Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Nghiên cứu giá trị của siêu âm kết hợp chất chỉ điểm u (CA12.5 và HE4) trong chẩn đoán sớm ung thư biểu mô buồng trứng tại bệnh viện K

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.65 KB, 46 trang )

1

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
U buồng trứng là một trong những khối u thường gặp của hệ sinh dục
nữ, đứng thứ hai về tần suất sau u xơ tử cung. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi,
từ trẻ em chưa thấy kinh đến người già sau mãn kinh.
Ung thư buồng trứng (UTBT) là một trong những ung thư phụ khoa
gây tử vong hàng đầu của phụ nữ. Ung thư buồng trứng đứng thứ 3 trong ung
thư phụ khoa sau ung thư vú và ung thư cổ tử cung ở phụ nữ 40 - 60 tuổi,
chiếm khoảng 4% các ung thư ở nữ giới [1].
Trên thế giới, tại một số quốc gia ở Bắc Mỹ và Bắc Âu phụ nữ có nguy
cơ mắc cao, tỷ lệ mắc thấp ở Nhật Bản và các quốc gia đang phát triển. Phụ
nữ châu Phi ở Mỹ có tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn so với phụ nữ một số nước
khác. Năm 2004, tại Mỹ ghi nhận 25.580 trường hợp mới mắc, 16.090 phụ nữ
tử vong vì căn bệnh này. Số phụ nữ tử vong vì ung thư buồng trứng (UTBT)
bằng số phụ nữ tử vong do ung thư cổ tử cung và ung thư niêm mạc tử cung
cộng lại [2].
Tại Việt Nam, UTBT là bệnh phổ biến đứng hàng thứ ba trong các bệnh
UT phụ khoa. Theo ghi nhận UT tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2004, tỷ lệ
mắc chuẩn theo tuổi là 4,4/100.000 dân, ở Hà Nội là 3,7/100.000 dân [3], [1].
Buồng trứng là 1 trong số những cơ quan phát sinh ra nhiều loại u nhất
trong cơ thể. Các khối u của buồng trứng có thể có nhiều nguồn gốc khác
nhau nhưng chủ yếu xuất phát từ ba thành phần: biểu mô bề mặt, tế bào mầm
và dây sinh dục - mô đệm, trong mỗi loại u lại được chia thành nhiều nhóm
nhỏ. Trong ung thư buồng trứng, có tới 80 - 90% UTBT là loại biểu mô, 510% là UT tế bào mầm, và khoảng 5% UT có nguồn gốc mô đệm [4].
UTBT là bệnh khó chẩn đoán sớm, phần lớn được phát hiện ở giai đoạn
muộn, khi bệnh đã lan tràn, gieo rắc vùng chậu và ổ bụng, ngay cả ở những
nước tiên tiến vẫn có khoảng 70-80% bệnh nhân được chẩn đoán bệnh ở giai
1




2

2

đoạn tiến triển (III, IV) [4], [5]. Vì vậy UTBT là bệnh khó chữa khỏi, tỷ lệ tử
vong cao, do đó việc phát hiện và điều trị bệnh ở giai đoạn sớm vẫn là yếu tố
then chốt cải thiện tiên lượng bệnh.
Chẩn đoán sớm và sàng lọc UTBT thường phải kết hợp lâm sàng với
phương tiện chẩn đoán hình ảnh và xét nghiệm chất chỉ điểm u. Vai trò của
siêu âm trong việc dự báo nguy cơ ác tính của một khối u buồng trứng đã
được nhiều nghiên cứu khẳng định. Chất chỉ điểm CA125 thường được sử dụng
để dự đoán khả năng lành tính hay ác tính của khối u buồng trứng [7], [6].
Năm 2009, trên thế giới đã áp dụng chất chỉ điểm u mới trong chẩn đoán
UTBT, đó là chất chỉ điểm u HE4 (human epididymal protein 4), chất chỉ
điểm này đã được chấp thuận ở Châu Âu, các nước Châu Á Thái Bình Dương
và Châu Mỹ La tinh. HE4 cũng đã được dùng ở Mỹ và được FDA chứng nhận
[8]. Tại Việt nam, HE4 bước đầu được áp dụng trong chẩn đoán và theo dõi
UTBT. Xét nghiệm chất chỉ điểm CA 125 và HE4 đã được áp dụng tại bệnh
viện K trong chẩn đoán và theo dõi UTBT. Tuy nhiên các nghiên cứu về giá
trị của chẩn đoán hình ảnh và các chất chỉ điểm u trong việc dự báo khả năng
ác tính của một khối u buồng trứng còn ít và chưa đầy đủ. Vì vậy, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu giá trị của siêu âm kết hợp chất
chỉ điểm u (CA12.5 và HE4) trong chẩn đoán sớm ung thư biểu mô
buồng trứng tại bệnh viện K”.
1. Một

số đặc điểm trên siêu âm và nồng đồ các chất chỉ điểm u (CA12.5,


HE4) trong ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn sớm được điều
trị tại bệnh viện K từ 1/2017 đến 8/2019.
2. Giá trị dự đoán ác tính của siêu âm kết hợp với chất chỉ điểm u (CA
12.5 và HE4) trong chẩn đoán sớm ung thư biểu mô buồng trứng
của nhóm bệnh nhân nghiên cứu.

2


3

3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. GIẢI PHẪU CỦA BUỒNG TRỨNG
Buồng trứng là một tạng nằm trong ổ phúc mạc, hai buồng trứng nằm
sát hai thành bên của chậu hông bé, sau dây chằng rộng. Buồng trứng có hình
hạnh nhân hơi dẹt, màu hồng nhạt. Hình dáng kích thước của buồng trứng
thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của cơ thể.
Mặt ngoài liên quan với động mạch chậu ngoài, động mạch chậu trong
và động mạch tử cung. Mặt trong liên quan với manh tràng, ruột thừa, ruột
non ở bên phải và đại tràng sigma ở bên trái.

Hình 1.1. Tử cung và các phần phụ
(Trích trong Atlas - Giải phẫu người của Frank H. Netter)
3


