Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

VĂN HÓA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY NHÌN TỪ MỐI QUAN HỆ VỚI VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.67 KB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
===

VĂN HĨA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
NHÌN TỪ MỐI QUAN HỆ VỚI VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG

ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

Chủ nhiệm đề tài: TS. LÊ THỊ HỒNG VÂN

TP. HCM - 2010

1


MỤC LỤ
YPHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.........................................................................................................5
2. Lịch sử vấn đề........................................................................................................................ 7
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài..........................................................................8
4. Mục tiêu của đề tài................................................................................................................. 9
5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................................9
6. Dự kiến sản phẩm nghiên cứu của đề tài và khả năng ứng dụng.........................................10
7. Cấu trúc của cơng trình nghiên cứu.....................................................................................11
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VĂN HÓA – VĂN HÓA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG VĂN
HÓA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY 12
1.1. Khái niệm về văn hóa và văn hóa pháp luật......................................................................12
1.1.1. Giới thuyết về khái niệm về văn hóa..............................................................................12


1.1.1.1. Khái niệm văn hóa...................................................................................................12
1.1.1.2. Đặc trưng và biểu hiện của văn hóa.........................................................................15
1.1.1.3. Vai trị của văn hóa đối với sự phát triển.................................................................18
1.1.2. Giới thuyết về văn hóa pháp luật...................................................................................19
1.1.2.1. Khái niệm văn hóa pháp luật...................................................................................19
1.1.2.2. Biểu hiện của văn hóa pháp luật..............................................................................22
1.2. Thực trạng của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay....................................................................24

1.2.1. Ý thức và hành vi ứng xử không thượng tôn pháp luật..................................................26
1.2.1.1. Vi phạm trong lĩnh vực giao thông..........................................................................26
1.2.1.2. Vi phạm trong quản lý xây dựng..............................................................................31
1.2.1.3. Vi phạm trong bảo vệ môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm.............................34
1.2.1.4. Sự gia tăng các hành vi bạo lực và ứng xử “luật rừng”............................................41
1.2.2. Tính hiệu lực của các thiết chế thực thi pháp luật và văn bản pháp luật........................50
1.2.2.1. Thực trạng chất lượng của bộ máy công quyền.......................................................50
1.2.2.2. Thực trạng về chất lượng xét xử của tòa án.............................................................60
1.2.2.3. Thực trạng về chất lượng văn bản pháp luật............................................................71
1.3. Đánh giá chung về thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay........................................84
2


1.3.1.Thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay - bức tranh xám màu.84
1.3.2. Các nguyên nhân trực tiếp.............................................................................................85
CHƯƠNG 2: SỰ TÁC ĐỘNG CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐẾN VĂN HÓA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN NAY....................................................................................................................................................88
2.1. Sự tác động của văn hóa nơng nghiệp lúa nước..............................................................................90

2.1.1. Tính cộng đồng..............................................................................................................90
2.1.2. Lối ứng xử trọng tình nhẹ lý..........................................................................................95
2.1.3. Lối sống trọng lệ hơn luật và ứng xử “phép vua thua lệ làng”.......................................98

2.1.4. Tư duy tiểu nông tùy tiện, chủ quan, cảm tính.............................................................105
2.2. Sự tác động của tư tưởng Nho giáo.......................................................................................………… 108

2.2.1. Nho giáo và tư tưởng trong đạo lý hơn pháp lý...........................................................108
2.2.2. Nho giáo và truyền thống “vô tụng”............................................................................110
2.3. Phật giáo với tư tưởng hiếu hòa, nhân ái, vị tha..............................................................117
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO VĂN HÓA PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY........121
3.1. Các giải pháp nền tảng có tính chiến lược........................................................................................117

3.1.1. Thanh lọc, tẩy trừ những tiêu cực, lạc hậu của văn hóa truyền thống..........................122
3.1.1.1. Thay đổi tư duy tiểu nơng tùy tiện, chủ quan, cảm tính.........................................122
3.1.1.2. Thay đổi thói quen ứng xử của văn hóa làng ........................................................122
3.1.2. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại..........................................................................125
3.1.2.1. Tạo điều kiện cho sự phát triển ý thức về quyền cá nhân......................................125
3.1.2.2. Xây dựng ý thức và thói quen sử dụng pháp luật...................................................126
3.2. Các giải pháp cụ thể và cấp bách.........................................................................................................127

3.2.1. Xử lý nghiêm minh, triệt để và kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật.......................127
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các thiết chế thực thi pháp luật...............................128
3.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực ngành Luật vừa hồng vừa chuyên…….…….........................130
3.2.4. Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân…….....….………........................131
KẾT LUẬN………………………………….………………………….…...........................132

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Cơng cuộc đổi mới đất nước hiện nay đặt chúng ta trước nhiều mục tiêu và nhiệm vụ
quan trọng, cấp bách, trong đó có mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền, lấy pháp luật làm

nền tảng điều tiết các hành vi cá nhân và các quan hệ xã hội, hướng đến một xã hội cơng bằng,
dân chủ, văn minh. Vì vậy, những năm gần đây, Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật, cùng với việc tuyên truyền, phổ biến để pháp luật đi vào đời sống,
nhằm từng bước hình thành nếp sống và thói quen hành xử tơn trọng pháp luật.
Nhưng thực tế cho thấy, văn hóa ứng xử với pháp luật trong xã hội ta hiện nay còn nhiều tiêu
cực, biểu hiện từ các hành vi ứng xử với pháp luật của mỗi cá nhân trong đời sống hàng ngày
cho đến trình độ vận dụng công cụ pháp luật của Nhà nước trong quản lí xã hội cũng như việc
thực thi pháp luật trong thực tế… Hệ quả là, thói quen khơng tuân thủ pháp luật, coi thường
pháp luật, lách luật, lối ứng xử tùy tiện với pháp luật… đang tồn tại và biểu hiện rất phổ biến,
không chỉ với dân thường mà ngay cả đối với những cán bộ, công chức trong các cơ quan cơng
quyền; thậm chí, cả với những người đang nắm giữ cán cân công lý của xã hội. Theo đó là sự
gia tăng đến mức báo động các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật.
Những biểu hiện xuống cấp và suy thoái đạo đức, đặc biệt là “ở một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền” đang là nỗi bất bình của tồn xã hội.
Thực trạng ấy đang từng ngày làm ô nhiễm bầu khơng khí tinh thần của xã hội, làm suy giảm
đáng kể lịng tin của người dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật, dẫn đến coi thường kỉ
cương phép nước. Đó cũng chính là những biểu hiện của một đời sống văn hóa pháp luật khơng
lành mạnh, một thái độ ứng xử văn hóa khơng thượng tơn pháp luật.
1.2. Trong bối cảnh xã hội mà sự vi phạm pháp luật trở nên phổ biến và đáng báo động như
hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền càng đặt ra cấp bách và khẩn
thiết hơn bao giờ hết. Trong nhiều bước đi và giải pháp có tính chiến lược và đồng bộ, cần phải
coi việc xây dựng một nền văn hóa pháp luật tích cực, lành mạnh như một nhiệm vụ có tính nền
tảng cần được đưa lên vị trí ưu tiên trong chiến lược phát triển.
Văn hóa pháp luật vừa là một lĩnh vực biểu hiện của văn hóa xã hội, nhưng cũng đồng thời
là sản phẩm của văn hóa xã hội, chịu sự tác động của các yếu tố xã hội như phương thức sản
xuất, các hệ tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán… Sự hình thành văn hóa
pháp luật của một quốc gia, do vậy, khơng thể không bị chi phối bởi những đặc trưng văn hóa
truyền thống. Nói cách khác, q trình hình thành nên một nền văn hoá pháp luật cũng như thái
độ của con người trong việc sử dụng pháp luật đều có thể tìm thấy nguyên nhân sâu xa trong tập
quán sản xuất, nếp sống và những thói quen sinh hoạt…

4


Việt Nam là một quốc gia đã có lịch sử cả ngàn năm tồn tại và phát triển trên nền tảng của
phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước tiểu nông và tư tưởng Nho giáo, nơi mà các chuẩn
mực điều chỉnh hành vi của xã hội dựa trên cơ sở của luật tục hơn là luật pháp, đạo lý hơn là
pháp lý, nay chuyển sang cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nền kinh tế thị trường. Đây
chính là một lực cản rất lớn trong q trình hội nhập, phát triển kinh tế và cao hơn là xây dựng
một nhà nước pháp quyền. Bởi vậy, việc nhận diện văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay nếu
khơng chỉ ra được những căn nguyên sâu xa từ nền tảng văn hóa truyền thống đứng sau những
hiện tượng tiêu cực trong những hành vi ứng xử với pháp luật thì khó có thể tìm ra những giải
pháp có tính chiến lược để xây dựng một nền văn hóa pháp luật Việt Nam tích cực, lành mạnh,
tạo nền tảng để thực hiện thành công công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện
nay.
1.3. Nếu văn hóa được coi là nền tảng, là nội lực của sự phát triển thì văn hóa pháp luật là
nền tảng, là nội lực để thực hiện thành công công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền trong
giai đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập tồn cầu hóa ở nước ta hiện nay. Để mục
tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta được thực hiện thành công, việc xây dựng, tạo lập
một nền tảng văn hóa pháp luật lành mạnh và tích cực đang được đặt ra như một nhiệm vụ cấp
thiết. Một trong những giải pháp có tính nền tảng để thực hiện mục tiêu đó, theo chúng tôi, phải
bắt đầu từ việc giáo dục, trang bị những kiến thức về văn hóa ứng xử với pháp luật, trước hết
cho chính những người hoạt động trong ngành pháp luật, bởi họ khơng chỉ có vai trị làm gương,
đại diện cho văn hóa ứng xử tích cực đối với pháp luật, mà quan trọng hơn, họ cịn có sứ mệnh
“hướng đạo” trong việc xây dựng một nền văn hóa pháp luật lành mạnh, tích cực trong điều kiện
và hoàn cảnh của nước ta hiện nay. Bởi vậy, trong nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo của trường Đại
học Luật, cùng với việc truyền thụ kiến thức pháp lý, khơng nên, và khơng thể coi nhẹ việc giáo
dục tình cảm, đạo lý và thái độ ứng xử nhân văn ngay trong môi trường điều chỉnh của pháp
luật, bởi lẽ, việc nắm vững và áp dụng đúng các điều luật khơng hồn tồn đồng nghĩa với việc
hành xử một cách có văn hóa với pháp luật.
Với tất cả những lý do đó, chúng tơi thực hiện đề tài này với mục đích trước hết, và trực

tiếp nhất, là trang bị cho sinh viên ngành Luật những kiến thức về văn hóa ứng xử với pháp luật,
giúp họ ý thức được mối quan hệ bản chất giữa văn hóa với pháp luật và lý giải được thực trạng
văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay từ những căn nguyên sâu xa của nền tảng văn hóa truyền
thống. Trên cơ sở đó để khi ra trường họ biết cách hành xử có văn hóa trong nghề nghiệp, có ý
thức và trách nhiệm trong việc xây dựng một xã hội có nền văn hóa pháp luật tích cực, lành
mạnh để hội nhập và phát triển.
2. Lịch sử vấn đề
5


