SỨC SỐNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ
BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
Hồ Anh Dũng
TÓM TẮT BÀI THAM LUẬN
Chủ nghĩa Mác – Lênin do C. Mác (1818 - 1883) và Ph. Ăngghen (1820 – 1895)
sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX, được V.I. Lênin (1870 – 1924) phát triển vào
cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX . Đó là một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, gồm ba bộ
phận hợp thành: Triết học Mác – Lênin, Kinh tế chính trị học Mác – Lênin và chủ nghĩa
xã hội khoa học.
Sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin thể hiện: Trước hết, do nó xuất phát từ yêu
cầu của thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân nửa đầu thế kỷ XIX cần có một vũ khí
lý luận khoa học và cách mạng soi đường. Thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ
thống lý luận khoa học phản ánh đúng đắn thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Thứ ba, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn gắn bó với thực tiễn, chỉ đạo
thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành thắng lợi. Bản chất
khoa học và cách mạng, sự gắn bó mật thiết giữa lý luận với thực tiễn, tinh thần nhân đạo
cao cả, tính sáng tạo, năng lực giải đáp những vấn đề lớn của thời đại là những nhân tố cơ
bản tạo nên sức sống mạnh mẽ của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trên thực tế, chủ nghĩa Mác –
Lênin đã sống trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong thế kỷ XIX, tiếp tục
thể hiện sức sống mạnh mẽ trong thế kỷ XX với sự ra đời của Liên xô và hệ thống các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, ở châu Á và Mỹ Latinh.
Những năm 90 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội hiện thực khủng hoảng, thoái trào,
Liên xô và Đông Âu sụp đổ, nhưng chủ nghĩa Mác – Lênin không mất đi, mà biểu hiện
sức sống của nó trong quá trình đổi mới ở một số nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt
Nam.
Sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin trong quá trình đổi mới của Việt Nam thể hiện ở
chỗ: Thứ nhất, Việt Nam đổi mới không phải là từ bỏ, mà là kiên trì mục tiêu xây dựng
chủ nghĩa xã hội, quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, Việt Nam đổi
mới trên cơ sở trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, coi chủ nghĩa Mác – Lênin là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Thứ ba, trong quá trình đổi mới, Đảng ta
không những vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn góp phần bổ
sung, phát triển một số nội dung của chủ nghĩa Mác – Lênin.
1
Giờ đây, chúng ta có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để củng cố thêm niềm tin về
sức sống mãnh liệt và lâu dài của chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại ngày nay – Thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
NỘI DUNG BÀI THAM LUẬN
Việt Nam tiến hành đổi mới đất nước trong bối cảnh: chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm
vào khủng hoảng, thoái trào, Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ;
trong khi các nước tư bản có sự điều chỉnh phù hợp nhất định nên còn tiếp tục phát triển.
Trước tình hình dó, các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội, các học giả tư sản, các
chính khách phương Tây đều cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, không còn sức
sống, chủ nghĩa xã hội sẽ bị diệt vong hoàn toàn, chủ nghĩa tư bản sẽ là mùa xuân vĩnh
viễn của nhân loại. Không ít người mácxít hoang mang, dao động, mất niềm tin vào chủ
nghĩa Mác – Lênin. Song, Đảng và nhân dân Việt Nam vẫn lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”,
kiên định đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nghiên cứu làm rõ thêm sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ góp phần khẳng định
cơ sở lý luận khoa học của con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn – Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
1. Về sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin
Xem xét sức sống của một học thuyết tư tưởng là một việc hết sức khó khăn, đòi hỏi
chúng ta phải có sự nghiên cứu một cách công phu, nghiêm túc, với một thái độ thực sự
khách quan, khoa học. Trong bài viết này, tôi không có tham vọng giải quyết vấn đề một
cách triệt để, mà chỉ nêu khái lược một số nét cơ bản về sức sống của chủ nghĩa Mác –
Lênin mà chúng ta cần tiếp tục tiến hành nghiên cứu một cách thường xuyên và lâu dài.
Sức sống của bất cứ một học thuyết tư tưởng nào đều phải thể hiện ở chỗ: nó đã xuất
phát từ yêu cầu của thực tiễn và cơ sở khoa học, lý luận như thế nào; nó có phản ánh đúng
thực tiễn, có mang bản chất khoa học và cách mạng hay không; nó gắn bó với thực tiễn ra
sao và chỉ đạo hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả như thế nào.
Chủ nghĩa Mác – Lênin do C. Mác (1818 - 1883) và Ph. Ăngghen (1820 – 1895) sáng
lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX, được V.I. Lênin (1870 – 1924) phát triển vào cuối
thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX . Đó là một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, gồm ba bộ phận
hợp thành: Triết học Mác – Lênin, Kinh tế chính trị học Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội
khoa học.
2
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin xuất hiện do đòi hỏi khách quan về một hệ thống lý
luận khoa học trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân.