4


4

Buồng trứng được định vị bởi 4 dây chằng. Các dây chằng này treo giữ
buồng trứng một cách tương đối:
+ Dây chằng tử cung - buồng trứng.
+ Dây chằng thắt lưng - buồng trứng.
+ Mạc treo buồng trứng.
+ Dây chằng vòi trứng - buồng trứng.
Mạch máu và thần kinh buồng trứng:
* Động mạch: Buồng trứng được cấp máu từ hai nguồn
- Động mạch buồng trứng: tách ra từ động mạch chủ bụng ở ngang
mức các động mạch thận. Sau khi bắt chéo động mạch chậu ngoài, động mạch
buồng trứng chia làm 3 nhánh ở đầu trên của buồng trứng gồm: nhánh vòi
ngoài, nhánh buồng trứng ngoài và nhánh nối.
- Động mạch tử cung: tách ra các nhánh tận tiếp nối với các nhánh của
động mạch buồng trứng tạo thành cung mạch máu nuôi dưỡng buồng trứng.
- Tại rốn buồng trứng: Động mạch buồng trứng chia ra 10 nhánh tiến
sâu vào vùng tủy.
- Tại vùng chuyển tiếp: Các động mạch và tiểu động mạch tạo thành
một đám rối, từ đó tạo ra các mạch thẳng nhỏ hơn tiến vào vùng vỏ buồng
trứng, ở lớp vỏ trong của nang noãn có một mạng lưới mao mạch dày đặc.
* Tĩnh mạch: Tĩnh mạch buồng trứng phải đổ về tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh
mạch buồng trứng trái đổ về tĩnh mạch thận trái.
* Hệ thống bạch huyết: Dẫn lưu vào các thân bạch mạch lớn hơn để tạo thành
đám rối ở rốn buồng trứng, chúng đi qua mạc treo buồng trứng để dẫn lưu tới
các hạch quanh động mạch, các nhánh khác dẫn lưu vào các hạch chậu trong,
chậu ngoài, giữa động mạch chủ, động mạch chậu chung và hạch bẹn.
* Thần kinh: Tách ra từ đám rối liên mạc treo và đám rối thận [9], [10].


4


5

5
1.2. DỊCH TỄ HỌC
1.2.1. Trên thế giới

UTBT là một trong những bệnh UT phụ khoa phổ biến nhất ở phụ nữ
da trắng, đặc biệt một số quốc gia ở Bắc Mỹ và Bắc Âu. Tỷ lệ mắc thấp ở
Nhật Bản và phụ nữ châu Phi. Tỷ lệ mắc bệnh rất khác nhau tuỳ theo từng
quốc gia, từng chủng tộc và từng thời kỳ. Đã có những thông báo về sự gia
tăng tần xuất mắc bệnh và tử vong do UTBT tại Singapore, Anh, Tây Ban
Nha, Nhật Bản [1], [5].
Năm 2007, tại Mỹ ghi nhận 22.430 trường hợp mới mắc, 15.280 phụ nữ
tử vong vì căn bệnh này. Ở Singapore UTBT đứng hàng thứ 6 trong các bệnh
UT [5].
UTBMBT chiếm 85% trong tổng số UTBT, có tỷ lệ mắc tăng dần theo
tuổi, ít gặp ở độ tuổi dưới 40. Tỷ lệ mắc bệnh tăng từ 1,4/100.000 phụ nữ ở độ
tuổi dưới 40 lên đến 38/100.000 phụ nữ trên 60 tuổi. UTBT loại không biểu mô
hay gặp ở tuổi trẻ, thường được chẩn đoán ở độ tuổi dưới 20 [1].
Từ năm 1973 trở đi, tỷ lệ mắc bệnh UTBMBT ở phụ nữ da trắng tăng bình
quân hàng năm 0,1% ở độ tuổi dưới 50, 0,5% ở độ tuổi già hơn; ở phụ nữ da
đen tăng hàng năm 0,5% ở nhóm dưới 50 tuổi, 0,4% ở độ tuổi già hơn. Tỷ lệ
mắc trung bình ở phụ nữ da trắng là 13 - 15/100.000 phụ nữ, trong khi đó tỷ
lệ mắc trung bình ở phụ nữ da đen là 10/100.000 phụ nữ [1], [5].
Về tỷ lệ mắc theo tuổi, UTBMBT thường gặp ở phụ nữ sau mãn kinh, nhóm
phụ nữ 40-44 tuổi tỷ lệ mắc 15.5/100.000 tỷ lệ này tăng dần theo tuổi và đạt
đỉnh cao ở nhóm 70-74 với tỷ lệ mắc 57/100.000 [1], [5].

1.2.2. Tại Việt Nam
Năm 2004, theo ghi nhận UT tại thành phố Hồ Chí Minh UTBT đứng
hàng thứ 3 trong UT cơ quan sinh dục nữ với tần suất là 4,4/100.000 dân [1].
5


6

6

Theo Nguyễn Bá Đức, Đào Ngọc Phong, giai đoạn 2001 - 2004 tỷ lệ
mắc UTBT ở Hà Nội là 3,7/100.000 dân [3], [1].
Theo ghi nhận UT năm 2006 tại Việt Nam, trong số 10 bệnh UT thường
gặp nhất ở phụ nữ, UTBT đứng hàng thứ 7. Căn bệnh khó này đang thực sự là
gánh nặng sức khỏe đối với phụ nữ bởi khả năng phát hiện và chẩn đoán sớm
là rất khó [1].
1.3. NGUỒN GỐC CÁC KHỐI U BUỒNG TRỨNG
1.3.1. U biểu mô bề mặt[1], [2], [11]
Cho đến nay, có nhiều giả thuyết còn đang tranh luận nhưng đa số
các tác giả thừa nhận và ủng hộ thuyết phát sinh từ “ Nang vùi BM và dị
sản BM bề mặt BT ”. Nói chung nguồn gốc của sự hình thành các nang vùi
BM còn chưa thống nhất hoàn toàn. Sự hình thành thể trắng, các nang
noãn thoái triển và xơ hóa BT làm cho BT trở nên nhỏ hơn, trên bề mặt
có những xoắn vặn, nhăn nhúm. Quá trình này kéo BM phủ khoang cơ
thể nằm ở phía trên vào mô đệm, dần dần tạo ra những ổ BM nằm sâu
trong mô đệm. Những ổ BM này dần dần phân cách với BM bề mặt bằng
một lớp mô đệm để tạo thành các nang BM khoang cơ thể vùi trong vùng
vỏ BT.
Các nang vùi còn có thể được hình thành sau phóng noãn - tạo hoàng
thể. Sau đó hoàng thể thu nhỏ, xơ tăng sinh tạo nên thể trắng kéo theo BM

phủ ở phía trên xuống tạo ra ổ BM nằm trong phần vỏ. Các nang vùi này
cũng có thể được hình thành thứ phát do sự sát nhập của phần cuối tua vòi
trứng với trung mô phúc mạc phủ BT, do sự dính vòi trứng - BT. Quá trình
này được hỗ trợ bởi dịch nang noãn. Sau đó vùng này tổ chức hóa, bề mặt
BT được tái tạo lại, có thể dẫn đến hiện tượng BM phủ bề mặt BT vùi vào
mô đệm vùng vỏ BT.
Sau cùng, các nang vùi có thể là sự phát triển gợi lại ống Muller trong
thời kỳ bào thai.
6


7

7

Mặc dù có nhiều giả thuyết khác nhau cắt nghĩa sự hình thành nang
vùi BM nhưng quan trọng hơn là các nang vùi đã xuất hiện trong vỏ BT và
chúng có thể dị sản hoặc quá sản tiếp theo dẫn tới hình thành các u nang
BM BT.
Như vậy, sự hình thành các nang BM BT là do dị sản - tăng sản của
BM khoang cơ thể, loại BM này có chung nguồn gốc ống Muller - mẹ đẻ của
tử cung và vòi tử cung nên khi biến đổi dị sản tạo ra.