Những năm gần đây, khi nhân loại ngày càng ý thức sâu sắc hơn về vai trị của văn hóa với
tư cách là nền tảng của sự phát triển thì các nghiên cứu về văn hóa đang trở thành một vấn đề
được quan tâm đặc biệt. Trong xu thế chung ấy, ở nước ta, trong hơn một thập niên trở lại đây,
việc nghiên cứu văn hóa đã khơng chỉ dừng lại ở những nghiên cứu cơ bản như: bản chất của
văn hóa, cấu trúc, vai trị và chức năng của văn hóa, tác động của văn hóa đối với các lĩnh vực
của đời sống xã hội… mà đang có xu hướng ngày càng đi vào chuyên sâu, gắn với các lĩnh vực
ứng dụng thực tiễn như: văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa du lịch,
văn hóa kinh doanh… Trong đó, văn hóa pháp luật cũng là một lĩnh vực nghiên cứu có ý nghĩa
thực tiễn cao, thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Cho đến nay, đã có khá nhiều
hội thảo và cơng trình nghiên cứu về văn hóa pháp luật đã được thực hiện và công bố như: Xây
dựng ý thức và lối sống theo pháp luật [69]; Văn hóa pháp luật [15]; Văn hóa tư pháp [70];
Văn hóa pháp lý với sự nghiệp đổi mới ở nước ta [20]; Xây dựng nhà nước pháp quyền trong
bối cảnh văn hóa Việt Nam [54]; Văn hóa pháp lý Việt Nam [65]. Ngồi ra cịn có những bài
báo, những cuốn sách chuyên khảo, những hội thảo khoa học dù không trực tiếp đặt vấn đề
nghiên cứu văn hóa pháp luật như một đối tượng khảo sát độc lập nhưng cũng đã đề cập đến
những khía cạnh, đưa ra những cứ liệu đánh giá về thực trạng của đời sống pháp luật ở nước ta
hiện nay như: vấn đề thực thi pháp luật, hiệu quả của pháp luật, vấn đề giáo dục ý thức tuân thủ
pháp luật,…
Các nghiên cứu trên đây, ở những mức độ khác nhau đã hướng sự quan tâm vào các vấn đề:
1. Chỉ ra thực trạng và lý giải nguyên nhân trực tiếp tạo nên thái độ ứng xử với pháp luật

trong xã hội ta hiện nay.
2. Phân tích vai trị của việc xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật trong công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền.
3. Đề xuất các giải pháp để xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, trong số các cơng trình nghiên cứu trên đây chưa có cơng trình nào khảo sát cụ
thể về thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay dựa trên tư liệu là các bài báo được đăng
tải trên các phương tiện thông tin đại chúng trong khoảng thời gian 3 năm lại nay. Cũng chưa có
cơng trình nào đi sâu nghiên cứu và lý giải nguyên nhân của thực trạng văn hóa pháp luật Việt
Nam hiện nay từ sự chi phối của văn hóa truyền thốngnhư một đối tượng nghiên cứu độc lập.
Bởi vậy, đề tài nghiên cứu này sẽ bổ sung thêm những vấn đề nghiên cứu mà những người
đi trước còn bỏ ngỏ, đó là:
- Khảo sát để nhận diện thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay dựa
trên các cứ liệu là những bài báo được đăng tải trên các phương tiện thơng tin báo chí (những tờ
báo có uy tín) trong khoảng 3 năm gần đây.
6


- Nghiên cứu sự tác động, chi phối của các đặc trưng văn hóa truyền thống đến văn hóa
pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vinghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: nhận diện thực trạng tiêu cực trong văn hóa pháp luật ở
Việt Nam hiện nay và lý giải nguyên nhân từ sự chi phối của văn hóa truyền thống.
- Giới hạn phạm vi khảo sát thực trạng là những bài báo được đăng tải trên các tờ báo có
uy tín viết về những biểu hiện tiêu cực trong văn hóa ứng xử với pháp luậttrong thời gian 4
năm trở lại đây.
4. Nhiệm vụ của đề tài
4.1. Chỉ ra và phân tích thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Lý giải nguyên nhân từ sự chi phối của nền tảng văn hóa truyền thống.
4.3. Từ góc nhìn văn hóa để đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao văn hóa pháp luật trong công
cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau
đây:
5.1.Phương pháp thống kê, phân loại:
Để nhận diện thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay, chúng tôi đã sử dụng phương
pháp khảo sát, thống kê, phân loại trên nguồn cứ liệu là các bài báođược đăng tải trên các tờ báo
in và báo điện tử có uy tín trong khoảng 3 năm lại nay. Trong số gần 400 bài báoliên quan đến
văn hóa ứng xử với pháp luật đã được sưu tầm, thống kê, chúng tôi đã lựa chọn hơn 200 bài để
khảo sát và phân loại theo các lĩnh vực là những điểm nóng gây nhiều bức xúc trong dư luận, đó
là:
a) Hành vi ứng xử với pháp luật: vi phạm trong lĩnh vực giao thông; trong quản lý xây
dựng; bảo vệ mơi trường và vệ sinh an tồn thực phẩm; bạo lực và “luật rừng” (ở cả hai phía:
người dân và công chức trong các cơ quan công quyền).
b) Hệ thống pháp luật và các thiết chế pháp luật: hệ thốngvăn bản pháp luật; chất lượng
nguồn nhân lực của các cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật; tính hiệu lực của các thiết chế
pháp luật.
5.2. Phương pháp đồng đại: được sử dụng để phân tích, lý giải các nguyên nhân xã hội đang chi
phối đến văn hóa ứng xử với pháp luật của xã hội ta hiện nay.
5.3. Phương pháp lịch đại: được sử dụng để nghiên cứu sự chi phối của các đặc trưng văn hóa
truyền thống đến văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.
5.4. Phương pháp phân tích, so sánh: được dùng để mổ xẻ, soi xét các nguyên nhân trực tiếp và
gián tiếp chi phối đến các hành vi pháp luật từ nhiều phía, nhiều chiều.
7


5.5. Phương pháp hệ thống: được sử dụng để liên kết, xâu chuỗi các yếu tố trong sự chi phối,
liên đới lẫn nhau trong cả hai tương quan đồng đại và lịch đại.
6. Dự kiến sản phẩm nghiên cứu của đề tài và khả năng ứng dụng
6.1. Đối với nhiệm vụ đào tạo chuyên ngành Luật: sản phẩm nghiên cứu sau khi nghiệm thu đề
nghị được chỉnh lý, bổ sung thành một chương trong nội dung môn Đại cương văn hóa Việt

Nam để giảng dạy cho sinh viên hệ đào tạo cử nhân Luật. Qua đó để:
6.1.1. Tạo sự gắn kết giữa một môn học thuộc khối kiến thức cơ sở ngành với kiến thức
chuyên ngành Luật, để việc giảng dạy mơn Đại cương Văn hóa Việt Nam thể hiện đặc thù riêng
của trường Luật, qua đó nhằm nâng cao tính ứng dụng thực tiễn của mơn học.
6.1.2. Bổ sung thêm những kiến thức về văn hóa pháp luật – một mảng kiến thức rất cần
thiết trong việc hành nghề Luật, nhưng hiện chưa được giảng dạy trong chương trình đào tạo cử
nhân Luật, cụ thể là:
- Trang bị cho sinh viên những tri thức về văn hóa ứng xử với pháp luật cũng như ý thức
một cách sâu sắc về vai trị của văn hóa pháp luật trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay.
- Nhận diện được thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay và lý giải được những
căn nguyên của thực trạng ấy từ sự chi phối của các đặc trưng văn hóa truyền thống, qua đó
nhằm gắn kết những tri thức cơ sở ngành với các tri thức chuyên ngành, giúp sinh viên biết vận
dụng những kiến thức về văn hóa Việt Nam vào việc lý giải những vấn đề trong thực tiễn ứng
xử với pháp luật.
- Việc bổ sung những kiến thức về văn hóa pháp luật nhằm góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Luật một cách toàn diện, vừa “hồng”, vừa “chuyên”,
bởi những tri thức chuyên sâu về pháp luật không đồng nghĩa với chất lượng văn hóa trong thái
độ ứng xử với pháp luật. Việc giáo dục văn hóa ứng xử với pháp luật cho sinh viên Luật, vì vậy,
trước hết để nâng cao chất lượng văn hóa trong hành xử pháp lý cho những người hành nghề
luật, để họ góp phần tích cực vào việc xây dựng một xã hội có nền văn hóa pháp luật cao, khơng
chỉ bằng chính những hành vi mẫu mực của chính mình để “hướng đạo”, nêu gương, mà quan
trọng hơn, họ cịn có khả năng phổ biến, giáo dục văn hóa pháp luật cho nhiều người khác.
6.2. Đối với thực tiễn pháp luật:
Đề tài sau khi hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chịu trách nhiệm soạn
thảo, ban hành các văn bản pháp luật và thực thi pháp luật cũng như những ai quan tâm tìm
hiểu về mối quan hệ giữa văn hóa với pháp luật và thực trạng của văn hóa pháp luật Việt Nam
hiện nay.
7. Cấu trúc của cơng trình nghiên cứu:
8



Cấu trúc của cơng trình nghiên cứu gồm phần mở đầu, phần kết luận và phần nội dung gồm 3
chương:
Chương 1: Khái niệm văn hóa pháp luật và thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay
Chương 2: Sự tác động của văn hóa truyền thống đến văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay
Chương 3: Các giải pháp để nâng cao văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.
Cuối cùng là danh mục tài liệu tham khảo.

