Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

KIẾN THỨC, THÁI độ, THỰC HÀNH TIÊM vắc XIN PHÒNG UNG THƯ cổ TỬCUNG của SINH VIÊN nữ KHỐI y học dự PHÒNG TRƯỜNG đại học y hà nội năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.36 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

LÊ VĂN HỘI

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH TIÊM VẮC
XIN PHÒNG UNG THƯ CỔ TỬ CUNG CỦA SINH
VIÊN NỮ KHỐI Y HỌC DỰ PHÒNG TRƯỜNG
ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NĂM 2019

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y TẾ CÔNG CÔNG

HÀ NỘI, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

LÊ VĂN HỘI

KIẾN THỨC,THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH TIÊM VẮC
XIN PHÒNG UNG THƯ CỔ TỬ CUNG CỦA SINH
VIÊN NỮ KHỐI Y HỌC DỰ PHÒNG TRƯỜNG
ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NĂM 2019
Chuyên ngành: Y tế công cộng


Mã số: 8720701

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS.LÊ THỊ THANH XUÂN

Hà Nội, năm 2019


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BYT

Bộ Y Tế

CTC

Cổ tử cung

HPV

Human Papiloma Virus (Vi rút gây ung thư cổ tử cung ở người)

IARC
KAP

Cơ quan Quốc tế nghiên cứu về Ung thư
Kiến thức, thái độ, thực hành

PN

QHTD

Phụ nữ
Quan hệ tình dục

STD
SV

Sexually Transmitted Disease (Bệnh lây qua đường tình dục)
Sinh viên

TĐKTC

Thái độ không tích cực

TĐTC

Thái độ tích cực
Ung thư cổ tử cung

UTCTC
WHO

World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới)
YHDP&YTCC Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ


1

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

1.1. Dịch tễ học ung thư cổ tử cung...............................................................3
1.1.1. Khái niệm ung thư cổ tử cung và sự phát triển của ung thư cổ tử cung...3
1.1.2. Gánh nặng ung thư cổ tử cung..........................................................4
1.2. Một số đặc điểm của HPV......................................................................6
1.3. Các đường lây truyền và hậu quả do nhiễm HPV...................................7
1.4. Tình hình nhiễm HPV.............................................................................8
1.4.1. Tình hình nhiễm HPV trên thế giới...................................................8
1.4.2. Tình hình nhiễm HPV ở Việt Nam....................................................9
1.5. Các phương pháp dự phòng UTCTC do lây nhiễm HPV.....................10
1.6. Vắc xin phòng ung thư cổ tử cung........................................................11
1.7. Một số nghiên cứu về KAP về phòng chống UTCTC..........................13
1.7.1. Nghiên cứu trên thế giới.................................................................13
1.7.2 Nghiên cứu tại Việt Nam..................................................................15
1.7.3. Các yếu tố liên quan đến tiêm vắc xin cổ tử cung..........................17
1.8. Địa bàn nghiên cứu...............................................................................19
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

20

2.1. Địa điểm nghiên cứu.............................................................................20
2.2. Đối tượng nghiên cứu............................................................................20
2.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng........................................................20
2.2.2 Tiêu chuẩn loại trừ...........................................................................20
2.3. Thời gian nghiên cứu...........................................................................20

2.4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................20
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu.........................................................................20
2.4.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu..............................................................20
2.5. Phương pháp thu thập số liệu:..............................................................21
2.6. Biến số, chỉ số nghiên cứu...................................................................22
2.6.1.Biến số cho mục tiêu 1......................................................................22


2.6.2. Biến số cho mục tiêu 2.....................................................................26
2.7. Sai số và biện pháp khắc phục sai số:..................................................27
2.8. Tiêu chí đánh giá...................................................................................27
2.8.1 Đánh giá về kiến thức HPV, bệnh UTCTC và vắc xin phòng
UTCTC..........................................................................................27
2.8.2. Thái độ về HPV và vắc xin phòng UTCTC....................................28
2.9. Xử lý và phân tích số liệu:....................................................................29
2.10. Đạo đức của nghiên cứu:.....................................................................30
Chương 3: DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

31

3.1.Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về tiêm vắc xin phòng ung thư cổ
tử cung của Sinh viên nữ khối Y học dự phòng Trường Đại học Y
Hà Nội năm 2019................................................................................31
3.1.1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu....................................31
3.1.2. Kiến thức về HPV, bệnh UTCTC và vắc xin phòng ung thư cổ tử cung. 33
3.1.3. Thái độ về HPV và vắc xin phòng UTCTC....................................38
3.1.4. Thực hành tiêm vắc xinphòng UTCTC...........................................40
3.2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về
tiêm vắc xin phòng ung thư cổ tử cung của Sinh viên nữ khối Y học
dự phòng Trường Đại học Y Hà Nội năm 2019..................................44