Nang nước (Tương tự BM vòi tử cung)
Nang nhầy (Tương tự BM ống cổ tử cung)
Nang dạng nội mạc (Như BM nội mạc tử cung )

Ở vùng chuyển tiếp là u Brenner

Quá trình dị sản xảy ra hoặc ở BM bề mặt trước khi các nang vùi hình
thành hoặc xảy ra ở BM phủ nang vùi.
Với ung thư buồng trứng (UTBT), về nguyên nhân gây ra loại ung thư
(UT) này, đang tồn tại hai khuynh hướng được các nhà nghiên cứu ủng hộ:
Đó là sự “chấn thương” trên BM vỏ BT do quá trình phóng noãn được lặp đi
lặp lại trong cuộc đời người phụ nữ. Giả thuyết này tỏ ra có lý vì UT BM không
gặp ở trẻ em và phụ nữ teo đét BT. Ở phụ nữ dùng thuốc chống phóng noãn, phụ
nữ đang có thai và cho con bú liên tục, tỷ lệ UTBT giảm xuống 1,5 - 3,2 lần so
với phụ nữ không có thai. Nhóm giả thuyết thứ 2 (Yaker 1975 ) cho rằng : các
chất gây UT đi qua âm đạo, cổ tử cung, tử cung, vòi trứng rồi tác động lên BM
bề mặt BT cũng như tác động lên các nang vùi BM. Nhiều nghiên cứu cho thấy :
UT BM BT chủ yếu phát sinh từ các tuyến vùi BM hơn là trực tiếp từ BM bề
mặt và coi sự biệt hóa ống Muller là bước đầu trong sự hình thành UT.
1.3.2. U tế bào mầm [12], [13],[14].
Theo một số tác giả (Simard L.C 1975, Frederick K 1994), u tế bào
mầm là do đơn tính sinh của tế bào mầm tạo ra. Các tế bào sinh dục dù chỉ có
23 nhiễm sắc thể vẫn có thể sinh ra các bộ phận và tổ chức trong cơ thể trong
7


8

8

đó tuyệt đại đa số là lành tính bao gồm: u quái thành thục và hay gặp nhất là u
nang bì (95% là u nang bì lành tính), có một tỷ lệ nhỏ là ác tính (1% - 3%
theo Smith J.P 1973, Robert R.S 1982, Philip B Clement 2000) bao gồm u tế
bào mầm nguyên thủy, u xoang nội bì, UT bào thai, UT nguyên bào nuôi tiên

phát ở BT, u quái chưa thành thục.
1.3.3. U dây sinh dục - mô đệm của BT [1]
Người ta cho rằng: các khối u mô đệm sinh dục có thể có nguồn gốc từ
trung mô tuyến sinh dục là nơi có khả năng phát triển thành cơ cấu tuyến sinh
dục của nam và nữ tạo thành các khối u nam hóa và nữ hóa. Các u này thường
gây rối loạn nội tiết, rối loạn sự phát triển giới tính hay kinh nguyệt.
1.4. PHÂN LOẠI U BUỒNG TRỨNG THEO GIẢI PHẪU BỆNH VÀ
LÂM SÀNG
1.4.1. Phân loại u BT theo mô bệnh học [1],[11]
Năm 2003,tổ chức y tế thế giới WHO - World Health Organization đã
đưa ra một bảng phân loại khối u BT như sau:
* U mô đệm BM bề mặt
1.1. U thanh dịch : Lành tính
U giáp biên
Ác tính
1.2. U nhầy :

Lành tính
U giáp biên
Ác tính
U nang chế nhầy với các nốt vách nang
U nang chế nhầy giả u nhầy phúc mạc

1.3. U dạng nội mạc tử cung gồm các biến thể biệt hóa vảy:
8


9

9


- Lành tính
- U giáp biên
- Ác tính
1.4. U tế bào sáng:
- Lành tính
- U giáp biên
- Ác tính
1.5. U tế bào chuyển tiếp:
- Lành tính
- U giáp biên
- Ác tính
1.6. U tế bào vảy :
`

- Ung thư BM tế bào vảy
- Nang dạng biểu bì

1.7. U BM hỗn hợp(Nêu các thành phần):
- Lành tính
- U giáp biên
- Ác tính
1.8. U không phân loại và không biệt hóa
- Ung thư BM không biệt hóa
- Ung thư BM tuyến không cần ghi chú thêm
* U mô đệm - dây sinh dục
* U tế bào đệm - hạt
2.1. Nhóm u tế bào hạt
9



10

10
2.2 . Nhóm u xơ - u vỏ
2.3. U tế bào đệm Sertoli

2.4. U mô đệm - dây sinh dục của các typ tế bào hỗn hợp hoặc
không xếp loại
2.5. U tế bào Steroid
* U tế bào mầm
3.1. U tế bào mầm nguyên thủy :
3.2. UT biểu mô bào thai
3.3. U quái 2 hoặc 3 pha
3.4. U quái đơn bì và các u quái typ tế bào thân, kết hợp với nang bì
3.5. Các loại khác
* U mô đệm - dây sinh dục tế bào mầm
* Những u của vết tích bào thai ở BT
* Những u linh tinh
* Những tổn thương dạng u
* Những u tạo máu và u Lympho
* U thứ phát - Krukenberg
1.4.2. Phân loại u BT theo lâm sàng
1.4.2.1. U nang BT
* Các khối u cơ năng: [9], [15]
Khối u cơ năng BT sinh ra do tổn thương chức năng của BT . U thường
lớn nhanh, chỉ tồn tại trong vài chu kỳ kinh, không cần điều trị.
Nang bọc noãn: Do nang De Graaf vỡ muộn, tiếp tục tiết estrogen.
Dịch trong nang thường có màu vàng chanh và chứa nhiều estrogen.


10


11

11

Nang hoàng tuyến hay gặp ở những bệnh nhân chửa trứng hoặc UT
nguyên bào nuôi, có thể gặp ở những bệnh nhân vô sinh đang được điều trị
bằng hormon hướng sinh dục liều cao, là hậu quả của β hCG tăng quá cao. U
thường có cả hai bên BT, nhiều thùy, vỏ mỏng, chứa nhiều lutein.
Nang hoàng thể: sinh ra từ hoàng thể, chỉ gặp trong giai đoạn hoàng thể
và thời kỳ thai nghén, nhất là trong trường hợp đa thai. Nang chứa nhiều
estrogen và progesteron.
* Các khối u thực thể: [9], [15]
U nang nước: thường lành tính,vỏ mỏng, có thể có cuống dài, trong
chứa dịch trong. Nang thường không dính vào xung quanh, có thể có nhú ở
mặt trong hay mặt ngoài của vỏ nang, nếu có nhú thường ác tính.
U nang nhầy: Nang có nhiều thùy nên có thể rất to, thành nang dày
gồm hai lớp: Lớp ngoài là tổ chức xơ, ở trong là lớp thượng bì trụ đơn,
trong nang chứa dịch nhầy màu vàng. U nang nhầy có thể dính vào các tạng
xung quanh.
U nang bì: Thường gặp nhất là u quái (teratome) và các khối u tế bào
mầm, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, 10% teratome gặp khi mang thai. Thành nang
có cấu trúc như da gồm lớp sừng, mỡ, tuyến mồ hôi, trong nang chứa tóc,
răng, bã đậu.
U nang dạng nội mạc tử cung: Nang thường là một thùy ở một hoặc hai
bên BT, thành mỏng, dính, bên trong chứa dịch màu nâu sẫm.
Các nang cơ năng tồn tại trên 3 chu kỳ đều được coi là nang thực thể.
1.4.2.2. UT BT và các khối u BT khác