Chủ nghĩa Mác ra đời khi nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa đã phát triển mạnh,
đúng như C.Mác và Ph. Ăngghen đã nhận định trong Tuyên Ngôn của Đảng Cộng sản:
“Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những
lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước
kia gộp lại”1. Giai cấp tư sản đã tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, tạo
ra nền sản xuất đại công nghiệp, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng,
nhưng nó vấp phải những mâu thuẫn xã hội cơ bản không sao giải quyết được. Đó là mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa, quốc tế hóa ngày càng cao với quan hệ
sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn ấy tất yếu làm nẩy sinh mâu thuẫn gay gắt
giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống
lại giai cấp tư sản những năm 40 của thế kỷ XIX đã phát triển từ tự phát đến tự giác, từ
đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị, từ chỗ không có tổ chức đến chỗ có tổ chức
ngày càng đông đảo, chặt chẽ hơn. Lịch sử thời kỳ này đã chứng tỏ, giai cấp công nhân
không thể giải phóng giai cấp mình nếu không giải phóng tất cả các giai cấp, tầng lớp bị
áp bức, bóc lột. Cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp của giai cấp công nhân không chỉ đòi
hỏi phải xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, mà còn và cao hơn là xóa bỏ mọi cơ sở cho sự
nẩy sinh chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất – cơ sở trực tiếp của sự phân chia giai
cấp. Đây là một cuộc cách mạng triệt để, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Để hoàn thành
cuộc cách mạng này, đòi hỏi giai cấp công nhân không chỉ có ý chí đấu tranh kiên quyết,
có nhiệt tình cách mạng cao; mà còn phải có tinh thần đấu tranh tự giác, thông minh, sáng
tạo, bền bỉ, liên tục, không ngừng. Tinh thần đấu tranh như thế chỉ có được khi giai cấp
công nhân hiểu rõ quy luật vận động của xã hội, có đường lối chiến lược, sách lược đúng
đắn, có phương pháp đấu tranh linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với thực tế, nắm được vai trò
sứ mệnh lịch sử của mình, tập hợp tổ chức, lãnh đạo được đông đảo quần chúng đứng lên
làm cách mạng. Điều đó tất yếu đòi hỏi giai cấp công nhân phải có một thế giới quan
khoa học và cách mạng dẫn đường. Song, giai cấp công nhân khi đó bị giai cấp tư sản áp
bức, bóc lột nặng nề, bị cột chặt vào nhà máy, hầm mỏ của giới chủ. Họ không thể đề ra
cho mình một học thuyết lý luận khoa học.
C.Mác và Ph. Ăngghen đã nhận lãnh trách nhiệm nặng nề, nhưng đầy vinh quang mà
thực tiễn lịch sử giao phó. V.I. Lênin đã bổ sung, phát triển và vận dụng chủ nghĩa Mác
thành công ở nước Nga, trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc.
Mỗi thời đại lịch sử đều tất yếu cần có các vĩ nhân, lãnh tụ để giải quyết những vấn đề mà
nó đặt ra. C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin là những người vừa có trí tuệ siêu việt, vừa
1
C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 603.
3
có nhân cách cao thượng, lại có tinh thần nhân đạo cao cà, có tình yêu thương con người
vô bờ bến, cảm thông sâu sắc với những thân phận bị áp bức, bị bóc lột. Các ông luôn đặt
cho mình nhiệm vụ xây dựng lý luận khoa học để trang bị cho giai cấp công nhân và nhân
dân lao động trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, đồng thời, tham gia chỉ đạo
cuộc đấu tranh ấy để điều chỉnh, bổ sung, phát triển lý luận. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.
Lênin đều hội đủ những phẩm chất tốt đẹp mà thời đại đang cần, nên các ông là những vĩ
nhân, lãnh tụ xuất hiện đúng lúc, đúng yêu cầu của lịch sử.
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời bởi những vĩ nhân kiệt xuất, không chỉ do đòi hỏi khách
quan của lịch sử lúc bấy giờ, mà còn dựa trên những tiền đề khoa học tự nhiên. Khoa học
tự nhiên thời kỳ này đã tiến lên nghiên cứu các sự vật, hiện tượng của thế giới trong quá
trình vận động, phát triển, trong tính chỉnh thể toàn vẹn của nó. Do đó, nó đã cung cấp
hàng loạt các phát minh có giá trị, trong đó, nổi bật là ba phát minh vĩ đại: định luật bảo
toàn và chuyển hóa năng lượng, học thuyết tế bào và thuyết tiến hóa sinh vật. Khoa học tự
nhiên đã cung cấp một bức tranh sống động về tính thống nhất chỉnh thể, tính đa dạng,
luôn vận động, biến đổi, phát triển và chuyển hóa lẫn nhau của thế giới khách quan. Đó là
những tư liệu khoa học vững chắc làm tiền đề cho C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng phép
biên chứng duy vật.
Đồng thời, chủ nghĩa Mác - Lênin là kết quả sự kế thừa triết học cổ điển Đức, Kinh tế
học chính trị Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán Anh – Pháp. Đó là những
thành tựu lý luận cao nhất mà nhân loại đạt được trước khi có chủ nghĩa Mác. Đúng như
nhận định của V.I. Lênin: “Học thuyết của ông (C. Mác) ra đời là sự thừa kế thẳng và trực
tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị
học và trong chủ nghĩa xã hội”2.
Các ông đã kế thừa những thành tựu tư tưởng nhân loại một cách có chọn lọc, có phê
phán, đồng thời có cải tạo và nâng cao. Vì thế, sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác
hoàn toàn phù hợp với quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại.
Thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học phản ánh đúng đắn
thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Về mặt triết học, triết học Mác - Lênin hoàn toàn không phải là một sự ghép nối tùy
tiện giữa chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc với phép biện chứng duy tâm của
Hêghen. C.Mác đã kế thừa tinh thần duy vật kiên quyết của Phoiơbắc, nhưng đã khắc
phục tính chất siêu hình, loại bỏ những quan niệm duy tâm về lịch sử xã hội, cải tạo, nâng
cao làm cho nó trở nên triệt để. Ông đã nâng cao chủ nghĩa duy vật thành chủ nghĩa duy
2
V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 23, tr. 49-50.
4
vật biện chứng. Đồng thời, C.Mác tiếp thu phương pháp biện chứng của Hêghen, cải tạo
lại phép biện chứng duy tâm ấy trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật, nâng cao nó lên
thành phương pháp biện chứng duy vật. Không dừng lại ở đó, ông còn kết hợp chặt chẽ
chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng thành một hệ thống triết học thống nhất, hoàn
chỉnh, vận dụng nó vào xem xét lịch sử xã hội, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - một
phát kiến vĩ đại. C. Mác đã làm nên một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học.
