám
của phanh môi. Biểu mô của phanh môi có thể từ biểu mô lát tầng không sừng hóa
đến bán sừng hóa ở vị trí bám dính với niêm mạc xương ổ răng, hay từ biểu mô lát
tầng sừng hóa đến bán sừng hóa ở vị trí bám dính với lợi của nó [8].
Mô liên kết của phanh môi chứa các sợi collagen không bình thường,
dày đặc, sắp xếp lỏng lẻo, đặc biệt ở vị trí niêm mạc xương ổ răng. Các sợi
chun tập trung nhiều ở phía niêm mạc xương ổ răng hơn phía lợi. Mô mỡ
được tìm thấy ở phanh môi phía niêm mạc xương ổ răng, nhưng không xuất
hiện về phía lợi [9]. Thành phần tế bào của mô liên kết gồm: tế bào sợi, đại
thực bào, tế bào lympho [8].
Phanh môi có sợi thần kinh có myelin kích thước từ nhỏ đến trung
bình, và mạng mạch máu nhỏ [8].
Về cấu trúc sợi cơ của phanh môi còn đang gây nhiều tranh cãi. Knox
và Young (1962) cho rằng cấu tạo của phanh môi gồm cả sợi ngang và sợi
chéo. Nhưng Henry, Levis và Tsakinis khẳng định không có sợi cơ trong
10
11
phanh môi [6]. Tuy nhiên, Gatner và Schein lại chứng minh cấu tạo của phanh
môi có sợi cơ, sắp xếp dọc theo chiều dài, không xuất hiện theo hướng bên,
cũng như không mở rộng tới lớp nhú của mô liên kết [8].
1.1.3. Phôi thai học và sự phát triển phanh môi trên
PMT bắt đầu hình thành từ tuần thứ 10 của thai kỳ, từ nụ trán-mũi.
Trong những tháng đầu của thời kỳ phôi thai, nó xuất hiện như một phần của
khoang miệng, cùng với môi và má [10] [11].
Khi nụ trán - mũi phát triển, ở giữa mặt trong của môi trên xuất hiện
một củ nhô lên. Cùng thời điểm đó, một nhú nổi lên ở phần phía trước của
vòm miệng và phát triển thành nhú vòm miệng. Một dải mô liên tục nối củ
phía ngoài và nhú vòm miệng phía trong gọi là tiền phanh môi [11].
Tháng thứ 3 trong tử cung, tiền phanh môi có hình dạng tương tự với
phanh môi bất thường lúc sinh, đó là một dải liên tục từ củ phía trong của môi,
bắt ngang qua sống hàm, dính tới nhú vòm miệng [10].
Xương ổ răng phát triển làm gián đoạn dải mô liên tục. Trước khi sinh,
hai nửa sống hàm hợp nhất và dải mô đóng lại hoàn toàn bởi xương, chia nó
thành hai phần: phần vòm miệng và phần môi bởi sự đóng này. Phần vòm
miệng tương ứng với nhú lợi vòm miệng, và phần môi trở thành PMT, kéo từ
môi đến mào xương ổ răng [11].
Theo thời gian PMT lùi dần về phía môi của xương ổ răng. Sự di chuyển
này liên quan tới sự mọc răng sữa, sự phát triển tăng chiều cao của xương ổ,
trong khi chỗ bám dính của PMT vẫn giữ nguyên vị trí [10].
1.1.4. Chức năng của phanh môi trên
Chức năng của phanh môi là giữ môi hòa hợp với sự phát triển của
xương trong suốt quá trình phát triển trong bào thai và đảm bảo sự ổn định
của môi trên [11] [13].