* Khối u có nguồn gốc BM BT : Chiếm khoảng 70% các khối u BT
(75% là u thanh dịch, 20% là u nhầy, 2% là u dạng lạc nội mạc tử cung).
* Khối u tế bào mầm: Chiếm khoảng 15 - 20% tất cả các loại khối u
BT . Khối u tế bào mầm thường gặp ở bệnh nhân dưới 20 tuổi.
* Khối u mô đệm BT: Chiếm khoảng 5% tất cả các loại khối u BT.
11


12

12
1.5. CHẨN ĐOÁN
1.5.1. Sàng lọc và phát hiện sớm

Nhiều nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng trên thế giới đã chỉ ra rằng
chưa có một phương pháp nào thực sự có hiệu quả trong việc sàng lọc UTBT
một cách rộng rãi như UT vú hoặc UT cổ tử cung. Sự tiến triển nhanh của
bệnh cùng với độ tin cậy của các test sàng lọc không cao là những nguyên
nhân chính ảnh hưởng tới hiệu quả sàng lọc của bệnh. Hầu hết các nghiên cứu
sự dụng nồng độ CA 12.5 huyết thanh hoặc siêu âm đầu dò âm đạo hoặc kết
hợp cả hai.
CA 12.5 huyết thanh không hữu ích khi sử dụng đơn độc bởi vì sự tăng
không đặc hiệu cho UTBMBT, nó có thể tăng trong các bệnh lành tính khác
như: u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung, u nang buồng trứng, các bệnh viêm
nhiễm vùng chậu, tràn dịch màng phổi, màng bụng bất cứ nguyên nhân gì; và
các bệnh ác tính như: UT vú, phổi, đại-trực tràng, tụy, dạ dày…Mặt khác CA
12.5 chỉ tăng trong khoảng 50% các trường hợp UTBMBT giai đoạn sớm.
Kết hợp CA 12.5 huyết thanh và siêu âm đầu dò âm đạo đặc biệt là siêu
âm Doppler màu là một nỗ lực trong việc cải thiện hiệu quả của sàng lọc. Việc
kết hợp khám khung chậu, xét nghiệm nồng độ CA 12.5 huyết thanh và siêu

âm đầu dò âm đạo hàng năm đối với các phụ nữ có nguy cao mắc UTBMBT
(tiền sử gia đình có mẹ, hoặc chị, em mắc UT vú, UTBT; mang gen UTBT di
truyền …) làm tăng tỷ lệ phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm, mặc dù hiện tại
chưa có một bằng chứng rõ ràng giảm được tỷ lệ tử vong của UTBT qua các
phương pháp này. Gần đây người ta đã phát hiện ra một số chất chỉ điểm u
khác hứa hẹn sẽ làm tăng độ chính xác của CA 12.5 huyết thanh đặc biệt là
HE4 (human epididymal protein 4) đã được nghiên cứu và chứng minh làm
tăng độ đặc hiệu trong chẩn đoán và phát hiện sớm ung thư biểu mô buồng
trứng [5].
1.5.2. Triệu chứng lâm sàng
12


13

13
1.5.2.1. Triệu chứng cơ năng

Buồng trứng là cơ quan nằm sâu trong khung chậu. Ở giai đoạn sớm,
các triệu chứng của UTBMBT thường tiến triển âm thầm và không có dấu
hiệu đặc trưng, thường chỉ là cảm giác đầy tức bụng mơ hồ, khó giải thích
hoặc các triệu trứng mượn của hệ tiêu hóa (táo bón) và tiết niệu (tiểu nhiều
lần, tiểu khó), đôi khi gặp dấu hiệu đau bụng với nhiều mức độ khác nhau
nhưng cũng không đặc hiệu, thường gặp trong hoàn cảnh khám bệnh định kỳ
hoặc tình cờ phát hiện khi khám một bệnh khác. Mặt khác lại có khoảng 1/3
bệnh nhân UTBMBT không có triệu chứng gì và có đến 75% trường hợp đã
có các triệu chứng trên 6 tháng cho đến lúc được chẩn đoán. Chính vì vậy,
hơn 70% các trường hợp khi được phát hiện thì đã ở giai đoạn muộn, lúc này
các triệu chứng thường rầm rộ, tiến triển nhanh như thấy bụng chướng nhanh,
gầy sút, kém ăn, nhiều trường hợp BN tự sờ thấy u. Kèm theo là các triệu chứng

do khối u chèn ép, xâm lấn các cơ quan lân cận như rối loạn kinh nguyệt, ra máu
âm đạo sau mãn kinh, các biến chứng tiêu hoá, tiết niệu, đau bụng do u xoắn, vỡ
hoặc khó thở do cổ trướng nhiều hay do tràn dịch màng phổi.
Ở giai đoạn cuối, BN có biểu hiện suy dinh dưỡng nặng, rối loạn nước
điện giải. Hình ảnh lâm sàng điển hình là bụng căng to, người chỉ còn da bọc
xương, mất hết tổ chức mỡ ở mặt làm cho BN luôn như cười mỉa mai, mắt
trũng. Hình ảnh đó gọi là bộ mặt buồng trứng [16], [17], [18], [5], [19].
1.5.2.2. Triệu chứng thực thể
Ở giai đoạn sớm cần thăm khám kỹ phần tiểu khung, thăm âm đạo, trực
tràng để đánh giá vị trí, kích thước, mật độ cũng như mức độ di động và xâm
lấn của u. Khi u còn khu trú tại buồng trứng thường di động dễ và ranh giới rõ
nhưng khi vượt quá khỏi buồng trứng và xâm lấn các cơ quan lân cận thì u
thường hạn chế di động và ranh giới không rõ ràng với cơ quan xung quanh.
13