9


CHƯƠNG 1
KHÁI NIỆM VĂN HÓA PHÁP LUẬT
VÀ THỰC TRẠNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm về văn hóa và văn hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật là một bộ phận, một lĩnh vực biểu hiện của văn hóa dân tộc, vì vậy để
hiểu văn hóa pháp luật trước hết không thể không bắt đầu từ việc giới thuyết khái niệm văn hóa
với vai trị là cơng cụ lý thuyết nền tảng.
1.1.1. Giới thuyết về khái niệm văn hóa
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là gì? Đó là một câu hỏi mà nhân loại đã tốn không ít giấy mực với hàng trăm câu
trả lời từ những góc nhìn, những cách tiếp cận khác nhau. Định nghĩa đầu tiên về văn hóa gắn
liền với tên tuổi của nhà nhân chủng học nổi tiếng người Anh - Edward Burnett Tylor (18321917). Trong cơng trình nghiên cứu Văn hóa ngun thủy (1871), ơng viết: “Văn hóa hay văn
minh, theo nghĩa rộng về tộc người học nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư
cách là một thành viên của xã hội” [21, 13].
Định nghĩa này của E.B.Tylor vẫn thường được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa trên thế giới
dẫn ra như một mẫu mực có tính kinh điển, trong đó quan niệm văn hóa bao gồm một tổng thể
những thành quả sáng tạo của con người.

Sau công trình nghiên cứu của E.B.Tylor, việc nghiên cứu văn hóa đã được triển khai và mở
rộng theo nhiều hướng khác nhau, cùng với đó là sự ra đời của rất nhiều định nghĩa văn hóa từ
những góc độ tiếp cận khác nhau. Trong cuốn Văn hóa: tổng thuật có phê phán các quan điểm
và định nghĩa, hai nhà văn hóa người Mỹ là A.L.Kroeber và Cluc Khohn đã thống kê được, tính
đến năm 1952, trên các sách báo phương Tây đã có khoảng 150 định nghĩa về văn hóa. Cịn theo
nhà nghiên cứu Phan Ngọc, đến năm 1994, trên thế giới đã có trên 400 định nghĩa về văn hóa.
Ở Việt Nam hiện cũng đã và đang tồn tại nhiều định nghĩa văn hóa, trong đó có thể nêu một
số định nghĩa tiêu biểu:
- Trong cơng trình nghiên cứu Việt Nam văn hóa sử cương xuất bản lần đầu tiên vào năm
1938, học giả Đào Duy Anh quan niệm: “Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các
phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: văn hóa tức là sinh hoạt” [1,
13].
- Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng định nghĩa về văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt
10


ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người
đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [39, 431].
- Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [59, 10].
Số lượng phong phú các định nghĩa về văn hóa đã phản ánh những góc độ tiếp cận khác
nhau, đồng thời cũng cho thấy tính chất phức tạp của vấn đề. Tuy nhiên, phần đông các quan
niệm đều thống nhất khi cho rằng, văn hóa là sản phẩm tất yếu của xã hội, được hình thành
trong hành trình sống của mỗi cộng đồng, khi nó là hệ quả của sự tương tác giữa con người với
môi trường tự nhiên và xã hội, được kết tinh và hiện diện trong mọi hành vi sáng tạo của con
người, được biểu hiện qua tất cả những sản phẩm vật chất và tinh thần do con người làm ra,từ

công cụ sản xuất và các vật dụng sinh hoạt thiết yếu hàng ngày cho đến các sản phẩm nghệ
thuật; từ tri thức khoa học cho đến kinh nghiệm sống… Không chỉ hiện diện trong các sản phẩm
vật chất và tinh thần do con người làm ra, văn hóa đồng thời lại cũng được hàm chứa ngay trong
cái phương thức mà con người tạo ra các sản phẩm đó. Văn hóa cũng là một thành tố có mặt
trong các mối quan hệ xã hội giữa con người với con người, dù đó là quan hệ kinh tế hay tôn
giáo, quan hệ pháp luật hay các quan hệ đời thường… Văn hóa cũng đồng thời là bản thân các
năng lực cấu thành nhân cách con người, từ trí tuệ đến đạo đức; từ tâm hồn đến tình cảm; từ ý
chí đến các năng lực sáng tạo…, tất cả đã hình thành nên lối sống, thói quen, phong tục tập
quán, cách tư duy, ứng xử, qua đó phản ánh kiểu sống, lối suy nghĩ, cách hành xử của con người
trong một môi trường sinh thái - nhân văn cụ thể, làm nên diện mạo riêng của mỗi cộng đồng.
Như vậy, văn hóa phản ánh phương thức sống của một cộng đồng, được hình thành như là
hệ quả tất yếu của sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Tổng hợp tất
cả những phương diện trên,văn hóa bao trùm lên tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống con người,
biểu hiện ở kiểu sống, “kiểu nhân vi”, ở phương thức sinh hoạt của con người, làm nên những
nét riêng tiêu biểu và có tính bền vững, tất cả đều góp phần làm nên đặc trưng riêng của một dân
tộc, tạo ra sự khác biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác.
Khi văn hóa là một hiện tượng phổ quát của nhân sinh, là cái “vô sở bất tại” (không đâu
khơng có), khi nó liên quan đến tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống con người, được biểu hiện vô
cùng phong phú và đa dạng, từ vật chất đến tinh thần, từ vật thể đến phi vật thể, từ hữu hình đến
vơ hình thì mọi góc độ tiếp cận đều khó có thể bao quát hết được phạm vi của nó, cả về phương
diện định tính lẫn định lượng. Và cũng do mỗi lĩnh vực hoạt động của con người đều có sự hiện
diện của văn hóa nên gần đây người ta đã quan tâm nhiều đến việc nghiên cứu và nhận diện văn
hóa theo các lĩnh vực chuyên ngành như: văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa kinh
11


doanh, văn hóa ẩm thực, văn hóa du lịch, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa giao tiếp, văn hóa giao
thơng, văn hóa pháp luật, …
Khơng thể phủ nhận được rằng, trong di sản văn hóa của một dân tộc / cộng đồng bao giờ
cũng kết tinh những giá trị tinh hoa đóng vai trị là nền tảng, cốt lõi, làm điểm tựa để nuôi dưỡng

và bảo tồn sức sống của một dân tộc, bởi con người ở đâu và bao giờ, trong hành trình sống của
mình cũng ln hướng đến những giá trị tích cực, cũng ln khát khao vươn tới chân – thiện –
mỹ. Nhưng mặt khác cũng cần thấy rằng, nếu như văn hóa là một kiểu ứng xử đặc trưng của một
cộng đồng trước những thách thức khác nhau của những điều kiện tự nhiên và xã hội, thì sự ứng
xử có thể thế này hoặc thế kia, có mặt tốt cũng có mặt xấu, có tích cực và cũng có tiêu cực, nhất
là khi những điều kiện tự nhiên và xã hội không phù hợp hay đối lập với các nhu cầu và lợi ích
của con người. Điều đó cũng có nghĩa rằng, trong diện mạo văn hóa của mỗi cộng đồng khơng
chỉ gồm những mặt tích cực, giá trị mà cịn có những nhược điểm, hạn chế. Thêm vào đó, cái
được coi là có giá trị văn hóa cũng khơng phải là những giá trị hằng hữu, bất biến, mà còn được
xem xét tùy thuộc vào các góc nhìn và các tiêu chí đánh giá khác nhau. Xét từ phương diện
đồng đại, cùng một đặc trưng văn hóa nhưng có thể có giá trị xét trên tiêu chí này mà lại khơng
có giá trị, thậm chí phản giá trị xét từ góc nhìn khác. Ví dụ, tính cộng đồng có giá trị khi nó tạo
nên tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, lối sống sẻ chia, đùm bọc – một truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta, nhưng xét trên phương diện bảo vệ quyền cá nhân hay quan hệ với pháp luật
thì đây lại là nguyên nhân tạo nên nhiều hạn chế và những ứng xử tiêu cực. Xét trên phương
diện lịch đại, các thước đo giá trị cũng không phải bất biến, vĩnh cửu, bởi vậy, một đặc trưng
văn hóa nào đó ở giai đoạn này thì có giá trị tích cực nhưng ở giai đoạn khác thì lại trở thành
phản giá trị, thành lực cản khi nó khơng cịn phù hợp để thích nghi trong bối cảnh mới.
Bởi vậy, việc nghiên cứu, nhận diện văn hóa của một dân tộc cần có một cái nhìn tồn diện
và biện chứng, trong đó khơng chỉ hướng đến việc khẳng định những mặt tích cực, giá trị mà
còn cần phải nhận diện cả những nhược điểm, những tiêu cực, hạn chế khi nó cũng là một phần
tất yếu trong hành trang tinh thần của một dân tộc.
1.1.1.2. Đặc trưng và biểu hiện của văn hóa
Là một hình thái ý thức xã hội, văn hóa cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, đều là sản
phẩm của một thực tiễn xã hội cụ thể, và đến lượt mình, nó lại phản ánh, tác động trở lại thực
tiễn xã hội ấy. Tuy nhiên, trong tương quan với các hình thái ý thức xã hội khác, văn hóa là một
hình thái ý thức xã hội đặc biệt. Tính chất đặc biệt ấy được xác định bởi ba đặc trưng tiêu biểu:
tính đa diện và tổng hợp, tính hệ thống, tính truyền thống.
Trước hết, văn hóa là một hình thái ý thức xã hội có tính đa diện và tổng hợp,bởi nó thẩm
thấu và hiện diện trong mọi hoạt động sống của con người. Văn hóa do không tồn tại như một