1.1.5. Phân loại phanh môi
Có 2 cách phân loại:
11
12
1.1.5.1. Phân loại theo hình thể phanh môi
* Phân loại theo Sewerin (1971) [14] chia 8 loại
1. Phanh môi đơn giản
2. Phanh môi hình vòm liên tục
3. Phanh môi có mẩu thừa
4. Phanh môi có nốt
5. Phanh môi đôi
6. Phanh môi có chỗ lõm vào
7. Phanh môi chẻ đôi
8. Kết hợp của 2 hoặc nhiều hơn các loại phía trên
Phanh môi đơn giản
Phanh môi có nốt
Phanh môi hình vòm
Phanh môi đôi
Phanh môi có mẩu thừa
Phanh môi có chỗ lõm
Phanh môi chẻ đôi
Hình 1.1: Phân loại phanh môi theo Sewerin (1971) [14]
12
13
* Phân loại theo Monti [15]: chia 3 loại
1. Phanh môi có đường viền bên phải và bên trái trải dài, song song
nhau. (Hình 1.2.1).
2. Phanh môi dạng tam giác có đáy trùng với ngách tiền đình. (Hình 1.2.2)
3. Phanh môi dạng tam giác có đáy ở vị trí thấp nhất. (Hình 1.2.3)
1.2.1
1.2.2
1.2.3
Hình 1.2: Phân loại phanh môi theo Monti [15]
1.1.5.2. Phân loại theo vị trí bám phanh môi
* Phân loại theo Dewel (1946) [16]: chia 2 loại
+ Phanh môi bám vào nhú liên kẽ răng.
+ Phanh môi không bám vào nhú liên kẽ răng.
* Phân loại theo Mirko P. và cộng sự (1974) [1]: chia 4 loại
+ Bám ở niêm mạc (Độ I): phanh môi bám gần tới hoặc tại ranh giới
niêm mạc miệng-lợi, và không có dấu hiệu của đi qua phần lợi dính, tức là
không thấy mô sừng hóa bị nâng lên khi kéo phanh môi.
+ Bám ở lợi dính (Độ II): phanh môi bám ở lợi dính và không mở rộng
tới ranh giới đáy của nhú lợi. Đường ranh giới đáy của nhú lợi được giới hạn
bởi đường nối điểm giữa viền lợi của hai răng cửa giữa.
+ Bám ở nhú lợi (Độ III): phanh môi bám tới đường ranh giới đáy của
nhú lợi, mà không có dấu hiệu của sự mở rộng phanh môi tới phía vòm miệng
13
14
hoặc sự tái nhợt bất cứ đâu trên nhú lợi phía vòm miệng hoặc trên đỉnh nhú
lợi, thậm chí khi kéo căng phanh môi.
+ Bám quá nhú (Độ IV): phanh môi bám tới đường ranh giới đáy của
nhú lợi kết hợp với: dấu hiệu của sự mở rộng, sự ảnh hưởng của phanh môi
tới phía vòm miệng hoặc tái nhợt bất cứ đâu trên nhú lợi phía vòm miệng
hoặc trên đỉnh nhú lợi khi kéo căng phanh môi.
Hình 1.3: Phân loại phanh môi trên theo Mirko P. và cộng sự (1974) [1]
1.2. Ảnh hưởng của phanh môi trên bám thấp lên răng, cung răng
và tình trạng nha chu
Bình thường PMT bám vào vị trí ranh giới niêm mạc miệng-lợi cách
đường viền lợi vài mm. Khi phanh môi bám sai vị trí ở lợi dính, nhú lợi, quá
nhú gây ra tình trạng mất nhú lợi, tụt lợi, khe thưa, lệch lạc răng, khó khăn
trong vệ sinh răng miệng và trong phục hình hàm giả, cũng có thể gây sang
chấn tâm lý [13].
14
15
Không chỉ vậy, phanh môi bất thường có thể dẫn đến nhiều vấn đề như hạn
chế vận động, tạo đường cười cao, ảnh hưởng chức năng của môi [17]. Ngoài ra,
nó còn có thể gây chậm liền thương khi bị chấn thương [18].