14

14

Dấu hiệu cổ trướng có thể gặp nhưng ít hơn nhiều so với giai đoạn muộn và
thường ở mức độ nhẹ hoặc vừa. Khám vùng bụng chậu kết hợp với khám phụ
khoa là động tác quan trọng đầu tiên khi nghi ngờ một khối u buồng trứng,
nhất là đối với giai đoạn sớm các dấu hiệu thực thể thường nghèo nàn và
không đặc hiệu.
Ở giai đoạn muộn các triệu chứng phong phú và rõ rệt hơn, thường có
dịch cổ trướng xuất hiện. Sự xuất hiện dịch cổ trướng là một biểu hiện xấu
của bệnh. Khám kỹ vùng bụng có thể phát hiện được biểu hiện u xâm lấn,
phát triển làm đóng bánh mạc nối lớn. Cần thăm khám toàn thân để đánh giá
thể trạng cũng như tìm kiếm các biểu hiện lan tràn của bệnh như tràn dịch

màng phổi, hạch bẹn, hạch thượng đòn [2], [5], [19].
1.5.3.1. Vai trò của siêu âm và các chất chỉ điểm u (CA12.5 và HE4) trong
chẩn đoán sớm ung thư buồng trứng.
 Siêu âm
Siêu âm là một phương pháp chẩn đoán quan trọng đầu tiên trong đánh
giá một khối vùng tiểu khung, nó nhậy hơn so với các phương pháp chẩn
đoán hình ảnh khác như CT trong việc phát hiện những khối u buồng trứng.
Siêu âm cung cấp những thông tin có giá trị về những khối u buồng trứng gợi
ý khả năng lành tính hoặc ác tính
Siêu âm ổ bụng: có giá trị trong việc đánh giá kích thước u, vị trí u ở
một hay cả hai bên buồng trứng, tình trạng dịch ổ bụng cũng như tìm kiếm
bằng chứng về di căn xa tới các cơ quan khác trong ổ bụng đặc biệt là việc
đánh giá tình trạng di căn gan, di căn hạch ổ bụng.
Siêu âm đường âm đạo : xác định cấu trúc bên trong của khối u.
Siêu âm Doppler màu : nghiên cứu sự thay đổi phân bố mạch máu
vùng tiểu khung, tình hình cấp máu của khối u.
Các dấu hiệu sau đây trên siêu âm gợi ý hình ảnh một khối u ác tính:
14


15

15

+ Thành phần đặc hoặc hỗn hợp cả đặc và lỏng
+ Có nhiều vách, dày không đều, kích thước > 3 mm
+ Có nụ sùi trong nang
+ Bờ nham nhở không rõ với tổ chức xung quanh
+ Có dịch ổ bụng
+ Kích thước ≥ 10 cm

+ Nhiều mạch máu tân sinh trên siêu âm Doppler màu.
Nang cơ năng: thường có kích thước nhỏ (<6cm), bờ rõ, thành mỏng,
dịch nang là vùng âm vang không đồng nhất, thường tự mất đi sau 2 - 3 chu
kỳ kinh.
U BT thực thể: Siêu âm có thể xác định được bờ viền u, độ dày của vỏ,
vách u, cấu trúc âm vang phản xạ trong lòng u và liên quan của u với các
vùng xung quanh, u có kèm theo dịch cổ trướng hay không?
-

Nang nước : Thường có một thùy, thành mỏng, ranh giới rõ, dịch

-

trong nang có âm vang đồng nhất, đôi khi u có vách, có nhú.
Nang nhầy: Thường có nhiều thùy, thành dày, ranh giới rõ, u có

-

nhiều vách, dịch nang có âm vang thưa.
Nang dạng nội mạc tử cung: Có thành dày, phản xạ âm vang thưa

-

-

không thuần nhất, có thể có một hoặc nhiều thùy.
Nang bì: Có nhiều hình ảnh đa dạng:
+ Hình ảnh âm vang đồng nhất
+ Hình ảnh vùng âm vang hỗn hợp
+ Hình ảnh vùng đậm âm tạo bóng âm vang phía dưới các tổ chức

xương, tóc...
U thể đặc: có nhiều hình ảnh khác nhau:
+ U vỏ BT loại xơ: Hình ảnh đậm âm và đồng nhất
+ U Brenner: Hình ảnh đậm âm và đồng nhất, có khi có nang
+ UT nguyên phát thể đặc: U có âm vang đậm, không đồng nhất,
ranh giới không rõ ràng.

Theo nghiên cứu của Herrmann [20] dự đoán tính chất ác tính của u BT
qua siêu âm dựa vào các đặc điểm u có bờ không rõ, vách ngăn dày, cổ trướng
và nhất là có tổ chức đậm âm trong khối u, sau đó so với kết quả giải phẫu
15


16

16

bệnh khối u sau mổ, người ta thấy phương pháp chẩn đoán này có độ nhạy
cao (82,6%). Nếu qua siêu âm chẩn đoán là ác tính thì tỷ lệ đúng là 73%. Nếu
siêu âm chẩn đoán là lành tính thì tỷ lệ đúng là 95,6%.
Ngày nay, bằng phương pháp siêu âm màu người ta có thể phát hiện
được những mạch máu tăng sinh bất thường xung quanh và trong lòng khối u.
Trong khối u BT ác tính có rất nhiều mạch máu tăng sinh. Tuy nhiên, Doppler
màu chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu về huyết động và đòi hỏi trang
thiết bị đắt tiền nên chưa được áp dụng rộng rãi.
Những hình ảnh Doppler màu dự đoán khối u BT ác tính:
-

Mạch máu xâm nhập nhiều ở vùng trung tâm của khối u
Mạch máu nhánh to hơn mạch máu chính

Có nhiều mạch nối tắt giữa động mạch và tĩnh mạch, cuối mạch máu
phình to thành hồ huyết.

Fleicher AC [21] nhận xét rằng: Với phương pháp Doppler màu thì khả
năng chẩn đoán đúng UTBT là 83% (độ nhậy là 92%, độ đặc hiệu là 80%).
Hiện nay nhiều tác giả dựa vào siêu âm để phân loại tiền phẫu u BT, có
nhiều thang điểm khác nhau để đánh giá tính chất u BT trên SA như thang
điểm của Sasson (Các khối u trên 9 điểm nghi ngờ là ác tính), thang điểm của
đại học Tokyo (Các khối u thuộc nhóm I, II, III (A, B) đa số là các khối u lành
tính, các khối u từ nhóm IIIC trở lên có tỷ lệ ác tính tùy theo từng loại khối u)
(Ở Việt Nam hiện nay thường dựa vào thang điểm này), thang điểm của
Osmers, của Rottem.
Các bảng phân loại này đã giúp ích rất nhiều cho các nhà lâm sàng trong
vấn đề tiên lượng và xử trí u BT.
Kết hợp siêu âm đầu dò âm đạo với định lượng nồng độ CA 12.5 huyết
thanh có ý nghĩa trong việc sàng lọc và phát hiện sớm UTBT đối với các phụ
nữ có nguy cơ cao, tuy nhiên sự kết hợp này không được khuyến cáo trong
sàng lọc đối với những phụ nữ không có các yếu tố nguy cơ rõ ràng [22], [5],
[23], [24], [25].
16