lĩnh vực độc lập, không có giá trị tự thân, nên cũng chính vì vậy mà nó hiện diện khắp nơi,
12


khơng đâu khơng có, thẩm thấu vào tất cả mọi phương diện của đời sống xã hội. Văn hóa do đó
là một khái niệm có tính tổng hợp - đó là dấu ấn về lối sống của một cộng đồng in dấu lên mọi
hoạt động vật chất (cách thức lao động sản xuất, ăn, mặc, ở, đi lại), mọi mặt sinh hoạt tinh thần
(nhận thức, tư tưởng, tôn giáo, phong tục, tín ngưỡng, ngơn ngữ, nghệ thuật, giao tiếp ứng xử, lễ
hội…), mọi quan hệ gia đình, xã hội (được qui chế thành đạo đức, nghi lễ, pháp luật…). Tổng
hợp tất cả những điều đó mới làm nên cái diện mạo riêng trong mô thức ứng xử, trong phương
thức sống của một cộng đồng, khiến cho cộng đồng này không giống với các cộng đồng khác.
Do tính đa diện và tổng hợp, văn hóa như một bầu khí quyển bao trùm lên cuộc sống của chúng
ta, khiến cho - một cách tự nhiên và tất yếu, mọi người đều không thể sống ngồi “bầu khí
quyển văn hóa” ấy.
Tính đa diện cũng chi phối đến một đặc trưng khác của văn hóa, đó là tính hệ thống. Văn hóa
do nhiều thành tố hợp thành, nhưng giữa các thành tố trong cấu trúc của một nền văn hóa khơng
tồn tại như là những đơn vị rời rạc, riêng lẻ, độc lập, mà giữa chúng có các mối liên hệ nhiều
mặt, nhiều chiều, đan cài, móc xích, qui định và thẩm thấu vào nhau tạo thành hệ thống, trong
đó yếu tố này là nguyên nhân và hệ quả của những yếu tố khác. Do đó,trong thực tế, khơng thể
tách bạch các thành tố của hệ thống văn hóa vì chúng tồn tại trong sự gắn bó hữu cơ, lồng vào
nhau như tâm hồn và thể xác, làm thành diện mạo của một nền văn hóa với một tổng thể các sản
phẩm vật chất và tinh thần.
Vì văn hóa có tính hệ thống nên khi khảo sát một hiện tượng văn hóa, khơng thể khơng đặt
hiện tượng ấy trong tính hệ thống, trong sự chi phối, ràng buộc lẫn nhau giữa nhiều yếu tố làm
nên hệ thống trong các tương quan đồng đại.
Cùng với tính hệ thống, một trong những đặc trưng tiêu biểu của văn hóa là tính truyền
thống. Nếu văn minh là sản phẩm có tính thời đoạn thì văn hóa là sản phẩm của tính q trình,
được tích lũy qua nhiều thế hệ, được kế thừa và trao truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Bởi
vậy văn hóa là di sản tinh thần tồn tại ổn định và có sức sống lâu bền, thẩm thấu trong chiều sâu
tâm thức của cộng đồng để trở thành hành trang tinh thần mà mỗi cộng đồng mang theo khi

bước từ thời đại này sang thời đại khác. Truyền thống của văn hóa của một dân tộc được biểu
hiện qua các di sản văn hóa, bao gồm hai bộ phận, đó là di sản vật thể (hữu hình) như: đền,
chùa, lăng tẩm, nhà cửa, công cụ sản xuất, vật dụng… và các di sản văn hóa phi vật thể tồn tại
dưới dạng tinh thần, ẩn trong chiều sâu tâm thức cộng đồng, đó là những kinh nghiệm tập thể
được lưu truyền trong qua không gian và thời gian, được đúc kết thành mô thức ứng xử xã hội,
biểu hiện thông qua ngôn ngữ, lối sống, ẩm thực, phong tục, tập quán, nghi lễ, pháp luật, nghệ
thuật, … tạo thành nếp sống chung của cộng đồng. Chính mơ thức ứng xử đảm bảo cho các
thành viên trong cộng đồng có sự gắn kết với nhau, tạo nên một nếp sống chung ổn định và bền
vững.
13


Về biểu hiện của văn hóa, nhà nghiên cứu Phạm Đức Dương đã đưa ra quan niệm về một sơ
đồ cấu trúc hai tầng bậc: cấu trúc bề mặt và cấu trúc chiều sâu. Cấu trúc bề mặt gồm hệ thống ký
hiệu biểu thị và hệ thống ký hiệu biểu tượng, đó là biến số, yếu tố động của văn hóa; cịn cấu
trúc chiều sâu là cái phần chìm, khó nhìn thấy, nó nằm trong tâm thức của con người, là yếu tố
tĩnh của văn hóa, được kết tinh và tồn tại trong tiềm thức của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng
trong suốt hành trình sống. Giải thích về mối quan hệ giữa hai tầng cấu trúc này, ông nói: “Cấu
trúc chiều sâu là cái kết tinh, lắng đọng nằm ẩn dưới cơ tầng đóng vai trị định hướng, điều
chỉnh mọi sự biến đổi trên cấu trúc bề mặt, quy định bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng và
nhân cách của mỗi cá nhân, định hình nền văn hóa của mỗi dân tộc trong khơng gian và thời
gian [14; 221]. Cấu trúc chiều sâu của văn hóa đó là ý thức, là các năng lực tinh thần của con
người bao gồm tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, kinh nghiệm sống và thói quen, phong
tục, tập qn… được hình thành trong một mơi trường sinh thái và nhân văn cụ thể. C ấu trúc
chiều sâu của văn hóa ẩn chứa trong ý thức, tiềm thức của con người, tuy khơng dễ nhận ra, và
lại càng khó khăn hơn để có thể mơ tả, nhận diện, nhưng đó là nền tảng để hình thành nên các
quy tắc hướng dẫn tư duy, điều chỉnh hành vi ứng xử và phương thức hành động, cũng như sự
lựa chọn các thang bậc giá trị trong xã hội và chi phối mọi hoạt động thực tiễn của con người.
Chính cái cấu trúc chiều sâu khiến cho “văn hóa là cái cịn lại khi người ta đã quên đi tất cả”.
Bởi vậy, để nhận diện một hiện tượng văn hóa, khơng thể giản đơn chỉ dừng lại ở việc mô tả,

liệt kê các hiện tượng ở cấp độ bề mặt, tức không chỉ trả lời câu hỏi “cái gì?”, “như thế nào?”,
mà quan trọng hơn là phải trả lời được câu hỏi “tại sao lại như thế?”, tức là phải chỉ ra được cái
cấu trúc chiều sâu, phải lý giải được những căn nguyên sâu xa từ trong ý thức, tiềm thức chi
phối các hiện tượng bề mặt ấy.
1.1.1.3. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển
Trong nỗ lực tìm kiếm động lực của sự phát triển bền vững, văn hoá hiện đang là vấn đề
được đặc biệt quan tâm trong việc hoạch định chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, bởi con
người là nhân tố quyết định sự phát triển, nhưng con người trước hết là một thực thể văn hóa.
Nền tảng của sự tăng trưởng bền vững ở ngay trong tiềm lực con người, ở năng lực trí tuệ và
khả năng sáng tạo của con người, ở trong đạo đức và động cơ hành động của con người, tức là ở
trong văn hóa. Nói đến con người là nói đến văn hóa; văn hóa là nơi thể hiện sức mạnh bản chất
của con người, là công cụ điều chỉnh một cách tự nhiên nhất, trên phạm vi rộng lớn nhất, tinh tế
nhưng cũng mạnh mẽ nhất đối với nhận thức, hành động và cách ứng xử của con người. Một khi
nhân cách văn hóa là nội lực của con người, nó “thấm sâu vào tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của
con người”, “xuyên suốt cơ thể xã hội”, thì triết lý của sự phát triển tất yếu phải được xây dựng
trên nền tảng văn hóa. Điều này đã được thể hiện trong Nghị quyết của UNESCO về phát triển:
“Khái niệm phát triển phải bao gồm các nhân tố kinh tế và xã hội, cũng như các giá trị đạo đức
14


và văn hóa, qui định sự nảy nở và phẩm giá của con người trong xã hội. Nếu như con người là
nguồn lực của phát triển, nếu như con người vừa là tác nhân lại vừa là người được hưởng, thì
con người phải được coi chủ yếu như là sự biện minh và là mục đích của sự phát triển”, bởi vì
“kinh nghiệm của hai thập kỉ vừa qua cho thấy rằng, trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở trình
độ phát triển kinh tế nào, hoặc xu hướng chính trị và kinh tế nào, văn hóa và phát triển là hai
mặt gắn liền với nhau”. Chính vì lẽ đó, năm 1988 UNESCO đã phát động “Thập kỉ thế giới phát
triển văn hóa” và đã nhận được sự hưởng ứng rộng rãi của các quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, trong suốt tiến trình cách mạng, đặc biệt là từ khi đất nước bước vào công cuộc
đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập tồn cầu hóa, Đảng ta ln ý thức
sâu sắc về vai trị của văn hóa trong sự phát triển của xã hội. Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành

Trung ương Đảng khóa VIII đã ra Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trong đó khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [39, 55]. Cùng với
việc nhấn mạnh vai trò đặc biệt của văn hóa, Nghị quyết cịn đề ra phương châm phải gắn kết
những vấn đề văn hóa với những vấn đề kinh tế - xã hội: “Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt
chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật
kỉ cương… biến thành nguồn nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển” [27]. Vấn đề càng trở
nên cấp bách hơn trong giai đoạn hiện nay, trước một thực tế đáng lo ngại đã và đang diễn ra, đó
là trong khi mức sống, thu nhập quốc dân ngày càng được cải thiện thì đạo đức xã hội lại đang
xuống cấp ở mức đáng báo động, lối sống chạy theo đồng tiền đang chi phối và làm khuynh đảo
nhiều giá trị, các tệ nạn xã hội đang gia tăng ngày càng phức tạp hơn… Đó là những biểu hiện
đáng báo động của tình trạng mất cân đối giữa văn hóa và phát triển. Bởi vậy, hơn lúc nào hết,
trong bối cảnh Việt Nam ở giai đoạn quá độ hiện nay, nhân tố văn hóa cần phải được coi là nền
tảng, là nội lực của sự phát triển.
1.1.2. Giới thuyết về văn hóa pháp luật
1.1.2.1. Khái niệm văn hóa pháp luật
Nếu văn hóa là một phạm trù xã hội để chỉ phương thức sống đặc trưng của một cộng đồng,
biểu hiện thông qua sự ứng xử giữa con người với mơi trường tự nhiên và xã hội, thì văn hoá
pháp luật thuộc về lĩnh vực ứng xử xã hội, đó là tổng thể các hành vi thể hiện sự ứng xử của con
người trong môi trường điều chỉnh của pháp luật, là sự hiện thực hóa năng lực tinh thần và ý
thức của con người trong các hoạt động pháp luật. Do đó, văn hóa pháp luật là một lĩnh vực biểu
hiện của văn hóa – văn hóa xứng xử với pháp luật.
Nếu như các đặc trưng văn hoá của một cộng đồng xuất hiện cùng với sự hình thành tổ chức
xã hội từ buổi sơ khai, thì văn hố pháp luật hình thành muộn hơn, khi các qui tắc ứng xử của
con người được đặt trong sự kiểm sốt của pháp luật. Nếu văn hóa là một khái niệm đa diện và
15


mơ hồ, thì văn hóa pháp luật với tư cách là một lĩnh vực biểu hiện đặc thù của văn hóa nên cũng
là một khái niệm rất khó minh định. Bởi vậy, hiện nay trong khoa học pháp lý cũng như trong

lĩnh vực nghiên cứu văn hóa chuyên ngành chưa có một quan niệm thật thống nhất về văn hóa
pháp luật.
Trước hết, về thuật ngữ, hiện nay ở Việt Nam người ta đang dùng hai thuật ngữ: văn hóa
pháp luật và văn hóa pháp lý. Các tác giả như Lê Đức Tiết [65] Trần Ngọc Đường [20], Lê
Vương Long [37] dùng thuật ngữ văn hóa pháp lý. Cịn các tác giả Lê Minh Tâm, Nguyễn
Thanh Thập, Vũ Thị Kim Dung [15, 134], Phạm Duy Nghĩa [47] thì dùng thuật ngữ văn hóa
pháp luật. Vậy nên dùng thuật ngữ nào thì hợp lý hơn?
Trong Từ điển tiếng Việt, từ pháp lý có nghĩa là: “lý luận, nguyên lý về pháp luật”; còn pháp
luật là “những qui phạm hành vi do nhà nước ban hành mà mọi người dân buộc phải tuân theo
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và bảo vệ trật tự xã hội”. Như vậy, thuật ngữ pháp lý thiên
về phương diện lý thuyết, là những nguyên lý, ngun tắc có tính phương pháp luận soi rọi và
chi phối mọi hoạt động pháp luật cụ thể. Còn thuật ngữ pháp luật thiên về chỉ thực tiễn xã hội
của đời sống pháp luật, đó là sự hiện thực hóa những tư tưởng, quan điểm, nguyên lý, nguyên
tắc của pháp luật thông qua việc xây dựng và thực thi pháp luật của nhà nước cũng như các hành
vi, lối sống và ứng xử của xã hội trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Bởi vậy, theo chúng
tôi, dùng thuật ngữ văn hóa pháp luật hợp lý hơn, khi nó bao quát được thực tiễn xã hội của đời
sống pháp luật với tất cả những biểu hiện phong phú và đa dạng của nó, và hiển nhiên, đằng sau
thực tiễn xã hội của pháp luật là sự chi phối của những tư tưởng, quan điểm, nguyên lý, nguyên
tắc của pháp luật.
Về khái niệm văn hóa pháp luật, trong cơng trình nghiên cứu Văn hóa pháp luật và phát
triển văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả Nguyễn Thanh Thập [15, 47] và Vũ Thị
Kim Dung [15, 134] đã đưa ra các định nghĩa như sau: “Văn hóa pháp luật là những giá trị
nhân đạo, tiến bộ, tích cực của pháp luật trong xã hội, được thể hiện thông qua các bộ luật, các
điều luật. Đồng thời các giá trị đó cịn được thể hiện trong các hoạt động pháp luật, thẩm thấu
vào nhận thức và hành động của mỗi cá nhân, biến thành nhu cầu thường trực trong ứng xử của
họ”. Còn tác giả Lê Minh Tâm [15] thì cho rằng: “Văn hóa pháp luật là tổng thể những giá trị
vật chất và tinh thần mà con người đã sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật, bao gồm hệ thống
qui phạm pháp luật được ban hành trong các thời kì lịch sử, những tư tưởng, quan điểm, luận
điểm, nguyên lý, nguyên tắc, những tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói
quen tích lũy được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật…” [15, 147].

Như vậy, với các định nghĩa trên đây, khái niệm văn hóa pháp luật chỉ được hiểu đồng nghĩa
với những mặt tích cực của đời sống pháp luật, theo đó, văn hóa pháp luật chỉ có được trong một
môi trường pháp luật tiến bộ, lành mạnh và giàu tính nhân văn, trong đó pháp luật vừa có sức
16


mạnh và tính hiệu lực cao, đồng thời cũng là một chuẩn mực ứng xử được tuân thủ một cách tự
nhiên, tự nguyện.
Tuy nhiên, nếu quan niệm văn hóa là tất cả những gì thuộc về phương thức sống của một
cộng đồng, với tất cả những ưu điểm và nhược điểm như là hệ quả tất yếu của sự thích nghi và
ứng phó với các điều kiện tự nhiên và xã hội, thì văn hóa pháp luật cũng được hình thành và tồn
tại một cách khách quan và tất yếu trong những môi trường xã hội được điều chỉnh bởi các qui
phạm pháp luật. Trong môi trường điều chỉnh của pháp luật, hành vi pháp luật là hành động có ý
thức của con người, đó có thể là hành vi hợp pháp, tức phù hợp qui phạm pháp luật, nhưng cũng
có thể là hành vi bất hợp pháp, tức là trái với qui định của pháp luật. Dù hợp pháp hay khơng
hợp pháp, tích cực hay tiêu cực, nhưng khi nó được thực hiện thường xuyên, phổ biến đến mức
như một thói quen tự nhiên, tất yếu thì khi đó nó đã trở thành một ứng xử “văn hóa”. Do vậy,
theo chúng tơi, cũng như văn hố nói chung, khái niệm văn hóa pháp luật cần được hiểu khơng
đồng nghĩa với những hành vi ứng xử tích cực với pháp luật mà còn bao hàm cả những hành vi
ứng xử tiêu cực của cá nhân/cộng đồng trong những môi trường điều chỉnh của pháp luật.
Tóm lại, văn hóa pháp luật là sự ứng xử của con người trong môi trường những điều chỉnh
của pháp luật, bao gồm tri thức, tư tưởng, quan điểm, thái độ, kinh nghiệm và thói quen, được
tích lũy trong q trình xây dựng và thực thi pháp luật, được biểu hiện qua văn bản pháp luật,
hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật và hành vi ứng xử với pháp luật.
Vì văn hóa pháp luật là một bộ phận, một lĩnh vực biểu hiện của văn hóa xã hội,do đó, việc
nghiên cứu văn hóa pháp luật của một quốc gia ở một giai đoạn cụ thể địi hỏi chúng ta phải đặt
nó trong mối tương quan và sự liên hệ với các lĩnh vực khác của văn hóa nói chung cũng như
với mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội.
1.1.2.2. Biểu hiện của văn hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật là một thành tố, một bộ phận, một lĩnh vực biểu hiện đặc thù của văn hóa

xã hội, đó là lĩnh vực ứng xử với pháp luật, bởi vậy nó cũng mang những đặc trưng chung của
văn hóa. Tuy nhiên, nói đến văn hóa là nói đến sự tự do, tự nguyện, là thói quen trong sự lựa
chọn hành vi, trong khi đó thì pháp luật lại là cơng cụ điều chỉnh xã hội có tính áp đặt, cưỡng
bức. Bởi vậy, nếu pháp luật được thực hiện dựa trên sự cưỡng bức thì nó chưa trở thành hành vi
mang tính văn hóa. Nói cách khác, các hành vi ứng xử với pháp luật (dù tích cực hay tiêu cực)
chỉ trở thành cái văn hóa khi người ta thực hiện các hành vi ấy trên tinh thần tự do, như một thói
quen tự nhiên và tất yếu. Theo đó, một xã hội có nền văn hóa pháp luật cao là một xã hội mà
trong đó các qui phạm pháp luật được đối xử như là chuẩn mực của đạo đức và lương tâm, tức
là khi pháp luật khơng cịn là một cơng cụ cưỡng bức mà được thực thi một cách tự nhiên, tự
nguyện.
17


