MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Năm 2013 là năm bản lề thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội 05 năm 2011 - 2016 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2011 - 2020 của cả nước nói chung và tỉnh Nam Định nói riêng. Việc huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ngân sách có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu của kế hoạch 05 năm và Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.
Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả năng lực quyết định và giám sát
thu - chi ngân sách để Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định thực hiện tốt hơn
vai trò là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân là một trong những yêu cầu góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Quyết định và giám sát thu - chi ngân sách là chức năng quan trọng của
Hội đồng nhân dân được Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy
ban nhân dân (UBND) ngày 26 tháng 11 năm 2003 quy định khá cụ thể, rõ
ràng về thẩm quyền. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động ra quyết định và giám sát
thu - chi ngân sách, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế.
Xuất phát từ tình hình thực tế nêu trên, vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế
nào để tìm ra các giải pháp cũng như các kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao năng
lực quyết định và hiệu quả hoạt động giám sát thu - chi ngân sách của HĐND
tỉnh Nam Định, thể hiện được ý chí của đông đảo nhân dân, đảm bảo chất lượng,
có tính khả thi cao và thực sự đi vào cuộc sống. Vì vậy, việc lựa chọn nghiên cứu
đề tài “Hoạt động ra quyết định và giám sát thu - chi ngân sách của HĐND tỉnh
Nam Định” vừa có ý nghĩa khoa học, vừa đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách
của thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu của Đề tài
Để chuẩn bị sửa đổi, bổ sung Luật Ngân sách Nhà nước (NSNN), các
cơ quan của Quốc hội, Bộ Tài chính, các cơ quan liên quan tổ chức nhiều hội
thảo, hội nghị, thực hiện các đề tài nghiên cứu về vấn đề này. Một số nhà
nghiên cứu, các chuyên gia trên lĩnh vực tài chính, ngân sách cũng đã tập
trung nghiên cứu nội dung này. Song, tất cả đều ở bình diện chung cho cả
nước, từ ngân sách Trung ương phân bổ cho các tỉnh, thành phố.
Nhiều đề tài nghiên cứu như: “Nhận thức và thực tiễn vận dụng quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức bộ máy nhà nước trong thời kỳ
đổi mới” do Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì; “Vấn đề nhân dân giám sát các cơ quan dân cử
ở nước ta hiện nay” của Viện Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì; “Nâng cao hiệu lực hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay”
Luận văn thạc sĩ luật của Vũ Mạnh Thông; “Hoàn thiện pháp luật về giám sát
hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương Từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc” Luận văn thạc sĩ luật của Nguyễn Hoàng; nhiều
cuộc hội nghị, hội thảo về nâng cao năng lực quyết định và hoạt động giám
sát của HĐND đã được tổ chức. Hằng năm, HĐND các cấp đều tổ chức tổng
kết, đánh giá kết quả hoạt động, trong đó có đề cập đến những tồn tại, hạn chế
cũng như các giải pháp nhằm nâng cao năng lực quyết định và giám sát của
HĐND. Tuy nhiên, hầu hết các nội dung nghiên cứu này đều đề cập đến vấn
đề chung của cơ quan dân cử, của HĐND các cấp trên toàn quốc hoặc một số
khu vực (Đồng bằng sông Hồng, Miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ…). Vì thế, việc nghiên cứu tổng kết kinh
nghiệm các mảng hoạt động này (hoạt động quyết định và giám sát thu - chi
ngân sách của HĐND tỉnh) trên địa bàn tỉnh Nam Định sẽ gặp rất nhiều khó
khăn khi chưa rõ, chưa có sự thống nhất về mặt nhận thức cũng như chưa rõ ràng
về cơ sở pháp lý.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của Đề tài
2
3.1. Mục tiêu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng hoạt động ra quyết
định và giám sát thu, chi ngân sách trên địa bàn tỉnh Nam Định, luận văn đề
xuất một số giải pháp nhằm từng bước nâng cao năng lực ra quyết định và
giám sát thu chi ngân sách nhà nước của HĐND tỉnh Nam Định.
3.2. Nhiệm vụ:
Xác lập khung lý luận làm cơ sở cho việc khảo sát, đánh giá thực trạng
hoạt động ra quyết định và giám sát thu - chi ngân sách của HĐND tỉnh.
Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được và chỉ ra những vướng mắc
cần giải quyết từ góc độ thể chế, cũng như góc độ thực tiễn chính trị.
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực quyết định và hiệu quả
hoạt động giám sát thu - chi ngân sách của HĐND tỉnh trong thời gian tới.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật để tiếp cận
nghiên cứu, từ góc độ lý luận kinh tế - góc độ thể chế kinh tế, thể chế tài
chính, ngân sách, thể chế nhà nước để phân tích các vấn đề đặt ra.
Sử dụng các phương pháp cụ thể sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập, phân tích, xử lý, tổng hợp
tư liệu để xác định những nội dung cốt lõi của đề tài.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống để nghiên cứu vai trò, vị trí, tầm quan
trọng của thu - chi ngân sách có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng ở địa phương.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Thu thập số liệu sơ cấp qua thống kê,
phân tích, tổng hợp từ các tài liệu, các báo cáo về tình hình thu - chi ngân sách
của Trung ương, của địa phương, từ hệ thống văn bản của Nhà nước.
- Phân tích hiện trạng từ các số liệu sơ cấp và thứ cấp quan hệ định
lượng sự tác động của thu - chi ngân sách đến sự phát triển kinh tế, xã hội của
địa phương.
- Phương pháp thống kê, mô tả để trình bày kết quả nghiên cứu.