1.2.1. Khe thưa đường giữa
Khe thưa nằm giữa 2 răng cửa giữa trên thường xuyên gặp trên bộ răng
hỗn hợp, nhưng khe thưa giữa rộng hơn 2 mm hiếm khi có thể tự động đóng
lại được, tình trạng đó được coi là bất thường [14].
Sự xuất hiện của khe thưa răng cửa giữa là đặc điểm bình thường trong
quá trình phát triển giai đoạn răng hỗn hợp, hay còn gọi là giai đoạn “vịt con
xấu xí”, dù đang có một phanh môi bất thường. Răng cửa giữa hàm trên có
thể mọc ra với khe thưa, nhưng nó thường tự động giảm khi mọc răng cửa bên
và biến mất hoàn toàn khi răng nanh vĩnh viễn mọc [19].
Năm 1907, Angel đề cập phanh môi là một nguyên nhân gây khe thưa và
sự giả định rằng phanh môi quá phát là nguyên nhân duy nhất gây ra khe thưa
đường giữa, đã tạo ra sự tán thành về giải pháp là cắt phanh môi ở những bệnh
nhân có khe thưa đường giữa. Nhưng giữa những năm 90, phanh môi bất thường
được xem như là một yếu tố ảnh hưởng hơn là nguyên nhân [10].
Có rất nhiều nghiên cứu về liên quan giữa phanh môi và khe thưa đường
giữa trên thế giới. Các kết quả đưa ra phanh môi tạo ra lực chống lại đường giữa là
một yếu tố ảnh hưởng, không phải là một yếu tố quan trọng gây ra khe thưa
đường giữa [10]. Đây là xu hướng được tán thành nhiều nhất trên thế giới hiện
nay.
1.2.2. Tình trạng co lợi, mảng bám và viêm lợi
Có nhiều ý kiến khác nhau về mối liên quan giữa phanh môi và tình
trạng co lợi, mảng bám, viêm lợi ở vùng răng cửa.
15
16
Sự co lợi được nhận diện bởi sự bộc lộ của chân răng khi đường viền lợi
dịch chuyển về phía chóp răng qua đường ranh giới cement-men (CEJ). Năm
1939, Hirschfied đã nhận ra mối liên quan giữa vị trí bám dính của phanh môi
và bệnh nha chu [14]. Khi sự bám dính của phanh môi rõ rệt và bộc lộ rõ
điểm bám dính dạng mào gần với viền lợi của răng cửa, nó có thể gây co nhú
lợi và viền lợi [20]. Do trong quá trình chuyển động, phanh môi bị kéo căng
gây tình trạng thiếu máu cục bộ mô xung quanh, và lực kéo có thể làm bong
viền lợi. Hơn nữa, sự tích tụ của mảng bám có thể tăng lên do túi nha chu bị
kéo và mở ra, cho phép mảnh vụn thức ăn xâm nhập vào, gây khó khăn trong
vệ sinh răng miệng để giảm làm giảm mảng bám [14]. Vì vậy, phanh môi bất
thường ảnh hưởng tới sự duy trì mảng bám và mức độ viêm lợi. Nghiên cứu
mô học của Ezedin & Ronald (1984) cho thấy kết quả hầu hết phần phanh
môi quá phát bám dính ở phía lợi có hiện tượng viêm, trong khi đó tỉ lệ này ở
phía niêm mạc xương ổ răng lại rất ít [9].
Ngược lại, Addy và cộng sự (1987) báo cáo các chỉ số mảng bám và
chảy máu của răng cửa hàm trên giảm khi phanh môi bám gần viền lợi. Do
đó, họ ủng hộ quan điểm vị trí bám của phanh môi không liên quan đến sự
tích tụ mảng bám và viêm lợi [22].