Xét về mặt kết cấu, văn hóa pháp luật là bộ phận cấu thành của một nền văn hóa nói chung.
Nếu các đặc trưng văn hóa của một dân tộc được biểu hiện qua các sản phẩm vật chất, các sản
phẩm tinh thần, các thói quen trong lối sống và hành vi ứng xử, thì cũng có thể nhận diện văn
hóa pháp luật qua các phương diện biểu hiện như: ý thức pháp luật, hệ thống và các thiết chế
pháp luật, lối sống và hành vi ứng xử với pháp luật.
a) Ý thức pháp luật (luật trong suy nghĩ và thái độ): “Là tổng thể những học thuyết, tư
tưởng, quan điểm, quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối
với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có; thể hiện sự đánh giá về
tính hợp pháp hay không hợp pháp trong trong hành vi xử sự của con người, cũng như trong tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội” [16, 421]. Ý thức pháp luật
phản ánh:
- Trình độ hiểu biết về pháp luật, đó là các tri thức, tư tưởng, quan điểm về pháp luật, là trình
độ nhận thức và mức độ am hiểu pháp luật của các tầng lớp nhân dân, kể cả bộ phận cán bộ
công chức trong các cơ quan có chức năng trực tiếp áp dụng, thi hành và bảo vệ pháp luật.
- Thái độ đối với pháp luật: đó là tâm lý, tình cảm, niềm tin, ý thức tôn trọng và tự giác chấp
hành hay coi thường pháp luật; thái độ lạc quan / bi quan, hy vọng / thất vọng, quan tâm / thờ ơ,
nhiệt tình / lãnh đạm... đối với pháp luật. Một xã hội có văn hóa pháp luật cao khi các thành viên

xã hội có trình độ hiểu biết về pháp luật, có ý thức tơn trọng pháp luật, có thái độ tích cực phản
ứng, lên án những hành vi vi phạm pháp luật.
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, bởi vậy nó chịu sự qui định của tồn tại xã
hội, là sản phẩm và cũng là sự phản ánh những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Tuy nhiên, ý
thức pháp luật cũng như ý thức xã hội nói chung, thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội. Bằng chứng
là, khi tồn tại xã hội đã thay đổi nhưng ý thức xã hội nói chung và ý thức pháp luật nói riêng vẫn
còn tồn tại dai dẳng như là những tàn dư của quá khứ được kế thừa trong hiện tại. Do đó ý thức
pháp luật (đặc biệt là tâm lý pháp luật) là lĩnh vực mà ở đó truyền thống và các thói quen có một
vai trị chi phối khơng nhỏ.
b) Hành vi ứng xử với pháp luật (luật trong hành xử thực tế): là những phản ứng, cách ứng
xử được biểu hiện ra bên ngoài của con người trong các mối quan hệ mà pháp luật điều chỉnh.
Hành vi pháp luật được biểu hiện dưới hai dạng: hành vi hợp pháp (phù hợp với qui định của
pháp luật) và hành vi không hợp pháp (vi phạm pháp luật, bất chấp pháp luật, lách luật…). Hành
vi ứng xử với pháp luật là sự biểu hiện ý thức pháp luật (thái độ, tình cảm, niềm tin) của mỗi cá
nhân/ cộng đồng trong môi trường điều chỉnh của pháp luật.
c) Văn bản pháp luật và hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật: bao gồm hệ thống văn bản
pháp luật (luật trên giấy) và hệ thống tổ chức và hoạt động của các thiết chế lập pháp, hành
pháp, tư pháp , đó cũng là các phương diện hiện thực hóa của ý thức pháp luật. Trong đó, hệ
18


thống văn bản pháp luật vừa là sản phẩm, vừa là cơ sở để các thiết chế thực thi pháp luật có thể
hoạt động; đến lượt mình, các thiết chế thực thi pháp luật lại là công cụ để hiện thực hóa các văn
bản pháp luật. Theo đó, tính hiệu quả của hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật vừa là thước
đo chất lượng của văn bản pháp luật, lại vừa thể hiện khả năng, trình độ vận dụng kiến thức và
công cụ pháp luật của nhà nước trong việc quản lý xã hội.
Như vậy, để nhận diện một nền văn hóa pháp luật cần có một cái nhìn tổng hợp và bao quát
từ tất cả các phương diện trên đây, bởi trong thực tế, ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật và
hành vi pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại, là tiền đề và hệ quả của nhau. Ý thức pháp
luật có vai trị chỉ đạo việc xây dựng chính sách pháp luật và hệ thống pháp luật của nhà nước

cũng như việc thực hiện hành vi pháp luật của cá nhân. Ngược lại, chính sách và hệ thống pháp
luật có vai trị định hướng cho việc giáo dục ý thức pháp luật và hành vi pháp luật. Đến lượt
mình, ý thức pháp luật và hành vi pháp luật lại tác động trở lại q trình phát triển và hồn thiện
chính sách và hệ thống các thiết chế thực thi pháp luật. Như thế, ý thức pháp luật và hành vi
pháp luật vừa là thước đo, vừa là bằng chứng thể hiện hiệu quả xã hội của một chính sách pháp
luật và hệ thống pháp luật.
1.1.3. Quan hệ giữa văn hóa với pháp luật
Trong cuộc sống, cả văn hóa và pháp luật đều có chức năng điều chỉnh hành vi của con
người, bởi vì, mọi tổ chức xã hội đều chỉ có thể duy trì được sự tồn tại trên cơ sở của sự thỏa
thuận giữa các thành viên trong cộng đồng. Sự thỏa thuận này được thể hiện dưới hai hình thức:
luật thành văn - đó là luật pháp, và luật bất thành văn – đó là các qui tắc cộng đồng biểu hiện
dưới dạng phong tục, tập quán, lối sống, thói quen…, được mọi người tuân thủ một cách tự giác
đến mức tự nhiên, thậm chí như là vơ thức - đó là văn hóa. Trong mối quan hệ này, “văn hóa có
một ảnh hưởng khơng thể phủ nhận đối với pháp luật. Văn hóa chính là cuộc sống, do đó, việc
xây dựng pháp luật, theo lẽ tự nhiên, phải dựa trên những kinh nghiệm văn hóa, tức là pháp luật
phải có khả năng biến thành văn hóa để điều chỉnh cuộc sống” [2]. Chính vì vậy, kinh nghiệm
văn hóa là nền tảng quan trọng nhất để xây dựng pháp luật.
Đồng thời, cũng chính trong lĩnh vực hoạt động pháp luật, văn hóa có khả năng hiện thực
hóa những năng lực nhân tính, phát huy vai trị và tăng cường hiệu quả của pháp luật trong xã
hội. Đến lượt mình, tính hiệu quả của pháp luật trong xã hội là chỉ số, là thước đo chất lượng
Chân – Thiện – Mỹ của một nền văn hóa. Do đó, để hiểu pháp luật chúng ta phải hiểu thực tiễn
xã hội của pháp luật. Hiểu thực tiễn xã hội của pháp luật cũng tức là chúng ta phải hiểu văn hoá
chung của xã hội nơi có sự tồn tại của pháp luật.
1.2. Thực trạng của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay
Trong tiến trình hội nhập và phát triển, Việt Nam đang nỗ lực để thực hiện các mục tiêu kinh
tế - xã hội nhằm hiện đại hóa đất nước, trong đó xây dựng nhà nước pháp quyền được xác định
19


là một mục tiêu quan trọng. Nhưng một thực trạng đáng báo động là văn hóa pháp luật Việt

Nam hiện nay đang bộc lộ nhiều tiêu cực. Cách hành xử không thượng tôn pháp luật đang diễn
ra hàng ngày, ở mọi nơi, mọi lúc, với mọi đối tượng,dưới nhiều hình thức biểu hiện đa dạng và
phức tạp. Tình trạng này không chỉ diễn ra đối với một bộ phận không nhỏ người dân, mà cả các
cơ quan công quyền, trong đó các cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luậtcũng khơng phải là ngoại
lệ. Đây chính là một lực cản rất lớn trong việc thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nhà
nước pháp quyền. Trong bối cảnh ấy, việc chỉ ra thực trạng văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay
để từ đó tìm ra ngun nhân và các giải pháp khắc phục trở thành một yêu cầu cần thiết và cấp
bách.
Để nhận diện thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay, trong phạm vi hạn chế của đề
tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, chúng tơi khơng có điều kiện về thời gian và kinh phí để
thực hiện sự khảo sát bằng phương pháp điều tra xã hội học trên các nhóm đối tượng, mà chỉ
căn cứ trên cứ liệu là những thông tin được đăng tải trên báo chí, bởi với hàng trăm tờ báo được
xuất bản hàng ngày, kể cả báo in và báo điện tử, thì đây là một kênh thông tin phong phú, đa
diện, phản ánh nhanh nhạy và kịp thời mọi diễn biến của đời sống hàng ngày. Khảo sát qua cơng
cụ tìm kiếm Google cũng cho thấy các cụm từ liên quan đến thái độ và hành vi ứng xử với pháp
luật xuất hiện với một số lượng rất lớn trên các phương tiện thông tin báo chí. Điển hình là các
cụm từ như: “khơng tn thủ pháp luật” (97.100 lượt); “coi thường pháp luật” (1.280.000 lượt);
“vi phạm pháp luật” (23.500 lượt); “nhờn luật” (19.600 lượt); “thách thức pháp luật” (204.000
lượt); “luật rừng” (142.000 lượt); “lách luật” (187.000 lượt); “phép vua thua lệ làng” (169.000
lượt); “chạy án” (184.000 lượt), “nạn mãi lộ” (41.000 lượt)… Dù những con số này, do sự trùng
lặp có thể là nhiều lần nên khơng thể là căn cứ để có thể đưa ra những kết luận chính xác, song
dù có trừ đi một số phần trăm đáng kể do sự trùng lặp thì cũng khơng thể khơng coi đây là
những “con số biết nói” về một thực trạng đáng báo động trong thái độ và hành vi ứng xử với
pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khách quan, khoa học và sự tin cậy của thông tin, chúng
tôi đã lựa chọn các bài báo tiêu biểu để khảo sát, dựa trên các tiêu chí sau đây:
a) Những bài báo được đăng tải trên những tờ báo lớn, có uy tín trong công luận như: Pháp
luật Việt Nam, Pháp luật TP HCM, Đời sống & Pháp luật, Vietnamnet, Dân trí, Lao động,
Người lao động, Đại đoàn kết, Tuổi trẻ, Tiền phong, Thanh niên, VN Express, Sài Gòn tiếp thị,
Doanh nhân Sài Gòn, Thời báo Kinh tế Sài Gịn, Nhà báo & Cơng luận, Gia đình & Xã hội,…
b) Về thời gian: lựa chọn những bài báo phản ánh những sự việc xẩy ra trong thời gian

khoảng ba năm gần đây, đặc biệt ưu tiên hơn cho những bài báo phản ánh những sự việc cịn
nóng hổi tính thời sự.