Với sự ra đời của triết học Mác - Lênin, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại
có một hệ thống triết học hoàn bị, nó xem xét toàn bộ thế giới, cả tự nhiên, xã hội lẫn tư
duy của con người một cách vừa duy vật, vừa biện chứng. Triết học Mác - Lênin đã khắc
phục triệt để tính phiến diện, tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng của các
trường phái triết học trước đó. Triết học Mác - Lênin luôn gắn bó mật thiết với tất cả các
lĩnh vực khoa học. C.Mác không chỉ xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn lịch sử, mà
còn dựa trên các thành tựu của các khoa học tự nhiên và khoa học xã hội để khái quát
những quy luật chung nhất của thế giới khách quan. Vì thế, triết học Mác - Lênin có tính
khoa học cao, bởi nó trở thành một triết học khoa học thực sự. Điều đó thể hiện ở chỗ:
Một là, triết học Mác - Lênin lần đầu tiên xác định đúng đối tượng của triết học là
những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội và của
tư duy. Đối tượng của triết học Mác - Lênin không lấn sân, không bao chứa, không trộn
lẫn với đối tượng của bất cứ lĩnh vực khoa học nào. Vì thế, các ông đã chấm dứt quan
niệm sai lầm coi tất cả các sự vật, hiện tượng của thế giới đều là đối tượng của triết học,
xóa bỏ tham vọng coi triết học là khoa học của mọi khoa học.
Hai là, C.Mác đã xác định và giải quyết đúng vấn đề cơ bàn của triết học. Đó là vấn
đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Ông đã luận giải khoa học về mối quan hệ biện
chứng, chuyển hóa lẫn nhau giữa vật chất và ý thức, chỉ ra vai trò tính tích cực của ý thức
con người một cách đúng mức, không hạ thấp, cũng không tuyệt đối hóa nó. Do đó, ông
đã khắc phục được triệt để hạn chế của cả chủ nghĩa duy vật siêu hình, lẫn chủ nghĩa duy
tâm và thuyết bất khả tri.
Ba là, triết học Mác - Lênin có phương pháp khoa học đúng đắn, phù hợp là phương
pháp biện chứng duy vật. Phương pháp biện chứng của C.Mác không chỉ vượt xa phương
pháp biện chứng thô sơ, chất phác của thời cổ đại, mà còn vượt lên trên phương pháp biện
chứng duy tâm của Hêghen. C.Mác khẳng định: “Phương pháp biện chứng của tôi không
những khác với phương pháp của Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn với phương pháp
5
ấy nữa”3. Theo V.I. Lênin: “Trong số những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép
biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất” 4.
Bốn là, triết học Mác - Lênin có một hệ thống các nguyên lý, các quy luật, các khái
niệm, phạm trù phản ánh đúng thế giới khách quan. Đáp ứng đầy đủ các tiêu chí cơ bản
của khoa học, nên Triết học Mác - Lênin đã trở thành một triết học thực sự khoa học.
Triết học Mác - Lênin là môn khoa học phản ánh những quy luật chung nhất của sự vận
động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.
Cái chung luôn tồn tại lẩu dài, cái chung nhất thì tồn tại vĩnh viễn, bởi vì nó tồn tại
trong mọi cái riêng cụ thể. Cái riêng này mất đi, cái riêng khác lại nẩy sinh, lại mang theo
cái chung nhất đó, nên cái chung nhất không bao giờ mất đi. Vì thế, triết học Mác - Lênin
mãi mãi là thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn cho quá trình nhận thức khoa học
và hoạt động thực tiễn của con người.
Đánh giá về triết học Mác, V.I. Lênin viết: “Triết học của Mác là một chủ nghĩa duy
vật triết học hoàn bị, nó cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân những
công cụ nhận thức vĩ đại… Chủ nghĩa duy vật lịch sử là thành tựu vĩ đại nhất của tư
tưởng khoa học”5.
Về kinh tế chính trị học, C.Mác đã kế thừa tư tưởng giá trị và những quan điểm đúng
đắn, tiến bộ của hai nhà kinh tế chính trị học cổ điển người Anh là A. Xmít vả Đ. Ricácđô.
Song, trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học, C. Mác đã khắc phục
những hạn chế, bế tắc của họ. Ông đã phân tích, mổ xẻ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa một
cách tỷ mỉ, sâu sắc. Từ chỗ phát hiện hai thuộc tính cơ bản của hàng hóa, đến tính hai mặt
của lao động trong quá trình sản xuất hàng hóa, sức lao động trở thành hàng hóa, lao động
bị tha hóa trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã phát minh ra học
thuyết giá trị thặng dư. Ông chỉ rõ nguồn gốc giàu có, bản chất bóc lộc của giai cấp tư sản
là do nó tước đoạt giá trị thặng dư sức lao động làm thuê của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Phân tích những quy luật chung và những quy luật đặc thù chi phối xã hội
tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã chỉ ra một cách có cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc về sự
diệt vong không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản, rằng sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản
và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội đều tất yếu như nhau. Học thuyết giá trị thặng dư là một
trong hai phát kiến vĩ đại của C. Mác. Như vậy, C. Mác cũng đã làm một cuộc cách mạng
trong lĩnh vực kinh tế chính trị học, nâng nó lên thành một khoa học thực sự. Dù cho chủ
3
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 23, tr. 35.
4
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 23. Tr. 53.
5
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.23, tr. 53 – 54.
6
nghĩa tư bản có phát triển với những hình thức, mức độ như thế nào, thì bản chất bóc lột
giá trị thặng dư sức lao động của công nhân làm thuê vẫn không thay đổi. Vì thế, học
thuyết giá trị thặng dư của C. Mác vẫn đúng với chủ nghĩa tư bản trong điều kiện toàn cầu
hóa, với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và nền kinh tế tri thức hiện nay.