3
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động ra quyết định và giám sát thu - chi ngân sách của HĐND
tỉnh Nam Định trong 3 năm 2011 - 2013 (bao gồm HĐND, Thường trực
HĐND, các Ban HĐND và đại biểu HĐND).
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Những vấn đề liên quan đến hoạt động quyết định và
giám sát ngân sách của HĐND tỉnh Nam Định. Trong đó, tập trung vào hoạt
động ra quyết định và giám sát thu - chi ngân sách …
Phạm vi không gian: hoạt động của HĐND tỉnh Nam Định.
Phạm vi thời gian: Trong 3 năm 2011 - 2013.
6. Đóng góp cho thực tiễn và lý luận của đề tài
Sản phẩm của Đề tài là cơ sở khoa học và thực tiễn để các cơ quan có
thẩm quyền có thể nghiên cứu, vận dụng để ban hành cơ chế, chính sách nhằm
nâng cao năng lực quyết định và giám sát thu - chi ngân sách của HĐND tỉnh
Nam Định, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng
tại địa phương.
Đối với tỉnh Nam Định, đề tài nghiên cứu này sẽ đi sâu phân tích, đánh giá
về những nét đặc thù trên địa bàn tỉnh, không chỉ có giá trị về mặt khoa học mà còn
có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, kết quả nghiên cứu của đề tài có thể giúp ích cho
HĐND tỉnh xem xét, tham khảo để hoàn thiện việc ra quyết định và giám sát thu chi ngân sách trên địa bàn tỉnh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn bao gồm 3 chương sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về hoạt động ra quyết định và giám sát thu chi ngân sách của HĐND cấp tỉnh.
Chương 2. Thực trạng hoạt động ra quyết định và giám sát thu - chi
ngân sách của HĐND tỉnh Nam Định trong 3 năm 2011 - 2013.
4
Chương 3. Định hướng và giải pháp nâng cao năng lực ra quyết định
và hiệu quả giám sát thu - chi ngân sách của HĐND tỉnh Nam Định trong thời
gian tới.
5
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG RA QUYẾT ĐỊNH VÀ GIÁM SÁT
THU - CHI NGÂN SÁCH CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1.
Khái quát về Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.1.1. Khái niệm và vai trò của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong
bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam
Ngay tại bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã dành 5 chương, 6 điều
quy định vai trò, vị trí của HĐND. Ngày 22/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký sắc lệnh số 63/SL về tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính
các cấp. Nội dung chủ đạo của Sắc lệnh này là: Để thực hiện chính quyền
nhân dân địa phương trong nước Việt Nam, sẽ đặt hai thứ cơ quan Hội đồng
nhân dân và Ủy ban hành chính. Hội đồng nhân dân do dân bầu ra theo lối
phổ thông và trực tiếp đầu phiếu là cơ quan thay mặt cho dân. Ủy ban nhân
dân do các Hội đồng nhân dân bầu ra là cơ quan hành chính vừa thay mặt
cho dân vừa đại diện cho Chính phủ...”. Qua gần 70 năm xây dựng và phát
triển, trên cơ sở các Hiến pháp năm 1946, năm 1980, năm 1992 và sửa đổi bổ
sung năm 2013, hệ thống pháp luật về chính quyền địa phương đã có một số
thay đổi về cơ chế tổ chức và tên gọi, nhưng bản chất cũng như vai trò, vị trí,
chức năng, nhiệm vụ của mô hình tổ chức HĐND và UBND theo tinh thần
sắc lệnh trên đây cơ bản vẫn được giữ nguyên.
Điều 113, Hiến pháp năm 2013 quy định: "Hội đồng nhân dân là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và nhà nước cấp trên"; “Hội đồng nhân dân
quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo
Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội
đồng nhân dân”. Như vậy, chúng ta có thể hình dung HĐND như chiếc cầu
nối giữa nhân dân và nhà nước, tạo điều kiện cho nhân dân làm chủ, mối quan
6
hệ hai chiều được dung hòa giữa yếu tố quyền lực nhà nước và yếu tố ý chí
của nhân dân.
Trải qua gần 70 năm hình thành và phát triển, HĐND ở nước ta không
ngừng kiện toàn và lớn mạnh, ngày càng thể hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình và thực sự là một bộ phận không thể thiếu của chính quyền địa phương.
Với vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, HĐND đã góp phần xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, bảo đảm thực
thi Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của
Nhà nước, của tổ chức và cá nhân, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Hội đồng nhân dân là đại diện tiêu biểu nhất cho tiếng nói của các tầng
lớp nhân dân trong xã hội, được lựa chọn từ các đại biểu ưu tú của các tầng
lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, nông dân, trí thức... HĐND đại diện cho
trí tuệ, tinh thần và sức mạnh tập thể nhân dân địa phương. Vì thế, HĐND là
tổ chức chính quyền gần gũi nhân dân nhất, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và
yêu cầu của nhân dân, hiểu rõ được những thuận lợi, khó khăn của địa
phương, do đó đưa ra những quyết định đúng đắn, phù hợp với tình hình thực
tế và nguyện vọng của nhân dân, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, ổn định an ninh trật tự của địa phương.
1.1.2. Tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh
1.1.2.1. Tổ chức bộ máy của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Luật bầu cử HĐND được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 quy
định: Đối với tỉnh miền xuôi và thành phố trực thuộc Trung ương có từ một
triệu người trở xuống, HĐND được bầu năm mươi đại biểu; có trên một triệu
người thì cứ thêm năm mươi nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng
tổng số không quá tám mươi lăm đại biểu; tỉnh miền núi có từ năm trăm nghìn
người trở xuống được bầu năm mươi đại biểu, có trên năm trăm nghìn người
7
thì cứ thêm ba mươi nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số
không quá tám mươi lăm đại biểu; thủ đô Hà Nội và các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương khác có trên ba triệu người được bầu không quá chín mươi
lăm đại biểu.