1.3. Các nghiên cứu trong và ngoài nước về phanh môi
1.3.1. Các nghiên cứu về đặc điểm giải phẫu phanh môi
* Về vị trí bám của phanh môi
- Trên thế giới:
Năm 2009, D.N Tatakis kết hợp với trung tâm sức khỏe Lavrion Athen,
Hy Lạp tiến hành nghiên cứu về vị trí bám của PMT ở trẻ em. Nghiên cứu
trên 94 trẻ (50 nam, 44 nữ) tuổi 1-18, độ tuổi trung bình 8,6 ± 3,3. Tất cả đều
là người da trắng, trong đó người Hy Lạp phổ biến nhất (47%), đến Thổ Nhỹ
Kỳ (24%), Afghanishtan (13%) cũng khá cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
16
17
phanh môi bám dính phổ biến nhất ở lợi dính 47%, sau đó bám ở nhú lợi
24%, bám quá nhú 18% và ít nhất là bám niêm mạc 10%. Sự liên quan giữa
giới và sự bám dính của phanh môi có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), nam có
phanh môi bám ở lợi nhiều gấp đôi nữ và nữ có phanh môi bám niêm mạc
nhiều gấp đôi nam. Sự bám dính của phanh môi khác nhau tùy thuộc tuổi có ý
nghĩa thống kê (p ≤ 0,01). Kết quả nghiên cứu nhận định: ở trẻ em, vị trí bám
PMT khác nhau giữa giới và tuổi khác nhau [23].
Năm 2011, Boutsi và Tatakis đã thực hiện nghiên cứu về “Vị trí bám của
phanh môi trên ở trẻ em” trên 226 trẻ em tuổi 1-18, đến khám phòng khám
cộng đồng tại Lavrion, Hy Lạp. Tuổi trung bình là 8,5 ± 3, trong đó có 51% là
gốc Hy Lạp, 20% An Ba Ni, 12% Thổ Nhĩ Kỳ, 11% Afganishtan. Nghiên cứu
cho kết quả: tỷ lệ các vị trí bám của phanh môi như sau: bám ở niêm mạc
chiếm 10,2%, bám ở lợi chiếm 41,6%, bám ở nhú lợi chiếm 22,1%, bám ở quá
nhú chiếm 26,1%. Họ kết luận: chủng tộc và giới tính không ảnh hưởng (p ≥
0,2), nhưng tuổi lại ảnh hưởng mạnh mẽ tới vị trí bám của PMT (p= 0,001) (trẻ
có phanh môi bám ở niêm mạc và ở lợi có độ tuổi lớn hơn so với trẻ có phanh
môi bám tới nhú và quá nhú) [3].
Năm 2012, Sumita Upadhayay và Neeta Ghimire đã nghiên cứu “Vị trí
bám của phanh môi trên ở trẻ em Nepal”, ở 198 trẻ em với 101 nam (51%) và
97 nữ (49%), tuổi từ 1-14, độ tuổi trung bình 8,6 ± 3,6, khám định kì tại khoa
Nha bệnh viện Dhulikhel. Đối tượng nghiên cứu chia thành 2 nhóm: 1-7 tuổi,
8-14 tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy: phanh môi bám phổ biến nhất ở lợi
(61,1%), sau đó bám ở nhú lợi (17,2%), ở niêm mạc (13,6%), và ít nhất là
bám quá nhú (8,1%). Họ nhận định rằng: Sự khác nhau về vị trí bám của
phanh môi ở 2 giới không có ý nghĩa (p = 0,76). Sự xuất hiện phanh môi bám
ở niêm mạc, bám ở lợi dính cao hơn ở nhóm tuổi lớn hơn và sự xuất hiện
phanh môi bám ở nhú lợi, bám quá nhú lợi cao hơn ở nhóm nhỏ tuổi hơn là có
17
18
ý nghĩa thống kê (p < 0,05) và kết luận vị trí bám của phanh môi thay đổi theo
tuổi [24].
Năm 2014, Cho Nayoung đã nghiên cứu “PMT và ảnh hưởng của phanh
môi đến bộ răng trẻ tại Hàn Quốc” trên 320 trẻ tuổi 2-12 tại Hàn Quốc.