Về chủ nghĩa xã hội, trước C. Mác, chủ nghĩa xã hội đã hình thành một thời gian dài,
phát triển đến chủ nghĩa xã hội có tinh thần nhân đạo vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thể kỷ
XIX, với các đại biểu nổi tiếng: H. Xanh Ximông, S. Phuriê (người Pháp) và R. Ôoen
(người Anh). Tuy họ đã phê phán gay gắt sự áp bức, bất công của chủ nghĩa tư bản, chỉ ra
sự cùng khổ của nhân dân lao động dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng họ không thấy rõ
bản chất của chủ nghĩa tư bản và những quy luật khách quan chi phối nó, đồng thời họ
không thấy được bản chất cách mạng và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, không
luận giải được sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Vì thế, chủ nghĩa xã hội thời kỳ
này mang nặng tính chất không tưởng.
C.Mác đã kế thừa tinh thần nhân đạo, những quan điểm đúng đắn và tiến bộ của các
nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng phê phán, nhưng đã cải tạo và nâng nó lên
một tầm cao mới. C.Mác dựa trên thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đã luận chứng một cách hết sức thuyết phục
về sự vận động, phát triển tất yếu của xã hội do bị chi phối bởi các quy luật khách quan.
Từ đó, ông đã kết luận một cách chắc chắn, rằng sự vận động, phát triển, thay thế kế tiếp
nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Theo đó, chủ
nghĩa tư bản tất yếu bị phủ định, bị thay thế bởi một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn là
hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Điều đó diễn ra một
cách tất yếu như việc nó đã thay thế hình thái kinh tế - xã hội phong kiến không sao
cưỡng lại được. Bằng học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã chỉ ra một cách có cơ sở khoa
học và thực tiễn về nguồn gốc giàu có, bản chất của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị
thặng dư sức lao động làm thuê của giai cấp công nhân. Cho dù phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa phát triển như thế nào, vẫn không làm mất đi mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân với giai cấp tư sản. Giai cấp công nhân là con đẻ của nền đại công nghiệp, trưởng
thành cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, do bị giai cấp tư
sản áp bức, bóc lột nặng nề, lại được nền đại công nghiệp tôi rèn, được cuộc sống thành
thị giác ngộ, giai cấp công nhân đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại,
nên là giai cấp có bản chất cách mạng triệt để, có sứ mệnh lịch sử là “người đào mồ chôn
chủ nghĩa tư bản”.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư của Mác là cơ sở lý luận khoa
học vững chắc để ông thực hiện cuộc cách mạng thứ ba về lý luận là chuyển chủ nghĩa xã
hội từ không tưởng thành một khoa học. Chủ nghĩa xã hội khoa học là sự phát triển tiếp
7
nối, là sự cụ thể hóa, là con đường để hiện thực hóa tư tưởng của chủ nghĩa duy vật lịch
sử và học thuyết giá trị thặng dư.
Như vậy chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học hoàn chỉnh ở chỗ
nó không chỉ có tính khách quan khoa học, có logic chắt chẽ, tính hệ thống trong từng
lĩnh vực cụ thể như triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học, mà còn
mang tính hệ thống, có logic chặt chẽ, quan hệ biện chứng giữa ba bộ phận. Theo V.I.
Lênin: chủ nghĩa Mác được đúc bằng một khối thép liền, người ta sẽ không thể tách rời
bất cứ một bộ phận nào, nếu không muốn phạm sai lầm và rơi vào sự phiến diện.
Thứ ba, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn gắn bó với thực tiễn, chỉ đạo thực tiễn đấu tranh
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành thắng lợi.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận, bên cạnh tính khách quan, khoa học, nó
còn mang tính cách mạng triệt để. Nó không chỉ xuất phát từ thực tiễn, mà còn luôn gắn
bó mật thiết với thực tiễn, luôn hướng đến mục tiêu cải tạo thực tiễn. Về sự gắn bó mật
thiết giữa triết học với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, C.Mác đã nói: “Giống như
triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết
học là vũ khí tinh thần của mình”6. Ông tuyên bố rõ ràng mục đích của lý luận là hướng
đến hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng
nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới” 7. Ông cũng chỉ ra sự gắn bó không
tách rời giữa lý luận về chủ nghĩa cộng sản khoa học với phong trào đấu tranh hiện thực
hướng tới chủ nghĩa cộng sản: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một
trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo.
Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện
nay”8. Sự gắn bó thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc
phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cả C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đều luôn bám sát thực tiễn, hòa mình vào thực
tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đem lý luận khoa học chỉ đạo
thực tiễn, thông qua thực tiễn vận dụng lý tuận mà điều chỉnh, bổ sung, phát triển lý luận,
làm cho nó không ngừng phát triển, hoàn thiện, có sức sống mãnh liệt trong thực tiễn cách
mạng sôi động. Vì thế, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ có tính khách quan, khoa học
cao, mà còn có tính cách mạng triệt để, nó cung cấp cho giai cấp công nhân và nhân dân
6
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 1, tr. 589.
7
C.Mác và Ph. Ăngghen: Sđd, t.3, tr. 12.
8
C. Mác và Ph.Ăngghen: Sđd, t3, tr.51.
8
lao động một vũ khí lý luận sắc bén, mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh giải phóng loài người
khỏi mọi áp bức, bất công.