Luật Tổ chức HĐND và UBND được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm
2003 quy định: HĐND cấp tỉnh có Thường trực HĐND và các Ban HĐND do
HĐND bầu. Thường trực HĐND gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Uỷ viên
thường trực. Các Ban HĐND có Trưởng ban, Phó trưởng ban và các thành
viên; số lượng thành viên của mỗi Ban do HĐND quyết định; HĐND cấp tỉnh
thành lập ba Ban: Ban kinh tế - ngân sách, Ban văn hoá - xã hội, Ban pháp
chế; nơi nào có nhiều dân tộc thì có thể thành lập Ban dân tộc.
1.1.2.2. Chức năng nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND cấp tỉnh được quy định tại
Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26 tháng 11 năm 2003 và Quy chế hoạt
động của HĐND năm 2005 do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành kèm
theo Nghị quyết số 753/2005/NQ - UBTVQH ngày 02 tháng 04 năm 2005.
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước và cơ quan đại diện của nhân dân
ở địa phương, HĐND thay mặt cho nhân dân địa phương, cho cử tri đã bầu ra
mình để quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương và giám sát việc
thi hành những quyết định đó. HĐND quyết định những chủ trương, biện
pháp quan trọng để phát huy tiềm năng kinh tế của địa phương, xây dựng và
phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không
ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương làm
tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước. Hoạt động giám sát của HĐND
mang tính quyền lực nhà nước để thay mặt nhân dân địa phương thực hiện
quyền dân chủ theo pháp luật quy định và là một bộ phận quyền lực cấu thành
không thể tách rời cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, là quyền lực mà
nhân dân địa phương trao cho cơ quan đại diện của mình theo một trình tự,
8
thủ tục được pháp luật quy định để chăm lo và bảo vệ quyền lợi ích chính
đáng và hợp pháp của nhân dân địa phương.
Theo quy định hiện hành, HĐND giám sát thông qua việc xem xét, đánh
giá hoạt động của Thường trực HĐND, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương trong việc
thực hiện các nghị quyết của HĐND và việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Với mục đích bảo đảm cho mọi hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát
phải thực hiện đúng và đầy đủ những quy định của Hiến pháp và pháp luật,
Nghị quyết của HĐND. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật điều phải
phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh; kiến nghị những biện pháp khắc phục
một cách có hiệu quả những điểm chưa phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội.
- Trong lĩnh vực kinh tế, HĐND tỉnh thực hiện những nhiệm vụ, quyền
hạn sau đây:
Quyết định quy hoạch, kế hoạch dài hạn và hàng năm về phát triển kinh
tế - xã hội, sử dụng đất đai, phát triển ngành và quy hoạch xây dựng, phát
triển đô thị, nông thôn trong phạm vi quản lý; lĩnh vực đầu tư và quy mô vốn
đầu tư theo phân cấp của Chính phủ.
Quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công ở địa phương và thông qua cơ chế
khuyến khích phát triển sản xuất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển các
thành phần kinh tế ở địa phương; bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh
của các cơ sở kinh tế theo quy định của pháp luật.
Quyết định dự toán thu NSNN trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách
địa phương (NSĐP) và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; phê chuẩn quyết
toán NSĐP; quyết định các chủ trương, biện pháp triển khai thực hiện NSĐP;
điều chỉnh dự toán NSĐP trong trường hợp cần thiết; giám sát việc thực hiện
ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định.
Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân
9
sách ở địa phương theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.
Quyết định thu phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nhân dân và mức
huy động vốn theo quy định của pháp luật.
Quyết định phương án quản lý, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực ở
địa phương.
Quyết định biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham
nhũng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
- Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục thể
thao, HĐND tỉnh thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Quyết định chủ trương, biện pháp phát triển sự nghiệp giáo dục, đào
tạo; quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới giáo dục mầm non,
giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp; bảo đảm cơ sở vật chất và điều
kiện cho các hoạt động giáo dục, đào tạo ở địa phương.
Quyết định chủ trương, biện pháp phát triển sự nghiệp văn hoá, thông
tin, thể dục thể thao; biện pháp bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hoá ở địa
phương; biện pháp bảo đảm cơ sở vật chất và điều kiện cho các hoạt động văn
hoá, thông tin, thể dục thể thao ở địa phương theo quy định của pháp luật;
Quyết định chủ trương, biện pháp phát triển nguồn nhân lực, sử dụng
lao động, giải quyết việc làm và cải thiện điều kiện làm việc, sinh hoạt của
người lao động, bảo hộ lao động; thực hiện phân bổ dân cư và cải thiện đời
sống nhân dân ở địa phương.
Quyết định biện pháp giáo dục, bảo vệ, chăm sóc thanh niên, thiếu niên
và nhi đồng; xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá; giáo dục truyền
thống đạo đức tốt đẹp, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc; biện pháp
ngăn chặn việc truyền bá văn hoá phẩm phản động, đồi trụy, bài trừ mê tín, hủ
tục và phòng, chống các tệ nạn xã hội, các biểu hiện không lành mạnh trong
đời sống xã hội ở địa phương.
Quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới khám, chữa bệnh;
biện pháp bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo vệ và chăm sóc người già, người tàn
10
tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; bảo vệ, chăm sóc bà mẹ, trẻ em; thực
hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; phòng, chống dịch bệnh và
phát triển y tế địa phương.