3.2.1.Mối liên quan giữa kiến thức về vắc xin phòng UTCTC và đặc điểm
cá nhân..........................................................................................44
3.2.2. Mối liên quan giữa thái độ về vắc xin phòng UTCTC và đặc điểm cá nhân 45
3.2.3. Mối liên quan giữa thực hành tiêm vắc xin phòng UTCTC và đặc
điểm cá nhân.................................................................................46
3.2.4. Mối liên quan giữa kiến thức, thái độ và thực hành về tiêm vắc xin
phòng UTCTC...............................................................................48
Chương 4: DỰ KIẾN BÀN LUẬN 50
DỰ KIẾN KẾT LUẬN 51
DỰ KIẾN KHUYẾN NGHỊ 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Mô tả tỷ lệ sinh viên đồng ý tham gia nghiên cứu theo các khóa học
theo các lớp 21 ᄃ
Bảng 2.2: Mô tả về kiến thức về vắc xin HPV phòng ngừa UTCTC
Bảng 3.1: Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

22 ᄃ

31 ᄃ

Bảng 3.2: Một số đặc điểm về gia đình đối tượng nghiên cứu

32 ᄃ


Bảng 3.3: Thông tin về kiến thức nghe nói về HPV 33 ᄃ
Bảng 3.4 Kiến thức về HPV của đối tượng nghiên cứu

35 ᄃ

Bảng 3.5. Kiến thức của đối tượng nghiên cứu về bệnh UTCTC 35 ᄃ
Bảng 3.6 Kiến thức của đối tượng nghiên cứu về bệnh UTCTC 43
Bảng 3.7. Kiến thức của đối tượng về vắc xin phòng UTCTC 36
Bảng 3.8. Đánh giá kiến thức của đối tượng nghiên cứu về vắc xin phòng
UTCTC
38
Bảng 3.9. Thái độ về HPV của đối tượng nghiên cứu
38
Bảng 3.10. Thái độ của đối tượng nghiên cứu về HPV
38
Bảng 3.11. Thái độ về tìm hiểu vắc xin phòng UTCTC 39
Bảng 3.12. Thái độ về tìm hiểu vắc xin phòng UTCTC của đối tượng nghiên
cứu
40
Bảng 3.13. Tiêm phòng vắc xin phòng UTCTC 40
Bảng 3.14. Lý do chưa tiêm phòng vắc xin UTCTC
41
Bảng 3.15. Lý do không tiêm phòng vắc xin UTCTC
42
Bảng 3.16. Dự định tiêm phòng vắc xin UTCTC 43
Bảng 3.17. Đánh giá thực hành về vắc xin phòng UTCTC43
Bảng 3.18. Phân tích đơn biến mối liên quan giữa một số yếu tố kiến thức của
đối tượng tiêm phòng vắc xin UTCTC 44
Bảng 3.19. Phân tích đơn biến mối liên quan giữa một số yếu tố và thái độ của
đối tượng tiêm phòng vắc xin UTCTC 45

Bảng 3.20. Phân tích đơn biến mối liên quan giữa một số yếu tố và thực hành
của đối tượng tiêm phòng vắc xin UTCTC
46


Bảng 3.21. Phân tích hồi quy Logicstic đa biến xác định yếu tố liên quan tới
kiến thức, thái độ và thực hành của đối tượng tiêm phòng vắc xin
UCTCT
48


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
ᄉ Biểu đồ 3.1. Lý do chưa tiêm phòng vắc xin

ᄉ 4241 ᄉ

DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Cơ chế sinh ung thư cổ tử cung của Human Papilloma virus ..........3
Hình 1.2. Tỷ lệ mắc và tử vong UTCTC chuẩn tuổi ........................................4


ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư cổ tử cung (UTCTC) là bệnh lý phổ biến, đứng hàng thứ hai
trong số các ung thư sinh dục ở phụ nữ trên thế giới và là một trong những
nguyên nhân tử vong hàng đầu của giới nữ, nhất là ở những nước đang phát
triển mặc dù thực tế thì đây là bệnh có thể phòng ngừa được [1]. Năm 2018,
ước tính có 569.847 trường hợp măc mới và 311.365 trường hợp tử vong do
UTCTC trên toàn thế giới; hơn 85% số ca tử vong này xảy ra ở các nước thu
nhập thấp và trung bình [2].Tại Việt Nam, hàng năm có khoảng 5.000 ca mắc
mới và 2.500 ca tử vong do UTCTC, đứng thứ tư trong số các ung thư ở phụ