Tính khoa học và tính cách mạng gắn bó mật thiết, tác động qua lại biện chứng không
tách rời trong chủ nghĩa Mác - Lênin. Tính khoa học càng cao bao nhiêu, thì càng chỉ đạo
thực tiễn đạt hiệu quả cao bấy nhiều. Đồng thời, tính cách mạng càng cao bao nhiên, càng
đòi hỏi tính khoa học phải cao và cũng tạo ra nhiều điều kiện cho tính khoa học phát triển
cao bấy nhiêu.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là một hệ thống lý luận mở, mang tính sáng tạo. Nó không coi
bất cứ cái gì là nhất thành bất biến, là xong xuôi hẳn. Trái lại, nó luôn yêu cầu những
người đi sau kế tục nó phải tiếp tục bổ sung, phát triển không ngừng. Chính C.Mác đã
từng lưu ý những người mácxít không được coi học thuyết của các ông là những giáo
điều, mà chỉ coi là kim chỉ Nam và cần phải tiếp tục bổ sung, phát triển. Nhờ vậy mà chủ
nghĩa Mác - Lênin được giai cấp công nhân và nhân đân lao động đón nhận một cách
nhiệt thành, coi nó là thế giới quan và phương pháp luận khoa học, là vũ khí lý luận
không thể thiếu được để đấu tranh cải tạo thế giới thành công. Đúng như V.I. Lênin nhận
định: “Sức hấp dẫn không gì cưỡng nổi đã lôi cuốn những người xã hội chủ nghĩa của tất
cả các nước đi theo lý luận đó, chính là ở chỗ nó kết hợp tính chất khoa học chặt chẽ và
cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội) với tinh thần cách mạng, và kết hợp
không phải một cách ngẫu nhiên, không phải chỉ vì người sáng lập ra học thuyết ấy đã kết
hợp trong bản thân mình những phẩm chất của nhà bác học và của nhà cách mạng, mà là
kết hợp trong bản thân lý luận ấy, một sự kết hợp nội tại và khăng khít. Thật thế, nhiệm vụ
của lý luận, mục đích của khoa học được nêu thẳng ra ở đây là giúp đỡ giai cấp những
người bị áp bức trong cuộc đấu tranh kinh tế đang thực sự diễn ra”9.
Bản chất khoa học và cách mạng, sự gắn bó mật thiết giữa lý luận với thực tiễn, tinh
thần nhân đạo cao cả, tính sáng tạo, năng lực giải đáp những vấn đề lớn của thời đại là
những nhân tố cơ bản tạo nên sức sống mạnh mẽ của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin không lúc nào ngừng công kích, bài bác,
xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa Mác – Lênin, hòng xóa bỏ nó. C.Mác, Ph. Ăngghen trong
quá trình hình thành, phát triển từng bước hệ thống lý luận của mình, đã không ngừng đấu
tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản để truyền bá học thuyết ấy vào phong
trào công nhân, trang bị vũ khí lý luận khoa học cho giai cấp công nhân, theo sát từng
bước, chỉ đạo sát sao phong trào đấu tranh của công nhân, làm cho phong trào công nhân
không ngừng lớn mạnh. Chủ nghĩa cộng sản từ chỗ bị coi là “một bóng ma” lởn vởn ở
châu Âu đã trở thành một lực lượng hiện thực. Chủ nghĩa Mác đã sống trong thực tiễn đấu
9
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 1, tr. 421.
9
tranh của giai cấp công nhân và những người cộng sản trên thế giới vào nửa cuối thế kỷ
XIX.
V.I. Lênin không những đã đấu tranh không khoan nhượng chống lại mọi kẻ thù tư
tưởng dưới mọi màu sắc như: chủ nghĩa Makhơ, chủ nghĩa xét lại, tư tưởng phái Dân túy,
phái Mensêvíc, chủ nghĩa cơ hội,v.v., nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác; mà còn phát triển chủ
nghĩa Mác trên hầu hết các phương diện chính, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào điều
kiện của nước Nga, lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga làm cuộc cách
mạng Tháng Mười năm 1917 thành công. Ông đã làm cho chủ nghĩa Mác tiếp tục thể hiện
sức sống trong thế kỷ XX.
Như vậy, sau mỗi cuộc chiến về tư tưởng, sau mỗi lần đương đầu với những tư tưởng
đối lập, chủ nghĩa Mác – Lênin lại được bổ sung, phát triển, đứng vững và thâm nhập sâu,
rộng hơn vào quần chúng cách mạng, thể hiện sức sống mạnh mẽ của nó.
Sự thành công của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 là kết
quả sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác của V.I. Lênin và Đảng Cộng sản
Nga vào thực tiễn cách mạng ở nước Nga. Liên xô - Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên
trên thế giới, ngay từ khi mới thành lập, còn non trẻ, đã anh dũng chống trả sự bao vây,
tấn công của các thế lực phản động bên trong và của chủ nghĩa đế quốc từ bên ngoài. Nó
không bị tiêu diệt, mà còn đứng vững và phát triển. Nó tiếp tục đương đầu với sự tấn công
tàn bạo của chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Liên xô là lực lượng
chủ yếu, đi tiên phong chiến thắng chủ nghĩa phát xít, có công to lớn cứu loài người khỏi
họa diệt chủng của chủ nghĩa phát xít. Đó là sự thật lịch sử không thể bác bỏ được. Đó
cũng là cơ sở thực tiễn chứng minh cho sức sống của một chế độ xã hội dụa trên cơ sớ lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Sự thành công của các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước Anbani, Ba Lan,
Bungari, Hunggari, Nam Tư, Rumani, Tiệp Khắc, Đông Đức, Mông Cổ, Việt Nam, Cu
Ba, Bắc Triều Tiên, Trung Quốc…, trong thế kỷ XX. Một hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa được hình thành, phát triển, đối trọng với hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa. Đó
là kết quả sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể
của các nước này. Lịch sử thế giới thế kỷ XX đã chứng minh hùng hồn sức mạnh to lớn,
sức sống mãnh liệt của một hệ thống lý luận khoa học như chủ nghĩa Mác – Lênin, khi
được quần chúng tiếp thu, khi được vận dụng đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cách mạng.
Lịch sử quả là đã không hề đi theo một con đường bằng phẳng, thẳng tắp, mà đã diễn
ra một cách quanh co, đầy biến động, phức tạp. Cuối thế kỷ XX, loài người chứng kiến
một biến cố đau lòng: chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào khủng hoảng, thoái trào, Liên
10
xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Đây là sự thất bại tạm thời, có
nguyên nhân từ sự bao vây, tấn công nhiều mặt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động. Đồng thời, nó còn có nguyên nhân chủ quan, do những sai lầm giáo điều, duy ý chí,
hiểu không đúng, không đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ, về con đường,
bước đi, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội của các đảng cộng sản ở các quốc gia đó.
Thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực hoàn toàn không phải do sai lầm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, mà do sai lầm trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác– Lênin vào thực tiễn .
Không ai có quyền và không hề có cơ sở nào để đổ lỗi cho chủ nghĩa Mác – Lênin. Công
việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa diễn ra cụ thể ở mỗi nước như thế nào, thành công
hay thất bại đều là trách nhiệm của những người cộng sản và nhân dân ở đó, không phải
là trách nhiệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, hay của V.I. Lênin. Chính các ông luôn nhắc nhở
những người kế tục sự nghiệp của các ông không được rơi vào siêu hình, máy móc, giáo
điều, cũng như không được nóng vội, chủ quan, duy ý chí, muốn đốt cháy giai đoạn,
không được coi lý luận của các ông như những kết luận có sẵn, bất di, bất dịch, mà phải
luôn luôn năng động, sáng tạo.
Chúng ta có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.
Lênin không can dự đến thất bại tạm thời của chủ nghĩa xã hội hiên thực.
Những người mácxít chân chính, đủ bình tĩnh, đủ sáng suốt càng thấy rõ hơn lúc nào
hết, rằng sau thất bại tạm thời này, không được xa rời, hay từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin,
trái lại, cần phải nhận thức đúng hơn, đầy đủ hơn, sâu sắc hơn lý luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin, nhận thức lại thực tế để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Những người
cộng sản không chỉ có bài học về sự thất bại tạm thời của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
Liên xô và Đông Âu; mà còn có bài học về sự đổi mới thành công của những nước kiên
trì xây dựng chủ nghĩa xã hội, kiên định đứng trên lập trường thế giới quan và phương
pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Việt Nam, Trung Quốc và một số nước
xã hội chủ nghĩa khác đang thể hiện sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin trong quá trình
đổi mới.
2. Biểu hiện sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin trong quá trình đổi mới ở Việt
Nam
Vào cuối thế kỷ XX, thế giới biến động phức tạp, khó lường, chủ nghĩa xã hội hiện
thực ở Liên xô và Đông Âu sụp đổ, nhưng chủ nghĩa Mác – Lênin không mất đi, mà một
lần nữa tỏ rõ sức sống mãnh liệt trong quá trình đổi mới của Việt Nam. Điều đó thể hiện
như sau:
11
Thứ nhất, Việt Nam đổi mới không phải là từ bỏ, mà là kiên trì mục tiêu xây dựng chủ
nghĩa xã hội, quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Mở đầu công cuộc đổi mới năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ ràng,
rằng đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà đổi mới để nhận thức
đúng hơn về chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm tòi cách thức, bước đi đúng đắn, phù hợp nhằm
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân lúc đó đều nhất trí kiên quyết
thực hiện con đường đã lựa chọn, không hề giao động, ngả nghiêng trước những biến
động phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế, không nao núng trước sự tấn công,
phản bác của các thế lực thù địch, các quan điểm trái chiều.
Năm 1991, vào thời điểm Liên xô sụp đổ, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã,
Việt Nam tiến hành đổi mới được năm năm. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Đảng ta vẫn dứt khoát khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc vẫn là
hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau. Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau” 10. “…chúng ta phải tiếp
tục nâng cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc
đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội”11. Quyết tâm ấy càng thể hiện rõ ở việc Đảng ta vận
dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin để xác định các tiêu chí cơ bản của chủ nghĩa
xã hội: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
-
Do nhân dân lao động làm chủ.
-
Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
-
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
-
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân.
-
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp lẫn nhau cùng tiến bộ.
-
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” 12.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII - Cương lĩng xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 4.
11
Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr. 8.
12
Trải qua hơn ba mươi năm đổi mới, Đảng có điều chỉnh, bổ sung những nội dung cụ
thể của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với thực tiễn cách mạng từng
thời kỳ, nhưng chưa bao giờ Đảng và nhân dân ta buông lơi ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Kể cả những lúc tình hình cực kỳ khó khăn, phức tạp, khủng hoảng kinh
tế khu vực và quốc tế, các nước tư bản bao vây, cấm vận, các thế lực thù địch tấn công
phá hoại nhiều mặt, Đảng ta vẫn kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, chứng
tỏ bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng, tinh thần cách mạng tiến công kiên cường. Điều
này thể hiện rõ trong tất cả các văn kiện của Đảng từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI năm 1986 đến Đại hội XII năm 2016, cũng như trong các đường lối, chính sách mà
Đảng đã triển khai trong chỉ đạo thực tiễn. Qua mỗi kỳ đại hội, Đảng đều tiến hành tổng
kết thực tiễn, đối chiếu với lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin để tìm tòi những biện
pháp, bước đi phù hợp, sát thực tế hơn, làm cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội từng
bước đạt kết quả thiết thực.
Kiên trì mục tiêu, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng chính là kiên định lập
trường tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thứ hai, Việt Nam đổi mới trên cơ sở trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, coi chủ
nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng,
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng
ta xác định rõ: “…làm cho thế giới quan Mác – Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội”13.
Để tiến hành đổi mới thành công, Đảng ta đã bình tĩnh, sáng suốt tiếp tục nhận thức
sâu hơn, đúng đắn, đầy đủ hơn về chủ nghĩa Mác – Lênin trên tất cả các nội dung, vận
dụng tổng hợp, đồng bộ tất cả những nội dung ấy một cách sáng tạo. Điều đó thể hiện như
sau:
Một là, vận dụng đồng bộ các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin trong quá trình đổi mới.
Đảng luôn vận dụng kết hợp tất cả các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin một cách linh hoạt, mềm dẻo. Ví dụ: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI – Đại hội mở đầu công cuộc đổi mói, Đảng có quan điểm trước hết phải xuất phát từ
thực tế của đất nước với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, thừa nhận sự thật, đánh giá đúng
12
Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr. 8-9.