Quyết định biện pháp thực hiện chính sách, chế độ ưu đãi đối với thương
binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, những người và gia đình có công với nước;
thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và xoá đói, giảm nghèo.
- Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường,
HĐND tỉnh thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Quyết định chủ trương, biện pháp khuyến khích việc nghiên cứu, phát
huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để phát
triển sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân ở địa phương.
Quyết định biện pháp quản lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sông hồ,
nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển tại địa phương
theo quy định của pháp luật.
Quyết định biện pháp bảo vệ môi trường; phòng, chống và khắc phục
hậu quả thiên tai, bão lụt, suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố
môi trường ở địa phương theo quy định của pháp luật.
Quyết định biện pháp thực hiện các quy định của pháp luật về tiêu
chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm; ngăn chặn việc sản xuất và lưu
hành hàng giả, hàng kém chất lượng tại địa phương, bảo vệ lợi ích của
người tiêu dùng.
- Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, HĐND
tỉnh thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Quyết định biện pháp thực hiện nhiệm vụ kết hợp quốc phòng, an ninh
với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh và thực hiện nhiệm vụ xây dựng
lực lượng dự bị động viên ở địa phương.
Quyết định biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng
ngừa, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương.
- Trong việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo,
11
HĐND tỉnh có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Quyết định biện pháp thực hiện chính sách dân tộc, cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần, nâng cao dân trí của đồng bào các dân tộc thiểu số, bảo
đảm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tăng cường đoàn kết toàn
dân và tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc ở địa phương.
Quyết định biện pháp thực hiện chính sách tôn giáo, quyền bình đẳng
giữa các tôn giáo trước pháp luật; bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân ở địa phương theo quy
định của pháp luật.
- Trong lĩnh vực thi hành pháp luật, HĐND tỉnh thực hiện những nhiệm
vụ, quyền hạn sau đây:
Quyết định biện pháp bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của mình ở địa phương.
Quyết định biện pháp bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm,
các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân.
Quyết định biện pháp bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước; bảo hộ tài
sản của cơ quan, tổ chức và cá nhân ở địa phương.
Quyết định biện pháp bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân theo quy định của pháp luật.
- Trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới
hành chính, HĐND tỉnh thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường
trực HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBND,
Trưởng Ban và các thành viên khác của các Ban HĐND, Hội thẩm nhân dân
của Toà án nhân dân cùng cấp; bãi nhiệm đại biểu HĐND và chấp nhận việc
đại biểu HĐND xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu theo quy định của pháp luật.
Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu.
Phê chuẩn cơ cấu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp
huyện; quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể một số cơ quan chuyên môn
12
thuộc UBND cùng cấp theo hướng dẫn của Chính phủ.
Quyết định tổng biên chế sự nghiệp ở địa phương phù hợp với yêu cầu
phát triển và khả năng ngân sách của địa phương; thông qua tổng biên chế
hành chính của địa phương trước khi trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Quyết định chính sách thu hút và một số chế độ khuyến khích đối với
cán bộ, công chức trên địa bàn phù hợp với khả năng của ngân sách địa
phương; quyết định số lượng và mức phụ cấp đối với cán bộ không chuyên
trách ở xã, phường, thị trấn trên cơ sở hướng dẫn của Chính phủ.
Thông qua đề án thành lập mới, nhập, chia và điều chỉnh địa giới hành
chính để đề nghị cấp trên xem xét, quyết định; quyết định việc đặt tên, đổi tên
đường, phố, quảng trường, công trình công cộng ở địa phương theo quy định
của pháp luật.
Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ thị trái pháp luật của
UBND cùng cấp, nghị quyết trái pháp luật của HĐND cấp huyện.
Giải tán HĐND cấp huyện trong trường hợp HĐND đó làm thiệt hại
nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê
chuẩn trước khi thi hành.
Phê chuẩn nghị quyết của HĐND cấp huyện về việc giải tán HĐND
cấp xã.
- Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn đã nêu, HĐND thành phố trực
thuộc trung ương còn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
Quyết định biện pháp phát huy vai trò trung tâm kinh tế - xã hội của đô
thị lớn trong mối liên hệ với các địa phương trong vùng, khu vực và cả nước
theo phân cấp của Chính phủ.
Thông qua kế hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, quy hoạch tổng
thể về xây dựng và phát triển đô thị để trình Chính phủ phê duyệt.
Quyết định biện pháp bảo đảm trật tự công cộng, an toàn giao thông,
phòng, chống cháy, nổ, bảo vệ môi trường và cảnh quan đô thị.
Quyết định biện pháp quản lý dân cư ở thành phố và tổ chức đời sống
13
dân cư đô thị.
1.2. Chức năng ra quyết định và giám sát thu chi ngân sách của
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.2.1. Quan niệm về chức năng ra quyết định và giám sát của Hội
đồng nhân dân
1.2.1.1. Quan niệm về chức năng quyết định
Theo Đại từ điển - Nhà xuất bản Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2008: Quyết định là định ra, đề ra và dứt khoát phải làm. Như
vậy, có thể hiểu quyết định là ý chí của một tập thể hay một cá nhân trong
việc xác định mục tiêu cần đạt trong một công việc, một nhiệm vụ nào đó (tức
là định ra, đề ra) và kèm theo đó là các biện pháp hoặc áp dụng chế tài để
thực hiện mục tiêu đó. Quyết định của tập thể (có thể là một nhóm người, một
tổ chức, một cơ quan, một đơn vị...có cùng chí hướng) được biểu đạt dưới
hình thức Nghị quyết. Quyết định của cá nhân (có thể là người có địa vị hay
không có địa vị trong xã hội) được biểu đạt dưới hình thức mệnh lệnh cá nhân
(trong thể loại văn bản hành chính gọi là quyết định). Địa vị pháp lý của một
cá nhân, một tập thể trong xã hội càng cao thì hiệu lực của quyết định càng
lớn và ngược lại. Và hiệu lực của quyết định càng lớn thì điều kiện để mục
tiêu, nhiệm vụ, công việc đã định ra, đề ra (tức là đã quyết định) có khả năng
đem lại chất lượng, hiệu quả cao hơn.