20


c) Về nội dung: lựa chọn những bài báo phản ánh trực tiếp về thực trạng tiêu cực của văn
hóa pháp luật biểu hiện qua hai phương diện chủ yếu: 1) Ý thức và hành vi ứng xử với pháp
luật; 2) Hệ thống và các thiết chế thực thi pháp luật.
d) Về tính chất của sự việc: lựa chọn những bài báo phản ánh những sự việc nổi cộm được
nhiều người quan tâm, gây nhiều phản ứng và bức xúc trong dư luận xã hội.
Với các tiêu chí trên, trong số cả hàng trăm bài báo đề cập đến những vấn đề liên quan,
chúng tôi đã lựa chọn gần 200 bài báo làm cứ liệu để khảo sát nhằm đem lại một cái nhìn từ cận
cảnh đến bao quátvềmặt trái của thực trạng văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay.
Sau đây là phần nhận diện thực trạng tiêu cực của văn hóa pháp luật Việt Nam hiện nay qua
việc tổng thuật các bài báo:
1.2.1. Ý thức và hành vi ứng xử không thượng tôn pháp luật
Để nhận diện ý thức và hành vi pháp luật với tư cách là các lĩnh vực biểu hiện trực tiếp của
văn hóa ứng xử với pháp luật, chúng tôi khảo sát vấn đề đối với cả hai đối tượng: người dân –
đối tượng chịu sự điều chỉnh của pháp luật và các cơ quan công quyền – đối tượng chịu trách
nhiệm thực thi pháp luật. Các cứ liệu khảo sát cho thấy, thực trạng về các hành vi ứng xử không
tôn trọng pháp luật ở nước ta hiện nay đang diễn ra ở mức độ trầm trọng đáng báo động. Trong
gần 100 bài báo được khảo sát, có thể thấy các cụm từ như: “không tuân thủ pháp luật”, “vi
phạm pháp luật”, “coi thường pháp luật”, “nhờn luật”, “thách thức pháp luật”, “xử kiểu luật
rừng”… xuất hiện với một tần suất rất cao để chỉ các hành vi ứng xử không thượng tôn pháp
luật diễn ra ở cả hai phía – người dân và các cơ quan công quyền. Những hành vi nàyđã và đang
diễn ra ở mọi nơi mọi lúc, mọi việc, nhưng tiêu biểu và điển hình nhất là trong các lĩnh vực như
giao thông, quản lý xây dựng, ô nhiễm mơi trường và vệ sinh an tồn thực phẩm, các hành vi
bạo lực và ứng xử “luật rừng”…
1.2.1.1.Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông

Nếu như ở các nước văn minh, các hành vi tham gia giao thông nhất nhất đều tuyệt đối tuân
thủ pháp luật, thì ở nước ta hiện nay, văn hóa giao thơng đang ở trong tình trạng hỗn độn đến
mức khó kiểm sốt, biểu hiện rõ qua việc gia tăng các vụ tai nạn giao thông hàng năm cũng như
các hành vi vi phạm luật giao thông đã trở nên phổ biến đến mức trở thành bình thường. Trong
bài báoÝ thức chấp hành luật giao thông kém do đâu? tác giả Bùi Văn Kiên đã chứng minh
bằng những con số cụ thể về sự gia tăng của tai nạn giao thông ở nước ta: “Theo Ủy ban An
tồn giao thơng quốc gia, tai nạn giao thông trong 10 năm qua liên tục gia tăng. Nếu như năm
1990, số người bị chết vì tai nạn giao thơng là 2.368 người thì đến những năm 1995 - 1996 là
6.000 người và đến năm 2002, con số này đã lên đến 12.989 (và 30.772 người bị thương).
Tương tự, 6 tháng đầu năm nay cả nước đã có 6.300 người chết vì tai nạn giao thơng - tăng 371
người (5,9%) so với cùng kỳ năm ngoái (và làm bị thương 714 người). Như vậy, bình quân mỗi
21


ngày cả nước có 35 người chết và 48 người bị thương vì tai nạn giao thơng - hơn cả số người bị
chết vì căn bệnh thế kỷ HIV. Cũng theo Ủy ban ATGT quốc gia, 83,8% số vụ tai nạn do người
tham gia giao thơng gây ra, trong đó: có 36% chạy quá tốc độ quy định; 17,2% tránh, vượt sai
quy định; 13,9% thiếu chú ý quan sát; 6,8% do không đi đúng phần đường; 6,8% sau rượu bia
điều khiển phương tiện và 3,1% do đi bộ qua đường khơng chú ý quan sát”. Từ đó tác giả bài
báo bức xúc: “Công sức, tiền bạc đã được đổ nhiều cho những công việc được coi là cần thiết,
từ làm luật, tuyên truyền, vận động, giáo dục ý thức tự giác trong ứng xử, đến mua sắm máy
móc, thiết bị, xây dựng hồn thiện bộ máy kiểm sốt, trấn áp, răn đe… Nhưng rồi giao thông
công cộng vẫn mang bộ mặt nhếch nhác, hỗn độn và chứa đầy bất trắc, rủi ro... (theo Việt báo).
Về tình hình vi phạm luật giao thông, theo kết quả nghiên cứu của đề tài “Xây dựng ý thức
thị dân ở TP.HCM trong tiến trình phát triển đô thị văn minh, hiện đại”, (do TS Nguyễn Hữu
Nguyên Viện Nghiên cứu phát triển làm chủ nhiệm, công bố năm 2009) cho thấy:
- Các hành vi vi phạm Luật giao thông phổ biến là: vượt đèn đỏ, đi ngược chiều, chạy q
tốc độ, khơng có bằng lái xe, không đội mũ bảo hiểm, chở quá số người quy định...
- Về nguyên nhân vi phạm Luật giao thông: có 400 người được hỏi câu này và các lý do chủ
yếu được đưa ra là:

1) Vì khơng thấy cơng an canh gác (71,8%);
2) Làm theo người khác (55%);
3) Vì vội cơng việc (54,3%);
4) Vì khơng bị phạt (28%);
5) Vì luật khơng nghiêm (27,8%);
6) Vì khơng biết Luật giao thơng (23%);
7) Lý do khác (6,5%).
Như vậy, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến vi phạm luật giao thông là do không thấy công an
canh gác (chiếm 71,8% số người được hỏi). Nhưng điều đáng ngại hơn cả, theo nhóm nghiên
cứu, có đến 70% số trường hợp bị xử phạt do vi phạm Luật giao thông rơi vào độ tuổi 20-30.
Điều này đã cho phép nhóm nghiên cứu kết luận rằng, giới trẻ là đối tượng vi phạm luật giao
thông phổ biến nhất, trong khi đây lại cũng chính là đối tượng có hiểu biết về Luật giao thơng.
Tuy nhiên, TS Nguyễn Hữu Nguyên bày tỏ: “Điều chúng tôi lo lắng hơn thế nữa là tình trạng
cố tình vi phạm Luật giao thơng ở nhóm người mặc nhiên buộc họ phải hiểu biết về luật lệ và
quy tắc ứng xử khi lái xe. Vi phạm Luật giao thông ở tài xế taxi, xe buýt khá phổ biến, trong khi
đây là nhóm người mà nghề nghiệp của họ buộc phải hiểu biết về Luật giao thơng”. Nhóm
nghiên cứu cho biết, qua phỏng vấn 30 tài xế taxi thuộc các hãng có thương hiệu, có đến 25 tài
xế trả lời từng vi phạm Luật giao thông, như quay đầu xe, rẽ vào đường cấm... khi khơng thấy
cảnh sát giao thơng. Hậu quả sau đó là gây ra những vụ kẹt xe.
22


- Về câu hỏi: Vì sao có nạn kẹt xe ở thành phố? Có 400 người được hỏi, ngồi các lý do
khách quan về đường sá, đèn tín hiệu...thì 62% trong số này nói nguyên nhân chủ quan là do có
nhiều người chen lấn, vi phạm Luật giao thơng. Cịn đối với thái độ ứng xử khi xảy ra tình trạng
kẹt xe, gần một nửa số người được hỏi trả lời là họ tìm mọi cách len lách khỏi nơi kẹt xe. Đó
cũng là nguyên nhân trực tiếp khiến nạn kẹt xe càng trầm trọng hơn, khimọi người tự bao vây
lẫn nhau đến mức khơng cịn lối thốt…
- Về thái độ đối với các hành vi vi phạm Luật giao thơng, nhóm nghiên cứu cho biết: chưa
đầy 11% trong số người được hỏi phản đối các hành vi vi phạm Luật giao thông, song mức độ