13
Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr. 10.
13
sự thật, công khai nói rõ sự thật. Trên tinh thần ấy, Đảng nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá
đúng những thành tựu, ưu điểm, chỉ ra những sai lầm, hạn chế, yếu kém. Đảng đã thể hiện
tinh thần dũng cảm, trung thực, thẳng thắn, chỉ ra những sai lầm nghiêm trọng cả trong
chủ trương, chính sách về chỉ đạo chiến lược, cả trong tổ chức, triển khai thực hiện. Nhận
rõ sai lầm của các cơ quan lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước như: Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng, v.v.. Đại hội cũng nhấn mạnh: những sai lầm, khuyết
điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư
tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên
nhân…14. Đại hội rút ra bốn bài học lớn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp
đổi mới đất nước, trong đó có bài học: Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trong
và hành động theo quy luật khách quan 15. Đó là thể hiện quan điểm khách quan trong
xem xét sự vật.
Đồng thời, quan điểm toàn diện thể hiện không phải chỉ ở chỗ đường lối đổi mới
được gọi là “Đường lối đổi mới toàn diện đất nước”, mà còn thể hiện ở nội dung toàn diện
của nó. Đó là đổi mới phải được tiến hành từ gốc đến ngọn, từ lực lượng sản xuất đến
quan hệ sản xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng, từ đời sống vật chất đến đời
sống tinh thần của xã hội,v.v.. Đổi mới tất cả các lĩnh vực, cũng như trong từng lĩnh vực
của đời sống xã hội, vừa không được bỏ sót bất cứ một lĩnh vực, một khía cạnh nào của
xã hội, vừa phải giải quyết có trọng tâm, trọng điểm. Ví dụ: Đảng ta xác định đổi mới tất
cả các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, từ kinh tế, đến chính trị, đến văn hóa, tư tưởng
và xã hội, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm. Trong đổi mới kinh tế, phải tiến hành
đồng bộ đổi mới tất cả các ngành kinh tế, nhưng trọng tâm là ngành công nghiệp, xác
định công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời ký quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Song, trong bối cảnh hiện nay, khi nhiều nước đã tiến lên trình độ
hiện đại, đã phát triển kinh tế tri thức, thì ở Việt Nam, công nghiệp hóa phải kết hợp chặt
chẽ với hiện đại hóa và kết hợp với phát triển kinh tế tri thức. Đổi mới cơ cấu thành phần,
phát triển tất cả các thành phần kinh tế, nhưng coi kinh tế quốc doanh là thành phần chủ
đạo để đi lên chủ nghĩa xã hội…
Tương tự như vậy, có thể thấy các nguyên tắc phát triển, nguyên tắc lịch sử - cụ thể,
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đều được Đảng ta nhận thức sâu hơn,
quán triệt và vận dụng đúng hơn trong quá trình đổi mới.
14
Xin xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1987, tr. 19-28.
15
Xin xem Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr. 29 – 31.
14
Hai là, nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật phát triển xã hội do chủ nghĩa
Mác – Lênin khái quát.
Trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chiến lược, sách lược và trong chỉ đạo
thực tiễn triển khai đường lối đổi mới, Đảng ta luôn vận dụng đồng bộ tất cả các quy luật
một cách mềm dẻo, linh hoạt cho phù hợp với tình hình cụ thể từng thời kỳ phát triển của
đất nước, từng giai đoạn của quá trình đổi mới. Đặc biệt, Đảng quan tâm tập trung vận
dụng các quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất, quy luật phủ định của phủ định, quy
luật nhân - quả. Điều đó thể hiện ở chỗ, qua mỗi kỳ đại hội Đảng ta đều phân tích mâu
thuẫn, chỉ ra những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của cách mạng Việt Nam để tập trung giải
quyết một cách có hiệu quả. Phân tích đánh giá thành tựu, hạn chế của từng giai đoạn của
quá trình đổi mới, cũng như đánh giá tổng quát 30 năm thực hiện đường lối đổi mới,
Đảng ta đều tiến hành phân tích nguyên nhân một cách cẩn trọng, nghiêm túc để chỉ ra
đúng những nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân cơ bản,
nguyên nhân chủ yếu, để từ đó đề ra phương hướng đúng đắn, giải quyết tốt các nguyên
nhân đó16.
Ba là, vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam một cách có hiệu quả hơn.
Trải qua hơn ba mươi năm đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức đúng hơn, rõ hơn
những nội dung cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa, xác định rõ hơn con đường, cách
thúc, biện pháp, bước đi cụ thể trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trên cơ sở nắm vững học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, tin tưởng vững chắc vào
kết luận của C.Mác về sự điệt vong không tránh khỏi của hình thái kinh tế - xã hội tư bản
chủ nghĩa, sự ra đời tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa, về khả năng có
thể bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội để tiến lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn;
Đảng ta đã dứt khoát lựa chọn con đường: từ một nước mà nền kinh tế còn phổ biến là sản
xuất nhỏ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trải qua hơn ba
mươi năm đổi mới đất nước, tuy vẫn chưa khắc phục hết được những hạn chế, yếu kém,
nhưng chúng ta đã gặt hái được nhiều thành công. Thực tế ấy càng chứng tỏ sự lựa chọn
của Đảng và nhân dân tà là hoàn toàn đúng đắn.
Chúng ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tránh cho nhân dân bớt đau khổ, “không
phải làm cách mạng nhiều lần”, nhưng không hề bỏ qua tính tất yếu kinh tế. Đó là phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức.
16
Xem Đảng Cộng sản Việt nam: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới
(1986 – 2016), Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội – 2015, tr. 37 – 60.