Năng lực quyết định của HĐND là những điều kiện cần và đủ (hay
khả năng, điều kiện sẵn có) để HĐND định ra, đề ra (tức quyết định) mục
tiêu, nhiệm vụ, công việc và kèm theo đó là các biện pháp hay áp dụng
chế tài để đảm bảo cho mục tiêu, nhiệm vụ, công việc đó được thực hiện.
Cũng có thể hiểu năng lực quyết định của HĐND là khả năng của HĐND
đề xuất, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng thuộc thẩm
quyền của mình theo luật định, phù hợp với điều kiện và nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương.
HĐND ra quyết định dưới hình thức Nghị quyết theo nguyên tắc đa số
14
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trên phạm vi địa phương mình theo
định hướng XHCN, nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, Luật, văn bản quy phạm
pháp luật khác của cơ quan nhà nước cấp trên được thực thi và góp phần làm
cho cuộc sống người dân ngày một tốt hơn. Do đó, quyết định của HĐND
phải đảm bảo hai yêu cầu cơ bản là: không trái với quy định của Hiến pháp,
Luật, văn bản quy phạm pháp luật khác của cơ quan nhà nước cấp trên và
phản ảnh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương hay nói cách
khác là phải đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn cuộc sống.
1.2.1.2. Quan niệm về chức năng giám sát
Để tiếp cận nội dung khái niệm giám sát, cần làm rõ một số khái niệm
liên quan với giám sát như sau:
Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế, thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn nói chung hay một công tác được giao để đánh giá, nhận xét.
Kiểm tra là chức năng thuộc thẩm quyền của chủ thể lãnh đạo, chủ thể quản lý
đối với đối tượng lãnh đạo và quản lý. Kiểm tra là nhiệm vụ thường xuyên của
chủ thể lãnh đạo, quản lý nhằm đánh giá, nhận xét mang tính chính trị đối với
đối tượng kiểm tra nhằm tác động, nâng cao tính tích cực chính trị của đối tượng.
Kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn ngừa kịp thời những việc làm
sai trái với thỏa thuận, với quy định. Hoạt động kiểm soát mang tính pháp lý
và theo tinh thần pháp luật.
Thanh tra là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền về việc thực hiện
các chế độ, chính sách do Nhà nước đề ra của tổ chức và cá nhân liên quan.
Hoạt động thanh tra thực hiện theo thẩm quyền và trình tự theo quy định của
pháp luật. Kết quả thanh tra là ra quyết định hoặc đề nghị ra quyết định thu
hồi tài sản, tiền bạc của Nhà nước và công dân bị chiếm dụng hoặc sử dụng
sai chế độ quy định.
Thẩm tra là sự xem xét lại kỹ cả về hình thức lẫn nội dung nhưng tập
trung xem xét sự phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, tính hợp
Hiến, hợp pháp, đối tượng, nội dung, phạm vi và tính khả thi của một dự án,
15
đề án có liên quan đến thẩm quyền ra quyết định của một tổ chức, một cơ
quan. Có thể nói rằng thẩm tra là một nội dung hoạt động thường xuyên của
HĐND trong quá trình xây dựng và ban hành các chính sách ở địa phương.
Vậy, giám sát là gì?
Theo quy định tại Điều 2, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm
2003, Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân
tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám
sát trong việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh,
Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Giám sát là sự quan sát, xem xét, tra hỏi. Theo Từ điển Luật học thì
giám sát là sự theo dõi, quan sát mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục
và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động
của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục
đích, hiệu quả đã được thực hiện từ trước, bảo đảm cho pháp luật được thực
hiện nghiêm minh.
Giám sát có những hình thức mang tính kỹ thuật, là sự quan sát, theo
dõi quy trình quy phạm trong quá trình sản xuất hay trong đầu tư xây dựng,
quản lý môi trường…theo những tiêu chuẩn và quy phạm kỹ thuật nghiêm
ngặt. Nhưng cũng có hình thức giám sát mang tính chất kinh tế - chính trị - xã
hội - pháp luật, là sự quan sát, theo dõi về việc thực hiện các chế độ chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Các hình thức giám sát trên có quan hệ mật
thiết với nhau nhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển.
Giám sát của HĐND là thực hiện sự ủy quyền của nhân dân để giám sát
hoạt động của bộ máy nhà nước, là một hình thức thực hiện quyền giám sát
của nhân dân được thực hiện bằng pháp luật, thông qua cơ quan quyền lực
Nhà nước là HĐND các cấp.
Từ các khái niệm chung về giám sát trên, căn cứ đối tượng giám sát của
HĐND, có thể hiểu khái niệm giám sát của HĐND như sau:
16
Giám sát của HĐND là hoạt động có mục đích, thường xuyên, liên tục
của HĐND nhằm quan sát, theo dõi, kiểm tra, phát hiện, uốn nắn việc tuân
theo pháp luật, chấp hành Nghị quyết HĐND của Thường trực HĐND,
UBND, TAND, VKSND cùng cấp, của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân địa phương theo quy
định của pháp luật.