17

17

 Xét nghiệm CA 12.5 huyết thanh
CA 12.5 bản chất là một loại glycoprotein, một kháng thể đơn dòng
được dùng để xác định sự hiện diện của kháng nguyên CA 12.5.
Người ta đã chứng minh được rằng có gần 1% phụ nữ khỏe mạnh không

mang thai có nồng độ CA 12.5 huyết thanh > 35U/ml. Trong khi đó, có khoảng
80% - 85% bệnh nhân UTBMBT có nồng độ CA 12.5 huyết thanh tăng cao. Tuy
nhiên xấp xỉ 50% trường hợp UTBMBT giai đoạn sớm nồng độ CA 12.5 huyết
thanh không tăng, điều này làm hạn chế giá trị của nó trong sàng lọc UTBMBT .
Liên quan với thể giải phẫu bệnh, đối với những UTBMBT thanh dịch
có xu hướng tăng nồng độ CA 12.5 huyết thanh cao hơn (> 85%), trong khi ở
thể chế nhày, týp tế bào sáng tỷ lệ tăng nồng độ CA 12.5 huyết thanh thấp hơn.
Ở những phụ nữ đã mãn kinh, khi có khối u buồng trứng đi kèm với
tăng CA 12.5 huyết thanh (> 65 U/ml) có độ nhậy là 97% và độ đặc hiệu là
78% với UTBT. Tuy nhiên ở những phụ nữ tiền mãn kinh độ nhậy và độ đặc
hiệu của CA 12.5 huyết thanh giảm xuống do hiện tượng tăng nồng độ CA
12.5 huyết thanh có thể gặp ở những trường hợp đang mang thai, lạc nội mạc
tử cung, u cơ trơn tử cung và những tổn thương viêm nhiễm vùng tiểu khung.
Những phụ nữ đã mãn kinh, khi có khối u buồng trứng kèm theo tăng nồng độ
CA 12.5 huyết thanh thì có chỉ định PT thuật thăm dò.
Mặc dù sự tăng nồng độ CA 12.5 huyết thanh là không đặc hiệu trong chẩn
đoán UTBMBT được nhưng lại rất có ích trong đánh giá đáp ứng với điều trị và
theo dõi tái phát sau điều trị. Tuy nhiên hiện thời chưa có một bằng chứng chứng tỏ
việc phát hiện sớm tái phát thông qua mức CA 12.5 huyết thanh có lợi ích sống
thêm trong căn bệnh này [26], [6], [27], [28] [5], [23], [29], [30], [21], [31].
 Xét nghiệm HE4 huyết thanh
Lịch sử của HE4 [32]: Năm 1991, HE4 được tìm ra trong mào tinh
hoàn. Năm 1999, chất chỉ điểm u HE4 đã được chứng minh là có trong mô
của ung thư buồng trứng. Năm 2003, HE4 được chứng minh có trong huyết
tương bệnh nhân ung thư buồng trứng. Năm 2007, Abbott cùng FDA thử
17


18


18

nghiệm HE4 như là chất chỉ điểm u trong ung thư buồng trứng, nhằm tìm ra
độ đặc hiệu của nó. Năm 2008, test ROMA, là thuật toán hồi quy kết hợp giữa
nồng độ CA125 và nồng độ HE4 đã được dùng để tính nguy cơ ác tính của khối
u vùng tiểu khung, u buồng trứng. Năm 2009, Abbott sản xuất kít xét nghiệm
HE4 tự động đầu tiên. Chất chỉ điểm u HE4 đã được chấp thuận ở Châu Âu,
các nước Châu Á Thái Bình Dương và Châu Mỹ La tinh. HE4 được dùng ở
Mỹ và được FDA phê chuẩn.
HE4 thuộc về nhóm WFDC (whey acidic four - disulfide core) các
protein nghi có tính chất ức chế trypsin. Nhiễm sắc thể 20q12 - q13.1 chứa
một locus với nhiều thành viên gia đình WFDC, là gen được khuếch đại trong
nhiều ung thư như ung thư buồng trứng, vú, đại trực tràng, tụy, phổi [33].
Trong đó HE4 là WFDC2 - whey acidic four disulfide core protein 2.
HE4 lần đầu tiên được xác định trong biểu mô của mào tinh ngoại
biên. Dấu ấn sinh học này hiện diện rất thấp trong biểu mô của các mô hô hấp
và sinh sản bao gồm buồng trứng, nhưng tăng cao trong mô ung thư buồng
trứng. Ngoài ra HE4 cũng hiện diện với nồng độ cao trong huyết thanh của
các bệnh nhân ung thư buồng trứng. HE4 là một chỉ điểm u mới được mong
đợi sẽ giúp đánh giá nguy cơ ung thư biểu mô buồng trứng [34].
Gen mã hóa cho HE4 là một trong những gen phổ biến nhất được xác
định trong danh sách các gen biểu hiện trong ung thư buồng trứng dạng biểu
mô. Đánh giá mức độ sản sinh của HE4 trong các bệnh lý như u buồng trứng
lành tính, ung thư buồng trứng, bệnh lý tại các mô khác của cơ thể bằng các
phương pháp miễn dịch. Trong khi biểu mô bình thường ở bề mặt buồng
trứng không sản sinh HE4, thì nang vùi vùng vỏ buồng trứng được lát bởi lớp
biểu mô Mullerian đã chuyển sản tạo ra nhiều protein này. Sự sản sinh protein
này giới hạn ở một số dạng mô: 93% carcinoma nang tuyến thanh dịch và
100% carcinom tuyến dạng nội mạc tử cung có sản sinh HE4, trong khi đó chỉ
18



19

19

có 50% carcinom dạng nhầy không cho kết quả dương tính với HE4. Sử dụng
kỹ thuật tissue microarray cho thấy hầu hết các ung thư phổ biến khác không
phải ung thư buồng trứng không có phản ứng miễn dịch HE4, trong đó bao
gồm ung thư đại tràng, vú, ung thư phối không tế bào nhỏ, bàng quang, thận,
tuyến giáp, tuyến tiền liệt.
Biểu hiện của gen HE4 ở mô người bình thường: HE4 từng được mô tả
là một gen đặc hiệu của mào tinh hoàn. Nhằm đánh giá biểu hiện của HE4 ở
mô bình thường và ác tính, sử dụng kháng thể kháng HE4 và đánh giá phản
ứng miễn dịch trên mào tinh hoàn, đánh giá mức độ phân bố của HE4 trong
các mẫu mô. HE4 biểu hiện cao nhất ở mào tinh hoàn và cơ quan sinh sản nữ
như vòi trứng, nội mạc tử cung, trong cổ tử cung. HE4 cũng có mặt trong biểu
mô đường hô hấp, nhất là khí quản, ngoài ra cũng có ở biểu mô của các ống
xoắn thận và tuyến nước bọt. Không hề có dấu tích HE4 ở biểu mô đường tiêu
hóa, gan, lách, tụy, hạch bạch huyết, tim, cơ, xương, vú, não.
HE4 sản sinh nhiều ở biểu mô Mullerian của nang vùi ở vùng vỏ buồng
trứng bình thường. Tăng sản Mullerian của biểu mô bề mặt buồng trứng, thường
thấy trong các thể nang vùi (CIC), tạo nên sự sản sinh của nhiều dấu hiệu sinh
học u như EpCAM, Mucin, Mesothelin và CD29. Sự sản sinh HE4 xảy ra trong
quá trình hình thành CIC bình thường theo độ tuổi và tăng sản Mullerian.
HE4 được sản sinh nhiểu trong ung thư buồng trứng ở các mức độ khác
nhau. Bởi vì, HE4 được sản sinh và tiết dưới dạng một glycolprotein bởi tế
bào ung thư buồng trứng. Sự sản sinh HE4 trong mào tinh hoàn cho thấy HE4
được tiết ở màng và phía trong các ống túi. Ở các ống túi, chất này tiếp xúc
với các tinh trùng. Kiểu biểu hiện này thống nhất với thực tế cDNA mã hóa

cho HE4 tổng hợp ra một protein dạng tiết nhỏ có đầu NH 2 là acid amin thân
nước, tương ứng với một peptide tín hiệu. Việc tách peptide này sẽ tạo ra một
polypeptide có thể glycosylate hóa ở â vị trí 15 (N-C-T).