Nghiên cứu cho kết quả tỷ lệ các vị trí bám của phanh môi như sau: bám ở
niêm mạc miệng chiếm 18,1%; bám ở lợi dính chiếm 56,3%; bám tới nhú lợi
chiếm 20,6%; bám quá nhú lợi chiếm 3,3% [25].
Năm 2016, Yuri Castro tiến hành nghiên cứu vị trí bám của PMT ở 95
đối tượng tuổi 18-60 tại Peru. Nghiên cứu cho kết quả tỷ lệ vị trí bám phanh
môi như sau: bám niêm mạc chiếm tỷ lệ cao nhất 54,6%; bám lợi dính chiếm
42,3%; bám nhú lợi chiếm 3,1%; không có trường hợp nào bám quá nhú [26].
- Tại Việt Nam:
Năm 2013, Vũ Duy Tùng thực hiện nghiên cứu “Khảo sát hình thái lâm
sàng và ảnh hưởng của phanh môi hàm trên tới nhóm răng cửa trên học sinh
lớp 3, 4, 5 tại trường tiểu học Phúc Tiến, Phú Xuyên, Hà Nội” trên 196 đối
tượng 8-10 tuổi. Kết quả nghiên cứu như sau: tỷ lệ phanh môi bám niêm mạc
chủ yếu 51,1%; bám lợi dính chiếm 31,7%; bám nhú lợi 13,3%; bám quá nhú
chiếm tỉ lệ thấp nhất 2,6%. Có sự khác biệt về tỷ lệ vị trí bám phanh môi hàm
trên giữa lứa 10 tuổi và hai lứa còn lại (78,9%), vị trí bám niêm mạc so với
35,9% và 36,1%) nhưng về tỷ lệ giữa hai loại vị trí bám bình thường và bám
thấp thì không có sự khác biệt giữa các lứa tuổi (18,8% bám thấp ở lứa 9 tuổi;
12,7% ở lứa 10 tuổi và 16,4% ở lứa 11 tuổi). Sự khác biệt vị trí bám phanh môi
với giới không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) [27].
Năm 2014, Võ Trương Như Ngọc “Vị trí bám PMT ở học sinh trường
dân tộc nội trú xã Thái An, Quản Bạ, Hà Giang năm 2014”. Nghiên cứu trên
277 trẻ từ 1-12 tuổi có tỉ lệ vị trí bám của PMT như sau: bám niêm mạc là
18
19
66,8%; bám lợi dính là 26,7%; bám nhú lợi là 6,5%; không có trường hợp nào
bám quá nhú [28].
* Về hình thể phanh môi trên
Năm 2014, Ranjana Mohan nghiên cứu “Đề xuất phân loại hình thái
phanh môi trên”, thực hiện trên 2400 đối tượng (1414 nam, 986 nữ), độ tuổi
18-76, độ tuổi trung bình 38,62 ± 12,53. Kết quả nghiên cứu có tỷ lệ phanh
môi đơn giản chủ yếu 66,2%; tiếp theo phanh môi có nốt 19,9%; phanh môi
có mẩu thừa 6,4%; phanh môi hình vòm 5,2%; các loại phanh môi khác như
phanh môi chẻ đôi, phanh môi đôi, phanh môi có chỗ lõm và phanh môi kết
hợp hai loại trên hiếm gặp, tỷ lệ thấp hơn 1%. Sự khác biệt về hình thể giữa
nam và nữ không có ý nghĩa thống kê [29].