Như vậy, giám sát của HĐND thực chất là hoạt động nhằm kiểm soát
thực thi quyền lực nhà nước. Giám sát chứa đựng những yếu tố thuộc tính của
công tác kiểm tra, kiểm soát và thanh tra. Trong quá trình giám sát, chủ thể
giám sát có quyền tiếp cận mọi đối tượng, mọi văn bản, hồ sơ theo yêu cầu
giám sát.
1.2.2. Căn cứ lý luận về hoạt động ra quyết định và giám sát thu chi
ngân sách của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Trên lĩnh vực ngân sách, HĐND tỉnh có thẩm quyền: Quyết định dự toán
thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và
phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa
phương; quyết định các chủ trương, biện pháp triển khai thực hiện ngân sách địa
phương; điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết;
giám sát việc thực hiện ngân sách đã được HĐND quyết định; quyết định việc
phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương theo
quy định của Luật Ngân sách nhà nước; quyết định thu phí, lệ phí và các khoản
đóng góp của nhân dân và mức huy động vốn theo quy định của pháp luật; quyết
định biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng.
Về chức năng giám sát của HĐND được quy định cụ thể tại Chương III
(từ Điều 57 đến Điều 81), Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26 tháng 11
năm 2003, nội dung cụ thể như sau:
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh được tiến hành thường xuyên, gắn
liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.
Giám sát của HĐND bao gồm: Giám sát của HĐND tại kỳ họp; giám
17
sát của Thường trực HĐND; giám sát của các Ban HĐND và giám sát của đại
biểu HĐND.
HĐND giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
- Xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
- Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch
UBND, các thành viên khác của UBND, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn
thuộc UBND, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân
dân cùng cấp.
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh, Nghị quyết của
HĐND cấp huyện khi phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, Luật, Nghị
quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của
HĐND cùng cấp.
- Quyết định thành lập Đoàn giám sát của HĐND khi xét thấy cần thiết.
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu.
- Khi nhận được khiếu nại, tố cáo của nhân dân, đại biểu HĐND có
trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải
quyết, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết; đồng thời thông báo cho người
khiếu nại, tố cáo biết. Trong thời hạn do pháp luật quy định, người có
thẩm quyền phải xem xét, giải quyết và thông báo bằng văn bản cho đại
biểu HĐND biết kết quả.
- Đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch Hồi đồng nhân dân, Chủ
tịch và các thành viên khác của UBND, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cùng cấp. Người bị chất vấn phải trả lời về những vấn đề mà đại biểu
HĐND chất vấn.
- Trong thời gian giữa hai kỳ họp HĐND, chất vấn của đại biểu HĐND
được gửi đến Thường trực HĐND cùng cấp để chuyển đến người bị chất vấn
18
và quyết định thời hạn trả lời chất vấn.
- Ðại biểu HĐND có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân kịp thời chấm dứt những việc
làm trái pháp luật, chính sách của Nhà nước trong cơ quan, tổ chức, đơn vị
hoặc của cán bộ, công chức, nhân viên cơ quan, tổ chức, đơn vị đó. Khi đại
biểu HĐND yêu cầu gặp người phụ trách của cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân thì người đó có trách
nhiệm tiếp.
- Ðại biểu HĐND có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước về việc thi
hành pháp luật, chính sách của Nhà nước và về những vấn đề thuộc lợi ích
chung. Cơ quan hữu quan có trách nhiệm trả lời kiến nghị của đại biểu.
- Ðại biểu HĐND có quyền đề nghị HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do HĐND bầu (phải có ít nhất 1/3 tổng số đại biểu HĐND
đề nghị thì Thường trực HĐND mới trình HĐND xem xét, quyết định).
1.2.3. Nội dung hoạt động ra quyết định thu chi ngân sách của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh
Ngân sách nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển
của quốc gia nói chung và mỗi địa phương nói riêng. Quyết định tốt về ngân
sách, bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế, cụ thể của địa phương là yếu tố
quan trọng có tính quyết định sự thắng lợi trong phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo an ninh quốc phòng của địa phương. Ngân sách nhà nước bao gồm
ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương bao
gồm ngân sách của các đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Đối
với các cấp chính quyền địa phương, HĐND đóng vai trò chính trong việc
quyết định ngân sách, thể hiện qua các quyết định về dự toán thu - chi và quyết
toán ngân sách. Tại Khoản 3, Điều 11, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
ngày 26 tháng 11 năm 2003 quy định: HĐND quyết định dự toán thu Ngân
sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và phân bổ
dự toán ngân sách cấp mình; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương.
19
Đồng thời, tại Điều 25, Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 quy định cụ thể
nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND các cấp về ngân sách nhà nước bao gồm:
Căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên giao và tình hình
thực tế tại địa phương, quyết định: dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa
bàn; dự toán thu ngân sách địa phương; dự toán chi ngân sách địa phương.
Quyết định phân bổ dự toán ngân sách cấp mình: Tổng số và mức chi
từng lĩnh vực; dự toán chi ngân sách của từng cơ quan, đơn vị thuộc cấp
mình theo từng lĩnh vực; mức bổ sung cho ngân sách từng địa phương cấp
dưới, gồm bổ sung cân đối, bổ sung có mục tiêu.
Phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương.
Quyết định các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân
sách địa phương.
Quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường
hợp cần thiết.
Giám sát việc thực hiện ngân sách đã được HĐND quyết định;
Bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật về tài chính - ngân sách của
UBND cùng cấp và HĐND cấp dưới trực tiếp trái với Hiến pháp, Luật, Nghị
quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên.