19


20

20

HE4 là một protein tiết. Sử dụng phương pháp khuếch đại PCR sao chép
ngược, xác định HE4 được sản sinh nhiều ở nội bào tế bào UTBT nuôi cấy. Tại
môi trường nuôi cấy, các tế bào này chứa một dạng tiết của HE4 được glycosylat
hóa ở đầu N và tiết vào môi trường ngoại bào, biểu hiện của protein này trong
nang vùi vùng vỏ trứng gợi ý sự hình thành của lớp biểu mô Mullerian là bước
tiên quyết trong quá trình phát triển ung thư biểu mô buồng trứng [34].
HE4 có trong máu bệnh nhân ung thư buồng trứng, không phụ thuộc tuổi.
Độ nhậy và độ đặc hiệu của HE4 tương đương CA125 và HE4 ít khi dương tính ở
bệnh nhân không ung thư, tiềm năng sàng lọc tốt hơn CA 125. Sự phát triển xét
nghiệm định lượng HE4 trong huyết thanh sẽ cung cấp công cụ đánh giá độ nhậy
HE4 trước mổ, sau mổ, trong điều trị hóa trị, ngoài ra sử dụng chẩn đoán sớm
ung thư buồng trứng. Sự kết hợp HE4 và CA 125 rất tiềm năng, đem lại độ nhậy
và độ đặc hiệu cao giúp phát hiện sớm ung thư buồng trứng [34].
1.5.3. Chẩn đoán giai đoạn
Theo hệ thống phân giai đoạn UTBMBT của FIGO năm 1986 dựa trên
nguyên tắc: quan sát, thăm dò trong mổ, đánh giá tổn thương nguyên phát, tổn
thương di căn ổ phúc mạc, còn gọi là giai đoạn PT. Hiệp hội UT Hoa Kỳ
(AJCC) cũng đưa ra hệ thống phân giai đoạn tương tự. Hàng năm, hai tổ chức
này đều có sự điều chỉnh hệ thống phân giai đoạn cho các bệnh UT trong đó

có UTBT. Hệ thống phân giai đoạn của FIGO hiện nay được áp dụng rộng rãi
cho UTBT.
Năm 2008, cả hai tổ chức trên đều công bố bảng phân giai đoạn giống
nhau cho UTBT:
Bảng 1.1. Phân loại giai đoạn theo TNM (AJCC) và của FIGO năm 2008 [5].
TNM
Tx
To
T1

FIGO
I
T1A

20

IA

Không thể đánh giá được u nguyên phát.
Không có bằng chứng u nguyên phát.
U giới hạn ở buồng trứng.
U giới hạn ở một buồng trứng, vỏ còn nguyên
vẹn, không có u trên bề mặt buồng trứng.


21

21

T2


T1B

IB

T1C

IC

II
T2A

IIA

T2B

IIB

T2C

IIC

T3 và
hoặc
III
N1
T3A

IIIA


T3B

IIIB

T3C

IIIC

M

IV

U giới hạn ở hai bên buồng trứng, vỏ còn nguyên
vẹn, không có u trên bề mặt buồng trứng.
U giới hạn ở một hoặc hai bên buồng trứng với
một trong những yếu tố sau: Vỏ bị phá vỡ, u
trên bề mặt buồng trứng, thấy tế bào ác tính
trong dịch cổ chướng hoặc trong dịch rửa ổ
bụng.
U xâm lấn một hoặc hai bên buồng trứng với sự
xâm lấn đến chậu hông.
Lan toả và/hoặc cấy vào tử cung và/hoặc vòi
trứng, không có tế bào ác tính trong dịch axit
hoặc trong dịch rửa ổ bụng.
Xâm lấn kéo dài đến tổ chức khác của chậu hông.
Xâm lấn chậu hông (như 2A hoặc 2B) với tế
bào ác tính trong dịch cổ chướng hoặc trong
dịch rửa ổ bụng.
U xâm lấn một hoặc hai bên buồng trứng với
xác nhận di căn màng bụng ngoài chậu hông

và/hoặc di căn hạch vùng.
Vi thể di căn màng bụng ngoài chậu hông.
Đại thể di căn màng bụng ngoài chậu hông kích
thước lớn nhất dưới 2cm.
Di căn màng bụng ngoài chậu hông lớn hơn
2cm và/hoặc di căn hạch vùng.
Di căn xa (trừ di căn màng bụng).

Chú ý: Di căn vỏ gan là T3/xếp giai đoạn III; di căn nhu mô gan là M1/giai
đoạn IV; tràn dịch màng phổi có tế bào (+) xếp M1/giai đoạn IV.
1.6. ĐIỀU TRỊ
1.6.1. Điều trị phẫu thuật
Trong điều trị ung thư buồng trứng, phẫu thuật được coi là phương
pháp ưu tiên hàng đầu, trừ khi bệnh ở giai đoạn IV, giai đoạn cuối. Phẫu thuật
có nhiều vai trò quan trọng: xác định chẩn đoán mô bệnh học, đánh giá chính
xác giai đoạn tiến triển của bệnh nhờ phẫu thuật mở bụng, quan sát và lấy
mẫu mô bệnh học; Sinh thiết chẩn đoán tức thì (bằng phương pháp cắt lạnh);
Điều trị triệt để các tổn thương khu trú, giảm nguy cơ reo rắc hoặc gây di căn
21