Năm 2017, Nilima Thosar nghiên cứu “Đánh giá hình thái phanh môi
trên ở bộ răng sữa, hỗn hợp và vĩnh viễn ở huyện Wardha” thực hiện trên
1000 trẻ em lứa tuổi 3-14 có kết quả: tỷ lệ phanh môi đơn giản chiếm chủ yếu
88,3%; tiếp theo là phanh môi có nốt 4,7%; phanh môi có mẩu thừa 2,1%;
phanh môi kết hợp và phanh môi chẻ đôi có tỷ lệ bằng nhau 0,7%; phanh
môi đôi và phanh môi có mẩu thừa có tỷ lệ ngang nhau 0,6%; thấp nhất là
phanh môi có chỗ lõm 0,1%. Tỷ lệ phanh môi đợn giản tăng dần ở bộ răng
sữa (85,7%), đến bộ răng hỗn hợp (89,4%) và cao nhất là bộ răng vĩnh
viễn (91%). Tỷ lệ phanh môi hình vòm giảm dần từ bộ răng sữa (6,4%) và
thấp nhất là bộ răng vĩnh viễn (1,9%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05) [30].
- Tại Việt Nam:
Năm 2014, Trần Hương Lam: “Nhận xét vị trí bám và hình thể phanh môi
trên ở một nhóm học sinh 8-10 tuổi tại trường tiểu học Trung Tự, Đống Đa, Hà
Nội”. Nghiên cứu của tác giả thực hiện trên 241 học sinh cho kết quả tỷ lệ về
19
20
hình thể phanh môi như sau: phanh môi đơn giản chiếm chủ yếu là 72,6%; tiếp
theo phanh môi có nốt là 14,5%; phanh môi có mẩu thừa là 6,2%; phanh môi
có hình vòm liên tục là 2,9%; phanh môi có chỗ lõm là 2,5%; phanh môi chẻ
đôi là 0,8%. Không có trường hợp nào xuất hiện kết hợp các dạng phanh môi.
Sự khác biệt về giới tính không ảnh hưởng tới hình thể PMT [31].
1.3.2. Về ảnh hưởng của phanh môi bám thấp lên răng và cung
răng và tình trạng nha chu
* Trên thế giới:
Năm 2016, Yuri Castro thực hiện nghiên cứu “mối liên hệ giữa phanh
môi trên với nha chu tại Peru” tiến hành trên 95 đối tượng từ 18-60 tuổi, độ
tuổi trung bình 28,6 ± 6. Yuri Castro báo cáo không có mối liên hệ giữa phanh
môi bám thấp với tình trạng co kéo lợi và viêm lợi [26].
* Tại Việt Nam:
Năm 2013, Vũ Duy Tùng nghiên cứu “khảo sát hình thái lâm sàng và
ảnh hưởng của phanh môi hàm trên tới nhóm răng cửa trên học sinh lớp 3, 4,
5 tại trường tiểu học Phúc Tiến, Phú Xuyên, Hà Nội” thực hiện trên 196 đối
tượng từ 8-10 tuổi. Nghiên cứu cho kết quả vị trí bám phanh môi không ảnh
hưởng đến độ cắn chùm, cắn chèo, cắn chìa của vùng răng cửa giữa cũng như
sự co kéo gây tụt lợi. Phanh môi bám thấp là yếu tố ảnh hưởng đến hình thái
mọc răng cửa giữa hàm trên và gây khe thưa răng cửa [27].
20
21
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là nhóm học sinh 9 tuổi, thuộc trường Tiểu học Lê
Lợi, Hà Đông, Hà Nội.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
− Có bố, mẹ là người Việt Nam.
− Chưa có can thiệp tạo hình phanh môi trước đó.
− Chưa từng điều trị chỉnh nha.
− Không có tiền sử chấn thương môi, phanh môi.
− Không có dị tật bẩm sinh vùng hàm mặt.
− Tình trạng sức khỏe bình thường.
− Tình nguyện hợp tác, gia đình hợp tác.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
− Học sinh không đáp ứng được tiêu chuẩn lựa chọn trên.
− Học sinh vắng mặt tại thời điểm nghiên cứu.