Đối với HĐND cấp tỉnh, nhiệm vụ, quyền hạn trên lĩnh vực ngân sách
còn có: quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân
sách ở địa phương; quyết định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa ngân sách
các cấp chính quyền địa phương đối với phần ngân sách địa phương được
hưởng và các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương;
quyết định thu phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định
của pháp luật; quyết định cụ thể một số định mức phân bổ ngân sách, chế độ,
tiêu chuẩn, định mức chi theo quy định của Chính phủ; quyết định mức huy
động vốn.
1.2.4. Nội dung hoạt động giám sát thu chi ngân sách của Hội
20
đồng nhân dân cấp tỉnh
Giám sát nói chung và giám sát trên lĩnh vực thu - chi ngân sách là một
trong hai chức năng cơ bản của HĐND tỉnh được pháp luật quy định. Hoạt
động giám sát thu - chi ngân sách của HĐND tỉnh được thực hiện thông qua
các hoạt động giám sát của Thường trực HĐND, các Ban HĐND (chủ yếu là
Ban Kinh tế và Ngân sách), đại biểu HĐND tỉnh. Các hoạt động này được
tiến hành thường xuyên, liên tục, không chỉ diễn ra tại kỳ họp mà còn được
tiến hành giữa các kỳ họp, tham gia vào quá trình xây dựng dự toán, quyết
toán ngân sách.
Theo quy định của pháp luật, hoạt động giám sát nói chung, hoạt động
giám sát thu chi ngân sách nói riêng của HĐND bao gồm: Giám sát của
HĐND tại kỳ họp, giám sát của Thường trực HĐND, giám sát của các Ban
HĐND và giám sát của đại biểu HĐND.
Tuy nhiên, ngân sách là lĩnh vực hết sức phức tạp, nhạy cảm, có đặc thù
riêng, đòi hỏi người giám sát phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất
định. Do vậy, trên thực tế, giám sát thu - chi ngân sách của HĐND tỉnh chủ
yếu tập trung vào một số hoạt động giám sát của Thường trực HĐND, các Ban
HĐND tỉnh; giám sát thông qua thành lập các Đoàn giám sát, xem xét việc
ban hành, thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trên lĩnh vực
tài chính của UBND tỉnh và UBND cấp dưới, thông qua công tác thẩm tra.
Hoạt động giám sát của đại biểu HĐND tỉnh trên lĩnh vực này hầu như không
diễn ra. Tại một số kỳ họp, việc chất vấn UBND tỉnh và các ngành liên quan
trong công tác quản lý, điều hành, sử dụng ngân sách cũng có diễn ra song
không nhiều và chỉ tập trung vào đại biểu là thành viên các Ban HĐND, đại
biểu hoạt động chuyên trách. Ngoài ra, hoạt động giám sát trên lĩnh vực ngân
sách của Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND tỉnh còn được thực hiện thông qua
việc tham gia cùng UBND tỉnh bảo vệ ngân sách với các Bộ, ngành ở Trung
ương, tham dự các cuộc làm việc xây dựng dự toán ngân sách giữa Sở Tài
chính với các ngành và địa phương.
21
1.2.5. Các chủ thể chịu trách nhiệm và tham gia vào hoạt động ra
quyết định và giám sát thu chi ngân sách của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
HĐND thực hiện chức năng quyết định dưới hình thức ban hành các
Nghị quyết của HĐND. Quy trình, chất lượng ban hành Nghị quyết của
HĐND được quy định cụ thể trong Luật Tổ chức HĐND và UBND, Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND; tham gia vào quy
trình ban hành Nghị quyết của HĐND cần nhiều chủ thể tham gia. Cụ thể là:
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
HĐND năm 2004
Điều 21 quy định: Chương trình xây dựng nghị quyết hằng năm của
HĐND cấp tỉnh được xây dựng căn cứ vào đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh, yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương, bảo đảm thực hiện các văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên, bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của
công dân ở địa phương. Thường trực HĐND chủ trì, phối hợp với UBND
lập dự kiến chương trình xây dựng Nghị quyết của HĐND trình HĐND
quyết định tại kỳ họp cuối năm. Thường trực HĐND có trách nhiệm tổ
chức thực hiện chương trình xây dựng Nghị quyết của HĐND và phân
công Ban của HĐND thẩm tra dự thảo nghị quyết.
Điều 22 quy định: Dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh do UBND
trình hoặc do cơ quan, tổ chức khác trình theo sự phân công của Thường trực
HĐND. Cơ quan trình dự thảo nghị quyết tổ chức việc soạn thảo hoặc phân
công cơ quan soạn thảo (Nếu UBND trình thì có thể giao cho các cơ quan
chuyên môn của UBND chủ trì soạn thảo)...
Điều 23 quy định: Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo nghị
quyết, cơ quan soạn thảo tổ chức lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức hữu quan,
đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của nghị quyết...
Điều 24 quy định: Dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh do Uỷ ban
nhân dân cùng cấp trình phải được cơ quan tư pháp cùng cấp thẩm định trước
22
khi trình UBND...
Điều 27 quy định: Dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh phải được
Ban của HĐND cùng cấp thẩm tra trước khi trình HĐND (đối với nghị quyết
về thu - chi ngân sách giao cho Ban Kinh tế - Ngân sách thẩm tra)...
Điều 29 quy định: Hội đồng nhân dân thảo luận và biểu quyết thông
qua dự thảo nghị quyết...