15
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta đã vận dụng nhuần nhuyễn hơn
quy luật cơ bản số một của sự phát triển xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời, Đảng
vận dụng đúng đắn các quy luật về quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, quy luật quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,v.v.. Điều đó
thể hiện trong các chủ trương, chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, củng cố
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng, chỉnh đốn Đảng làm cho Đảng
ngang tầm với đòi hỏi khách quan của thực tiễn; xây dựng nhà nước pháp quyền xả hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,v.v., ngày càng đảm bảo cho nhân
dân thực sự được làm chủ. Hoạt động của tất cả các yếu tố của hệ thống chính trị ngày
càng có hiệu quả, hiệu lực, ngày càng công khai, minh bạch, giảm dần sự bao biện, chồng
chéo, lấn sân, Nhờ thế niềm tin của nhân dân vào chế độ xã hội chủ nghĩa, vào sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước ngày càng được tăng lên, xã hội ngày càng dân
chủ, đồng thuận hơn.
Thứ ba, trong quá trình đổi mới, Đảng ta không những vận dụng linh hoạt, sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn góp phần bổ sung, phát triển một số nội dung của chủ
nghĩa Mác – Lênin.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết này, tôi không có điều kiện đi sâu phân tích
toàn bộ những đóng góp mới của Đảng cộng sản Việt Nam vào kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, chỉ xin mạnh dạn nêu lên một số bổ sung, phát triển quan trọng của
Đảng ta về mặt lý luận như sau:
Một là, về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ ra tính tất yếu của thởi kỳ quá độ, nêu luận điểm về thời gian có thể
dài ngắn khác nhau, tùy theo đặc điểm lịch sử, hoàn cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội và tương quan giai cấp của mỗi nước. V.I. Lênin phát tiển quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen về thời kỳ quá độ, ông nêu lên hai hình thức quá độ. Hình thức quá độ trực
tiếp đối với các nước đã phát triển chủ nghĩa tư bản ở trình độ cao đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hình thức quá độ gián tiếp đối với các nước chưa kinh qua chế độ tư bản chủ nghĩa, hoặc
kinh qua chủ nghĩa tư bản, nhưng ở trình độ thấp. Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung
những nội dung cụ thể của thời kỳ quá độ theo hình thức gián tiếp, cho rằng thời kỳ quá
độ như vậy sẽ diễn ra rất dài, rất khó khăn, phức tạp, trải qua nhiều chặng đường, bước đi
cụ thể. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã xác định: Việt Nam đang ở
chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Đảng ta không chỉ coi nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần là một trong những đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ ở một nước
chưa kinh qua chủ nghĩa tư bản như Việt Nam, mà còn xem đó là điều kiện, là phương
16
tiện để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo sự thắng
lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta bổ sung: nền kinh tế thị trường phải
được đặt dưới sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời,
Đảng xác định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng xã hội là một chủ trương lâu dài.
Hai là, về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng đây là quy luật khách quan,
nhưng quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất. Do đó,
con người có ý chí, có ý thức, nên có thể áp đặt một cách chủ quan một hình thức quan hệ
sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất. Theo đó, quan hệ sản xuất cũng kìm hãm
lực lượng sản xuất. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã nêu quan điểm
mới: quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất không chỉ khi nó trở
nên lạc hậu, lỗi thời, mà cả khi nó được áp đặt một hình thức chủ quan, đi trước quá xa so
với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Với luận điểm này, Đảng ta đã bổ sung, phát
triển một khía cạnh trong nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Ba là, về xây dựng nhà nước. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin đã đề ra hệ thống
quan điểm đúng đắn về nguồn gốc, bản chất, về đặc trưng và vai trò của nhà nước nói
chung và nhà nước chuyên chính vô sản. Đảng ta bổ sung vào lý luận về nhà nước của
chủ nghĩa Mác – Lênin bằng việc nêu lên một hình thức nhà nước mới của giai cấp công
nhân. Đó là quan điểm xây nhựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, thay vì xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản như trước
đổi mới.
Bốn là, về xây dựng hệ thống chính trị, với cơ chế: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý,
nhân dân lao động làm chủ thông qua các tổ chức chính trị - xã hội. Có thể nói đây là nội
dung hoàn toàn mới mà C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin hầu như chưa bàn đến.
Có thời gian đi sâu tìm hiểu thêm, chúng ta sẽ thấy còn có những nội dung cụ thể mà
Đảng ta đã bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin trong quá trình đổi mới
đất nước. Song, bấy nhiêu cũng đủ cho chúng ta thấy chủ nghĩa Mac – Lênin đã thể hiện
sức sống mạnh mẽ như thế nào trong quá trình đổi mới ở Việt Nam.
Như vậy, sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin trong quá trình đổi mới ở Việt Nam
không chỉ được thể hiện ở chỗ nó luôn được Đảng Bảo vệ, vận dụng một cách linh hoạt,
sáng tạo, mà còn thể hiện ở sự bổ sung, phát triển của Đảng cộng sản Việt Nam vào kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho lý luận ấy ngày càng sinh động, sắc bén
17
hơn. Thường xuyên phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin chính là bảo vệ nó một cách chắc
chắn và có hiệu quả nhất.
Tiến hành tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 –
2016), Đảng ta nhận định: “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều
hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững… Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi
và phát triển trong những năm tới; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử” 17. Có thể
coi đây như lời nhận định của Đảng ta về sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin trong quá
trình đổi mới ở Việt Nam.
Giờ đây, chúng ta có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để củng cố thêm niềm tin về
sức sống mãnh liệt và lâu dài của chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại ngày nay – Thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự
thật, Hà Nội, 1987.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Cương lĩng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự
thật, Hà Nội, 1991.
3. Đảng Cộng sản Việt nam: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua
30 năm đổi mới (1986 – 2016), Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội – 2015.
4. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 1.
5. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 23.
6. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1.
7. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 3.
17
Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986
– 2016), Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội – 2015, tr. 190 – 191.
18
8. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4.
9. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.23.
19