2.2. Thời gian địa điểm nghiên cứu
− Thời gian nghiên cứu: từ tháng 10/2016 đến tháng 5/2017
− Địa điểm nghiên cứu: trường Tiểu học Lê Lợi, Hà Đông, Hà Nội; Viện
Đào tạo Răng Hàm Mặt- Đại học Y Hà Nội.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.3.2. Cỡ mẫu
Dùng công thức tính cỡ mẫu cho một tỉ lệ:
N=
Trong đó:
− N: cỡ mẫu nghiên cứu
− : hệ số tin cậy, với α = 0,05 => Z1- α/2= 1,96
− p: tỷ lệ trẻ em có PMT bám thấp trong quần thể
p = 1 – tỉ lệ trẻ em có PMT bám niêm mạc
Chọn p = 0,489 (Theo Vũ Duy Tùng) [27].
− d: độ chính xác tuyệt đối mong muốn; chọn d = 0,05.
21
22
Thay vào công thức được N = 384. Lấy thêm 10% dự phòng được cỡ
mẫu nghiên cứu là 425 học sinh.
2.3.3. Cách chọn mẫu
Bước 1:
− Thu thập danh sách học sinh trường Tiểu học Lê Lợi ở nhóm 9 tuổi.
− Phát phiếu điều tra (phụ lục 1) cho phụ huynh học sinh điều tra sàng lọc.
− Lựa chọn các đối tượng đủ điều kiện để tham gia nghiên cứu.
Bước 2: Thua thập được 480 học sinh đủ điều kiện để chọn đối tượng.
Bước 3: Lập danh sách chọn ngẫu nhiên đủ 425 học sinh.
2.3.4. Các biến số và chỉ số nghiên cứu
Bảng 2.1. Các biến số và chỉ số nghiên cứu
Biến số
Định nghĩa biến
Phương
pháp/công cụ
thu thập số liệu
1. Mô tả đặc điểm giải phẫu của phanh môi trên ở nhóm học sinh 9 tuổi
tại trường tiểu học Lê Lợi, Hà Nội năm 2017
Đặc
điểm đối
tượng
nghiên
cứu
Đặc
điểm giải
phẫu
PMT
Giới
Tuổi
Vị trí bám
PMT
Hình thể
PMT
22
Định lượng
Tuổi tính theo năm sinh dương lịch
Định tính
- Nam
- Nữ
Định tính. Chia 4 loại:
- Bám niêm mạc
- Bám lợi dính
- Bám tới nhú lợi
- Bám quá nhú
Định tính. Chia 8 loại:
- Phanh môi đơn giản
- Phanh môi có nốt
- Phanh môi có mẩu thừa
- Phanh môi hình vòm
- Phanh môi đôi
- Phanh môi chẻ đôi
- Phanh môi có chỗ lõm
- Phanh môi kết hợp các
Phỏng vấn/Bộ
câu hỏi
Phỏng vấn/Bộ
câu hỏi
Khám/chất chỉ
thị
Khám
23
Chiều cao
PMT
dạng
Định lượng
Đo bằng mm
Khám/Thước
đo điện tử
2. Mô tả ảnh hưởng của phanh môi trên bám thấp lên răng,cung răng và
nha chu ở nhóm đối tượng nghiên cứu trên
Định lượng
Số lượng răng cửa vĩnh viễn đã mọc
Khám
- Chưa mọc răng
- 1 răng
Đặc
- 2 răng
điểm 2
Định tính
răng
- Mọc thẳng
cửa
Kiểu mọc 2
- Lệch ngoài
giữa
răng cửa
Khám
- Lệch trong
hàm
hàm trên
- Nghiêng gần
trên
- Nghiêng xa
Khoảng
Định lượng
Khám/Thước
cách 2 răng
đo điện tử
Đo bằng mm
R11 và R21
Định lượng
Khám/ Sonde
Độ cắn
nha chu
chùm
Đo bằng mm
Khớp
Định lượng
Khám /Sonde
cắn
Độ cắn chìa
nha chu
vùng
Đo bằng mm
răng
Định tính
cửa
Độ cắn chéo - Có
Khám
- Không
Định tính
Phanh co kéo
Khám
- Có
gây tụt lợi
Tình
- Không
trạng
Tình trạng Định tính
lợi
lợi viêm tại - Có
Khám
chỗ
- Không
2.3.5. Phương pháp thu thập thông tin
− Thiết kế phiếu hỏi và phiếu khám lâm sàng.