Điều 9, Khoản 2, Điểm c Luật Kiểm toán nhà nước quy định: “Báo cáo
kiểm toán là một trong những căn cứ để HĐND sử dụng trong quá trình xem
xét, quyết định dự toán, phân bổ và giám sát NSĐP; phê chuẩn quyết toán
NSĐP. Thực tế trong những năm qua, báo cáo kết quả kiểm toán NSNN, tiền
và tài sản nhà nước của cơ quan kiểm toán đối với các cơ quan, đơn vị trên
địa bàn tỉnh Nam Định là nguồn thông tin rất quan trọng giúp cho HĐND tỉnh
có những căn cứ vững chắc trong việc phê chuẩn quyết toán ngân sách hàng
năm, là tài liệu tham khảo cho việc giao dự toán, phân bổ ngân sách đảm bảo
đúng quy định và giúp cho HĐND, các đại biểu HĐND có thông tin trong
việc giám sát sử dụng NSNN của UBND và các cơ quan, đơn vị trên địa bàn.
1.3. Các nhân tố tác động đến hoạt động ra quyết định và giám sát
thu chi ngân sách của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Các nhân tố tác động đến hoạt động ra quyết định và giám sát thu chi
ngân sách của HĐND tỉnh được dựa trên nhiều khía cạnh, tiêu chí khác nhau,
tập trung vào một số nhân tố:
1.3.1. Các nhân tố khách quan
- Các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ ngành Trung ương có
tác động chi phối lớn đến hoạt động ra quyết định và giám sát thu - chi ngân
sách của HĐND tỉnh. Trên cơ sở các quy định của Trung ương về giao dự
toán ngân sách, bổ sung dự toán ngân sách; quy định thu phí, lệ phí thuộc
thẩm quyền quyết định của Bộ Tài chính, của HĐND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương; tỷ lệ điều tiết các khoản thu ngân sách cho các cấp ngân
23
sách; hướng dẫn thực hiện các chế độ chính sách...HĐND tỉnh quyết định
giao, phân bổ dự toán, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết
định các khoản thu - chi ngân sách và giám sát hoạt động quản lý ngân sách
theo thẩm quyền.
- Tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương cũng có tác động
lớn đến hoạt động ra quyết định của HĐND tỉnh trong hoạt động ra quyết
định và giám sát thu - chi ngân sách. Định kỳ hoặc hàng năm, HĐND tỉnh căn
cứ tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh xem xét ban hành các Nghị
quyết về cơ chế, chính sách liên quan đến các khoản thu ngân sách; bố trí vốn
đầu tư XDCB; các cơ chế hỗ trợ phát triển ngành, lĩnh vực; dịch vụ
công...nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh
theo kế hoạch.
- Phong tục, tập quán, ý thức của người dân cũng có ảnh hưởng đến
hoạt động ra quyết định và giám sát thu - chi ngân sách. Trong các lĩnh vực
vận động nhân dân thực hiện xã hội hóa cho thấy phong tục, tập quán, ý thức
của người dân có nơi tác động mang tính quyết định đến thành công của
Chương trình, giảm áp lực chi ngân sách, điển hình như việc huy động nhân
dân đóng góp nguồn lực thực hiện Chương trình xây dựng Nông thôn mới ở
những địa phương nhân dân có phong tục, tập quán lành mạnh, ý thức tốt, tích
cực tham gia cùng với địa phương thì sớm hoàn thành các tiêu chí theo quy
định mà ngân sách nhà nước không phải hỗ trợ nhiều.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
1.3.2.1. Các nhân tố tác động đến hoạt động ra quyết định thu chi
ngân sách của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
- Số lượng các Nghị quyết được ban hành trên từng lĩnh vực thuộc
thẩm quyền.
- Chất lượng các dự thảo Nghị quyết: Tính hợp hiến, hợp pháp; phù hợp
với tình hình thực tế, tính khả thi và đáp ứng kịp thời các yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội tại địa phương.
24
- Quy trình xây dựng dự thảo Nghị quyết: Việc chấp hành theo trình tự,
thủ tục quy định của pháp luật, chất lượng dự thảo Nghị quyết; mức độ tham gia
của các cơ quan, cá nhân liên quan, đối tượng chịu tác động của Nghị quyết.
- Kỹ năng, mức độ tham gia thảo luận, phân tích, đánh giá các nội dung
trình kỳ họp của đại biểu HĐND; quy trình xem xét biểu quyết thông qua
Nghị quyết tại kỳ họp.
- Hiệu lực, hiệu quả thực tế, khả năng đi vào cuộc sống của các chính
sách do HĐND ban hành.
1.3.2.2. Các nhân tố tác động đến hoạt động giám sát thu chi ngân
sách của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
- Số lượng các cuộc giám sát (Đoàn giám sát) được tổ chức; nội dung
(giám sát chung hay giám sát chuyên đề) và hình thức tổ chức giám sát; số
lượng các đề xuất, kiến nghị sau giám sát.
- Kỹ năng tập hợp, phân tích, đánh giá thông tin, số liệu qua các hoạt
động giám sát của đại biểu HĐND.
- Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn: Mức độ tham gia chất vấn, truy
vấn của đại biểu; kỹ năng chọn lựa và trình bày vấn đề chất vấn; việc trả lời chất
vấn của cơ quan chức năng và kết quả thực hiện ý kiến trả lời chất vấn.
- Việc chấp hành các kết luận giám sát của các cơ quan chức năng; mức
độ quan tâm, theo dõi, đôn đốc giải quyết các kiến nghị, đề xuất sau giám sát
của HĐND, đại biểu HĐND.
- Kỹ năng xử lý thông tin và mức độ quan tâm của đại biểu đối với các
kiến nghị của cử tri.
Tiểu kết chương 1
Luật Tổ chức HĐND và UBND; Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của HĐND, UBND; Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản pháp
luật khác đã quy định thẩm quyền trong hoạt động ra quyết định và giám sát
thu - chi ngân sách của HĐND tỉnh. Tuy nhiên, tính thực quyền của HĐND
25