nữ, theo thống kê cứ 100.000 phụ nữ thì có 15 người mắc UTCTC và có xu
hướng ngày càng tăng [Error: Reference source not found],[4].
Vi rút gây ung thư cổ tử cung ở người (HPV) được xác định là nguyên
nhân chính gây UTCTC. HPV rất dễ lây lan và hầu hết mọi phụ nữ đều có
nguy cơ nhiễm phải. Trung bình cứ 10 phụ nữ thì có đến 8 người có thể từng
một lần nhiễm HPV trong đời [Error: Reference source not found]. Có hơn
100 loại HPV, trong đó hai loại HPV type16 và type 18 gây ra 70% UTCTC
và tổn thương cổ tử cung (CTC) tiền ung thư ở phụ nữ [5].
Mặc dù UTCTC là một căn bệnh nguy hiểm nhưng có thể phòng tránh
được. Tiêm vắc xin phòng UTCTC là một trong những biện pháp tốt nhất để
phòng bệnh UTCTC. Năm 2006, Australia là quốc gia đi đầu trong chương
trình tiêm vắc xin HPV với gần 80% các em gái được tiêm chủng và khoảng
75 - 80% phụ nữ dưới 26 tuổi được tiêm phòng kể từ năm 2008. Hiệu quả của
vắc xin đã được chứng minh từ ghi nhận tốt việc phòng ngừa 95% các tổn
thương ở cổ tử cung [6], [7]. Theo WHO, tính đến tháng 5/2017 vắc xin HPV
đã được đưa vào chương trình tiêm chủng của 71 Quốc gia trên thế giới [8].
Hiện tại vắc xin phòng UTCTC chỉ được sử dụng tiêm chủng dịch vụ, nghĩa
là đối tượng tiêm chủng phải tự trả tiền.
Tại Việt Nam, vắc xin phòng UTCTC lần đầu được giới thiệu
năm 2007 thông qua dự án “Đánh giá các chiến lược tiêm vắc xin phòng ung
thư cổ tử cung tại Việt Nam giai đoạn 2007-2011” do tổ chức PATH hỗ trợ


[9]. Hiện nay có 2 loại vắc xin là Gardasil® và Cervarix®, theo khuyến cáo
của nhà sản xuất vắc xin được chỉ định tiêm cho nữ giới trong độ tuổi từ 9 –
26 tuổi, bất luận đã từng quan hệ tình dục hay chưa và nên đi tiêm vắc xin
phòng ung thư cổ tử cung càng sớm càng tốt. Vắc xin thường có hiệu quả bảo
vệ kéo dài khoảng 30 năm.
Nhiều nghiên cứu và các bằng chứng thực tiễn ở nhiều nước trên thế
giới đã chứng minh được mức độ an toàn, tính hiệu quả của vắc xin HPV

trong phòng nhiễm HPV[10]. Một kết quả ở Hoa Kỳ cho thấy sinh viên đại
học là đối tượng có nguy cơ nhiễm HPV do thiếu nhận thức về HPV và có
nhiều hành vi có nguy cơ cao: uống rượu, quan hệ tình dục (QHTD), hút
thuốc lá… đồng thời khuyến cáo việc cần có nhiều nghiên cứu đánh giá kiến
thức, thực hành về phòng chống HPV trong sinh viên đại học[11].
Vì thế để dự phòng UTCTC do nhiễm HPV ở các nước đang phát triển
như Việt Nam, rất cần các chương trình can thiệp sớm phòng nhiễm HPV cho
cộng đồng. SV nữ khối Y học dự phòng cũng thuộc nhóm đối tượng có nguy
cơ cao lại là những cán bộ y tế trong tương lai, do vậy trang bị đầy đủ những
kiến thức, xây dựng thái độ đúng đắn cũng như thúc đẩy hành vi phù hợp sẽ
giúp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ y tế này và trở thành tấm gương cho
cộng đồng. Khối Y học dự phòng,Trường Đại học Y Hà Nội với quy mô đào
tạo toàn khoá khoảng 600 SVchủ yếu ở độ tuổi từ 18 đến 25. Tuy nhiên cho
đến nay chưa có nghiên cứu nào về kiến thức, thái độ và thực hành tiêm
phòng vắc xin phòng UTCTC ở SV nữ khối Y học dự phòng của Trường.
Chính vì lý do trên, tôi tiến hành nghiên cứu “Kiến thức, thái độ, thực hành
tiêm vắcxin phòng ung thư cổ tử cung của Sinh viên nữ khối Y học dự
phòng Trường Đại học Y Hà Nội năm 2019” với hai mục tiêu sau:
1. Mô tả kiến thức, thái độ và thực hành tiêm vắcxin phòng ung thư cổ tử
cung của Sinh viên nữ khối Y học dự phòng Trường Đại học Y Hà Nội
năm 2019.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành tiêm
vắc xin phòng ung thư cổ tử cung của Sinh viên nữ khối Y học dự phòng
Trường Đại học Y Hà Nội năm 2019.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Dịch tễ học ung thư cổ tử cung
1.1.1. Khái niệm ung thư cổ tử cung và sự phát triển của ung thư cổ tử cung