22

22

xa; Giảm thể tích, số lượng tế bào ung thư khi bệnh ở giai đoạn muộn, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc điều trị tiếp bằng hóa trị hay xạ trị; Giải quyết các biến
chứng của bệnh như tắc ruột, thủng tạng, vỡ u, chảy máu.
Xếp giai đoạn phẫu thuật UTBMBT dựa vào quan sát, thăm dò trong
mổ, đánh giá tổn thương nguyên phát cũng như có hay không những tổn

thương di căn ổ phúc mạc [35], [36].
 Chỉ định phẫu thuật
- Giai đoạn IA, IC (u ở 1 bên buồng trứng) trên phụ nữ trẻ mong muốn
có con: có thể chỉ cắt u và phần phụ đơn thuần.
- Các trường hợp giai đoạn I còn lại: cắt tử cung toàn bộ, u + 2 phần
phụ + mạc nối lớn.
- Giai đoạn II, III, IV (trừ trường hợp di căn nhu mô gan, nhu mô phổi,
hạch thượng đòn, hạch trung thất, hạch sau đùi không nên phẫu thuật): công
phá u tối đa, cắt tử cung toàn bộ, u + 2 phần phụ + mạc nối lớn.
1.6.2. Điều trị hóa chất
UTBT là khối u rất nhậy cảm với hóa chất và nhiều loại hóa chất tỏ ra
có hiệu quả.
1.6.3. Điều trị tia xạ
Vai trò của điều trị tia xạ trong UTBT rất hạn chế.
1.6.4. Điều trị nội tiết; Điều trị miễn dịch, điều trị đích: đang được nghiên
cứu
1.7. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC VỀ VAI TRÒ
CỦA SIÊU ÂM, CÁC CHẤT CHỈ ĐIỂM U TRONG CHẨN ĐOÁN SỚM
UNG THƯ BIỂU MÔ BUỒNG TRỨNG.
Vũ Thanh Nhân và cs (2010) báo cáo vai trò của HE4 trong chẩn đoán
UTBT đăng trên tạp chí Y học TP. HCM, tập 14, phụ bản của số 4, 2010 [37].
Nguyễn Thị Ngọc Phượng và cs (1999) với nghiên cứu đánh giá giá trị
các phương pháp chẩn đoán ung thư buồng trứng [38].
Nguyễn Văn Định và CS (1999) báo cáo kết quả điều trị ung buồng
22


23

23


trứng ở bệnh viện K có nhận xét: bệnh ít gặp ở độ tuổi dưới 40, có 49,62%
bệnh ở giai đoạn III, IV; 81,4% thể giải phẫu bệnh thuộc loại ung thư biểu mô
và 41,8% BN không có điều kiện điều trị triệt để, tỷ lệ sống 3 năm là 20% [9].
Vũ Bá Quyết (2010) nghiên cứu giá trị CA12.5 trên 146 bệnh nhân
UTBMBT cho thấy 100% bệnh nhân có hàm lượng CA12.5 > 35U/ml tại thời
điểm chẩn đoán; hàm lượng CA12.5 trung bình tỷ lệ thuận với giai đoạn bệnh,
kích thước u, thời gian mắc bệnh và vị trí u [7].
Ronny và cs nghiên cứu về HE4 là glycoprotein tiết, nghiên cứu tại
Mỹ. HE4 được sản sinh nhiều trong ung thư buồng trứng thể thanh dịch và thể
lạc nội mạc tử cung [34].
Richard G. Moore và cs nghiên cứu về vai trò của HE4 trong chẩn đoán
và điều trị ung thư buồng trứng [8].
Rafael Molina Porto, tại bệnh viện Barcelona, Tây Ban Nha với nghiên
cứu HE4, dấu ấn sinh học mới trong ung thư buồng trứng. HE4 đặc hiệu hơn
CA125 trong các bệnh phụ khoa. HE4 là chỉ điểm u được lựa chọn trong
UTBT và CA124 là chỉ điểm bổ sung, sử dụng kết hợp giúp tăng độ nhậy
trong UTBT. ROMA giúp làm tăng độ nhậy so với HE4 và CA125 trong chẩn
đoán phân biệt khối u vùng tiểu khung nhưng HE4 đặc hiệu hơn. ROMA
không áp dụng được ở các bệnh nhân có chỉ điểm ung thư âm tính [23].
Jaganathan Sickan với nghiên cứu chất chỉ điểm HE4, HE4 tăng sớm
hơn CA125 trong theo dõi điều trị ung thư buồng trứng [33].

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

23



24

24

Gồm các bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng là u buồng trứng lành
tính và ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn sớm (I, II) được phẫu thuật tại
bệnh viện K từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 8 năm 2019.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
+ Bệnh nhân được chẩn đoán u buồng trứng thực thể có chỉ định phẫu
thuật.
+ Bệnh nhân được siêu âm đánh giá khối u.
+ Bệnh nhân có xét nghiệm HE4, CA125 trước mổ.
+ Thể trạng chung đảm bảo các điều kiện phẫu thuật-gây mê hồi sức.
+ Chẩn đoán xác định u buồng trứng lành tính hoặc ung thư buồng trứng
dựa vào kết quả giải phẫu bệnh sau mổ. Các trường hợp ung thư buồng
trứng chỉ lựa chọn các bệnh nhân ung thư biểu mô và giai đoạn sớm (I,II)
theo phân loại của FIGO 2008.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
+ U nang buồng trứng cơ năng
+ Ung thư buồng trứng typ không biểu mô và giai đoạn muộn (III, IV).
+ UTBT đã điều trị hóa chất trước phẫu thuật
+ Ung thư buồng trứng tái phát hoặc có bất kỳ bệnh ung thư khác kèm theo.
+ Bệnh nhân đang mang thai hoặc bị suy thận giai đoạn cuối hoặc trải qua
cấy ghép cơ thể.
+ Bệnh nhân không có đầy đủ các xét nghiệm siêu âm hoặc cắt lớp vi tính
và các chất chỉ điểm u (CA125,HE4) trước mổ.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Cỡ mẫu
Cỡ mẫu:


24

Áp dụng công thức:

n =


25

25
Trong đó:

n là số bệnh nhân bị u buồng trứng.
là hệ số giới hạn tin cậy, bằng 1,96 2 ứng với độ tin

cậy 95% (α = 0,05)

.

p: Tỷ lệ chẩn đoán đúng ung thư buồng trứng theo một nghiên cứu có
trước, p = 0,82 [33]
q=1 - p = 0,18.
ε là khoảng sai lệch tương đối, chọn giá trị 0,11.
Mẫu được coi là có độ tin cậy khi n > 69,7 bệnh nhân. Dự kiến nghiên cứu
chúng tôi 120 bệnh nhân
2.2.2. Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu kết hợp với tiến cứu.
2.2.3. Phương pháp thu thập thông tin
+ Kiểm tra các tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ, có phù hợp với nghiên
cứu không

+ Thu thập thông tin trong bệnh án đối với nhóm hồi cứu, trực tiếp
tham gia khám, chẩn đoán và phẫu thuật đối với nhóm tiến cứu.
+ Bệnh nhân được chẩn đoán xác định và mô bệnh học dựa trên kết quả
giải phẫu bệnh.
+ Các kết quả được lưu trong mẫu bệnh án nghiên cứu của từng bệnh nhân.
2.2.4. Các bước tiến hành
2.2.4.1. Các chỉ tiêu nghiên cứu
Thu thập hồ sơ bệnh án đạt đủ tiêu chuẩn tại phòng hồ sơ bệnh viện K
và ghi chép theo mẫu bệnh án thống nhất các thông tin sau:
 Hành chính: Họ và tên, tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ, số điện thoại (nếu
có), ngày vào viện, ngày PT, ngày ra viện, số hồ sơ bệnh án.
 Đặc điểm u trên siêu âm:
+ Thấy u/không thấy u
25


×