− Tổ chức khám lâm sàng đánh giá hình thể, vị trí bám, chiều cao của
PMT, và ảnh hưởng của PMT bám thấp lên khớp cắn, kiểu mọc răng,
tình trạng nha chu của hai răng của giữa hàm trên.
Số lượng
răng cửa
giữa hàm
trên
23
24
2.3.6. Phương pháp khám lâm sàng
* Dụng cụ:
− Khay khám, gắp nha khoa, gương nha khoa
− Dung dịch Lugol’s Iodine 3%
− Thước kẹp
− Sonde nha chu
− Dụng cụ khác: găng tay, bông, cốc súc miệng, cồn, khăn giấy, dung
dịch khử khuẩn
− Bút ghi, phiếu hỏi, phiếu khám
Hình 2.1. Thước kẹp điện tử
* Điều tra viên: Nhóm sinh viên Y6 và Y5 (5 người) chuyên khoa Răng
Hàm Mặt thuộc Viện đào tạo Răng Hàm Mặt - Trường đại học Y Hà Nội đã
được tập huấn thống nhất về cách khám, phỏng vấn và ghi phiếu đánh giá.
*Tư thế khám: Trẻ được khám ở tư thế ngồi thẳng lưng trên ghế, môi trên
được vén lên với ngón trỏ và ngón cái bằng cả hai tay, quan sát PMT dưới ánh
sáng tự nhiên.
2.3.7. Các chỉ số nghiên cứu cần thu thập
− Giới
− Giải phẫu PMT
+ Vị trí bám của PMT
Vị trí bám PMT luôn được khám với môi trên được kéo nhẹ nhàng khỏi
phần xương ổ răng.
Phân loại vị trí bám của PMT theo phân loại của Mirko P. và cộng sự
(1974) thành 4 loại với những tiêu chuẩn cụ thể hơn như sau:
Bám niêm mạc
Bám lợi dính
Bám nhú lợi
Bám quá nhú
(độ I)
(độ II)
(độ III)
(độ IV)
Hình 2.2. Phân loại phanh môi trên theo Mirko P. và cộng sự (1974) [1]
24
25
Phanh môi trên bám niêm mạc là phanh môi bám ở vị trí bình thường.
Phanh môi bám ở các vị trí khác như: bám lợi dính, bám tới nhú và bám quá
nhú lợi là vị trí phanh môi bám thấp [14].
Ranh giới niêm mạc miệng-lợi dính được xác định bằng dung dịch
Lugol’s Iodine 3%.
Hình 2.3. Ranh giới niêm mạc miệng – lợi dính sau nhuộm dung dịch
Lugol’s Iodine 3%
+ Hình thể PMT: Phân loại hình thể PMT theo phân loại của Sewerin
(1971) [14] có 8 loại:
1. Phanh môi đơn
2. Phanh môi
giản
hình vòm liên tục
3. Phanh môi có
mẩu thừa
4. Phanh môi
có nốt
5. Phanh môi đôi
+
6. Phanh môi có
7. Phanh môi
chỗ lõm
chẻ đôi
8. Kết hợp của hai hoặc hơn các loại phía trên
Hình 2.4. Phân loại phanh môi theo Sewerin (1971) [14]
Chiều cao PMT (tính theo mm)
Cách đo chiều cao PMT:
Trợ thủ dùng hai tay vén môi trên của đối tượng nghiên cứu lên trên ra
trước cho đến khi PMT căng hết cỡ.
25