phản ứng cũng chỉ dừng ở mức nói vài câu phàn nàn “đi đứng thế à”, “khơng có mắt à”... Nhóm
nghiên cứu giải thích là do tâm lý ngại rắc rối, sợ chuốc lấy phiền phức, thậm chí sợ bị đánh khi
bng lời nhắc nhở, lên án những hành vi vi phạm giao thông. Trong khi đó số liệu điều tra cũng
cho biết, có gần 30% số người trả lời mặc kệ trước những hành vi vi phạm của những người
xung quanh. Điều đó cho thấy, những hành vi vi phạm Luật giao thông ở nước ta hiện nay dù rất
phổ biến nhưng vẫn chưa bị cộng đồng lên án đúng mức, thậm chí làm ngơ, coi như việc khơng
liên quan đến mình.
Những kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây chỉ được thực hiện với đối tượng người tham
gia giao thông. Vậy phải chăng tình trạng ứng xử tiêu cực, coi thường, vi phạm pháp luậtgiao
thông ở nước ta hiện nay chỉ xảy ra ởđối tượng người tham gia giao thông, tức là từ phía người
dân – đối tượng chấp hành, cịn chủ thể chịu trách nhiệm thực thi pháp luật thì vơ can?
Trong số các bài báo mà chúng tơi khảo sát, có một tỉ lệ khơng ít những bài báo phản ánh về
thực trạng một bộ phận người nắm quyền lực công, có vai trị cầm cân nảy mực trong việc thực
thi pháp luật trong giao thông (trực tiếp là cảnh sát giao thông) lại chưa hề gương mẫu trong
việc chấp hành luật, thậm chí cịn góp phần làm cho luật giao thơng bị vơ hiệu hóa. Bằng chứng
là nạn “mãi lộ” của cảnh sát giao thông được coi như là chuyện “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, bởi
nó đã trở thành một căn “bệnh nghề nghiệp” mãn tính, gây bức xúc trong dư luận xã hội đã hàng
chục năm mà vẫn chưa được giải quyết triệt để. Loạt bài “Mãi lộ ở cửa ngõ TPHCM” trên báo
Người Lao động ra ngày 8 và 9-12-2009 đã nhận được nhiều tiếng nói đồng tình, cộng hưởng
của cơng luận. Bạn đọc Bùi Văn Phước viết:
“Nạn mãi lộ đã diễn ra từ lâu, cứ có tiền là được bỏ qua các lỗi vi phạm. Đây là một trong
những nguyên nhân chính khiến người ta xem thường luật giao thơng, chạy xe q tải, phóng
nhanh, vượt ẩu, lấn tuyến… gây bao cái chết thương tâm cho người khác…Lâu nay, khi nhân
dân và báo chí phản ánh, lãnh đạo ngành cơng an đều nói rằng sẽ kiểm tra và xử lý nghiêm
minh. Tuy nhiên, nhìn từ thực tế cuộc sống thấy rằng tệ nạn này ngày càng trở nên công khai
trắng trợn. Như vậy, việc xử lý của cơ quan có thẩm quyền chưa đủ nghiêm khắc, nên vẫn có
người tìm mọi cách để nhận mãi lộ”.
23



Bạn đọc Lê Đức Minh (Biên Hòa, Đồng Nai) cũng đồng tình khi cho rằng, “việc xử lý của
cơ quan có thẩm quyền chưa đủ nghiêm khắc, nên vẫn có người tìm mọi cách để nhận mãi lộ.
Trong việc xử lý nạn mãi lộ, nếu người chỉ huy và ngành công an làm kiên quyết sẽ được nhân
dân ủng hộ. Làm được như vậy, xã hội vừa trong sạch và nhiều cán bộ cơng an cũng khơng sa
vào tha hóa, biến chất”.
Cũng trong bài báo này, là nạn nhân của tệ nạn mãi lộ, bạn đọc Lâm Hải (công ty Vận tải ô
tô số 2) bày tỏ sự bức xúc:
“Chúng tôi là những tài xế xe tải thuộc công ty Vận tải ô tô số 2 (TPHCM). Nạn CSGT “làm
luật” dọc đường lâu nay luôn là nỗi ám ảnh khôn ngi trong giới lái xe. Có khơng ít CSGT
dồn ép, kiếm cớ để buộc tài xế chung tiền hối lộ. Anh em chúng tơi rất hoan nghênh các phóng
viên báo Người Lao động đã đưa lên mặt báo những vụ mãi lộ có địa chỉ, thời gian rõ ràng, cụ
thể. Tuy nhiên, trước nay cũng đã có nhiều trường hợp tài xế và nhân dân tố cáo CSGT nhận
hối lộ, nhưng việc xử lý không đi đến đâu khiến cho tệ nạn này vẫn ngang nhiên tồn tại”.
Từ đó bạn đọc này khẩn thiết yêu cầu “xin đừng dung túng”, vì rằng “cơng việc tiếp theo
khơng chỉ là giải quyết riêng những vụ việc vừa bị tố giác, mà chúng tôi mong muốn ngành
công an hãy làm kiên quyết để dẹp bỏ những “con sâu”. Nếu như ngành công an xử nghiêm
minh, cơng khai hình thức kỷ luật đối với những viên cảnh sát vi phạm, dân chúng sẽ rất hoan
nghênh và tin tưởng. Khi CSGT nói khơng với việc nhận hối lộ thì anh em tài xế cũng khơng
dám dùng tiền để khỏa lấp các lỗi vi phạm”.
Các bài báo của các tác giả Bùi Văn Kiên (Ý thức chấp hành luật giao thông kém do đâu?
(Tiền phong); TS Nguyễn Ngọc Điện (Bắt đầu từ nhà chức trách công,Sài Gịn Tiếp thị, thứ sáu,
04/09/2009);TS Nguyễn Hữu Ngun (Văn hóa giao thơng nhìn từ hai phía,báo Pháp luật TP.
HCM, 26/3/2010)… đều phản ánh thực trạng về việc hành xử không thượng tơn pháp luật từ
phía người thực thi pháp luật trong lĩnh vực giao thông và đều cùng quan điểm khi cho rằng,
một khi người thực thi thiếu văn hóa (giao thơng) thì làm sao địi hỏi người chấp hành có được.
Một khi người thực thi pháp luật giao thơng mà lại khơng tơn trọng luật giao thơng, thì tất yếu
trong xã hội sẽ vẫn còn phổ biến niềm tin… vào tính khơng hữu hiệu của luật. Đó là ngun
nhân quan trọng góp phần tạo cho người dân thói quen khơng tn thủ pháp luật, coi thường
pháp luật. Chính việc hành xử không thượng tôn pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước
trong việc kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm làm cho người dân mất lịng tin vào sự nghiêm

minh của pháp luật.
Từ đó, các bài báo này đều khẳng định, cần phải coi văn hóa thực thi quan trọng hơn văn
hóa chấp hành vì nó có vai trị định hướng, làm gương. Trong điều kiện chính người được giao
nhiệm vụ thực thi pháp luật lại cũng là người tìm cách vơ hiệu hố luật thì việc người dân khơng
tn thủ luật là lẽ hiển nhiên. Bởi vậy, muốn pháp luật được tôn trọng một cách phổ biến, nghĩa
24


là bằng ý thức cơng dân tự giác, thì trước hết nhà chức trách công phải nêu gương. Nếu những
người thay mặt chính quyền thi hành cơng vụ khơng gương mẫu, tất cả những hành vi như nhận
mãi lộ, nhận tiền mặt không xé biên lai, bán bằng lái xe, thơng kiểm cả các xe cũ nát... sẽ góp
phần làm cho các giá trị của văn hóa giao thơng bị giảm sút nghiêm trọng.Từ quan niệm đó, TS
Nguyễn Hữu Nguyênkhẳng định: “Chỉ cần những gì đang có được thực thi nghiêm, đúng mức...
thì trật tự, ý thức của người tham gia giao thơng sẽ có một bức tranh khác với hiện tại” (Quốc
Thanh, Tuổi trẻ, Thứ ba, 13/10/2009).
1.2.1.2.Vi phạm pháp luật trong quản lý xây dựng
Vi phạm và xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý xây dựng những năm gần đây cũng là một
điểm nóng, gây bức xúc dư luận bởi thái độ, hành vi coi thường pháp luật, thách thức pháp luật,
vơ hiệu hóa pháp luật đang diễn ra rất phổ biến, xét từ cả hai phía, đối tượng vi phạm và các cơ
quan quản lý, xử lý vi phạm. Hàng trăm bài báo và các ý kiến phản hồi được đăng tải trên các
phương tiện thông tin đại chúng thời gian gần đây đã bày tỏ sự bức xúc, bất bình của dư luận xã
hội trước tình hình các cơng trình xây dựng trái phép đua nhau mọc lên theo cơng thức “giấy
phép nói một đằng, thực tế diễn ra một nẻo” mà vẫn ngang nhiên tồn tại như một thách thức đối
với luật pháp, với công luận.
Trong loạt bài viết về chủ đề này (Thách thức luật pháp; Khơng thể chần chừ trong xử
lý;“Lờn thuốc”vì xử phạt không nghiêm…), PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện phản ánh thực trạng
phổ biến về hành vi thách thức luật pháp này:
“Chỉ được phép xây một căn nhà khiêm tốn nhưng lại cho ra đời cả một khối kiến trúc
hoành tráng. Xã hội đã quen chứng kiến điều này, nhất là tại các đô thị lớn. Hiện tượng xây cất
nhà không phép hoặc to hơn nhiều so với giấy phép có dấu hiệu tràn lan, đến nỗi người ta phải

tự hỏi liệu trong lĩnh vực quản lý xây dựng dân dụng có tồn tại một quy tắc khơng thành văn,
một thứ tục lệ theo đó giấy phép xây dựng bằng văn bản chỉ đơn giản là một thủ tục, nghi thức,
chứ không phải là khung pháp lý giới hạn một cách nghiêm ngặt quyền xây dựng của chủ thể
sống trong không gian chung. Chỉ có thể nói rằng xây dựng khơng đúng theo giấy phép thật sự
là một vụ vi phạm pháp luật, đặc biệt là vi phạm trật tự công. Khơng thể nói rằng những người
được giao trách nhiệm quản lý nhà nước về xây dựng khơng hay biết gì về sự tồn tại của những
bất động sản không hợp lệ ấy. Theo lý lẽ thường tình, nhà xây dựng khơng phép tồn tại cũng có
nghĩa rằng pháp luật xây dựng đã không được thực thi nghiêm chỉnh, nếu không muốn nói rằng
nó đã bị coi thường”.
Ở một bài báo khác, tác giả tiếp tục bày tỏ sự bức xúc:
“Hơn 20 tòa nhà mọc lên ngay giữa trung tâm thành phố (HCM) được xác định là đối tượng
của quyết định dỡ bỏ đối với phần xây dựng sai phép. Mệnh lệnh đã được đưa ra và tống đạt từ
lâu đến những người có trách nhiệm thi hành, nhưng đến nay hầu hết cơng trình vẫn giữ
25


×