UTCTC xảy ra khi các tế bào ở CTC bắt đầu phát triển và nhân rộng
cách bất thường và không kiểm soát được. Các tế bào này bị mất chức năng
bình thường và hình thành khối u. Các khối u ác tính ở CTC có thể di căn và
phá hủy các bộ phận khác của cơ thể [12]. UTCTC hình thành trong mô CTC
do nhiễm vi rút sinh u nhú ở người, HPV. Hầu hết các trường hợp UTCTC
đều bắt đầu từ các tế bào vùng chuyển tiếp giữa cổ trong và cổ ngoài bị tổn
thương, nhiễm HPV và biến đổi dần dần, phát triển thành tiền ung thu ̛ rồi
UTCTC [12]. Nhiễm HPV là nguyên nhân cần thiết gây UTCTC [12],[13],
sau lần nhiễm đầu tiên, khoảng 5-10% có thể hình thành các biến đổi [ 12],
[13],[8]. PN bị nhiễm HPV nguy cơ cao và phối hợp thêm các nguy cơ
khác, tổn thương ban đầu có thể tồn tại và tiến triển trong 10 - 20 năm để
hình thành UTCTC với hệ miễn dịch bình thường [14],[15],[16] và chỉ 510 năm nếu bị suy giảm miễn dịch [17]. Cơ chế sinh UTCTC được mô tả
tại (Hình 1.1).

Hình 1.1. Cơ chế sinh ung thư cổ tử cung của Human Papilloma virus [6]


Một số yếu tố được xem làm tăng nguy cơ nhiễm HPV và phát triển
UTCTC như PN có QHTD sớm, hoặc quan hệ với nhiều người, sinh nhiều
con, vệ sinh sinh dục không đúng cách, viêm CTC mạn tính, mắc các bệnh lây
truyền qua đường tình dục STDs, đặc biệt là viêm sinh dục do nhiễm
Trichomonas, Chlamydia trachomatis, Herpes simplex virus type 2 (HSV2)...;
điều kiện dinh dưỡng kinh tế xã hội thấp, sử dụng thuốc tránh thai đường
uống loại phối hợp kéo dài, hút thuốc lá, đái tháo đường, suy giảm miễn dịch
như nhiễm HIV [8], [13],14],[17].
1.1.2. Gánh nặng ung thư cổ tử cung
1.1.2.1. Trên thế giới
Theo số liệu ung thư toàn cầu (GLOBOCAL 2018) tình hình mắc và tử
vong do UTCTC của PN trên toàn thế giới được mô tả chi tiết tại (Hình 1.2).


Hình 1.2. Tỷ lệ mắc và tử vong UTCTC chuẩn tuổi (thế giới) [18]


Khu vực Châu Á và Châu Đại Dương thì tỷ lệ chuẩn theo tuổi (ASR) về
bệnh UTCTC chung là 15,2, thấp nhất là Australia (4,9), cao nhất là các nước
như Ấn Độ (27), Campuchia (27,4); Mông Cổ (28,0) và Nepal (32,0) [19]. Tại
các nước có thu nhập trung bình và thấp cao nhất là ở Đông Phi (Zimbabwe)
và thấp nhất ở Tây Á [20]. Gần 90% trường hợp tử vong do UTCTC trên thế
giới xảy ra ở các khu vực đang phát triển trong đó 60.100 trường hợp ở Châu
Phi và Châu Mỹ Latin, vùng Caribê (28.600) và Châu Á là 144.400 [21].
1.1.2.2. Tại Việt Nam
Theo số liệu GLOBOCAL 2018 và thống kê của Cơ quan Quốc tế
Nghiên cứu Ung thư (IARC), hiện mỗi năm Việt Nam có hơn 164.000 ca mắc
mới và khoảng 114.000 người tử vong vì ung thư [22].
UTCTC là một trong những loại ung thư phổ biến ở nữ giới Việt Nam
[23]. Đối với PN trong độ tuổi 15 - 44 tuổi thì UTCTC mắc phổ biến thứ 2 và
tử vong xếp thứ 6 [24]. Theo số liệu gần đây nhất của GLOBOCAL 2018 và
IARC Việt Nam có 2.420 trường hợp PN bị tử vong do UTCTC với tỷ lệ
chuẩn theo tuổi(4,0/100.000) [22]. Năm 2005 TCYTTG ước tính tỷ lệ mắc
UTCTC ở Việt Nam là 16-24/100.000 do đó Việt Nam là một trong các quốc
gia có tỷ lệ mắc cao trên thế giới [25]. Năm 2010, Việt Nam có 5.664 trường
hợp UTCTC với ASR (13,6/100.000) [26], Theo IARC (2012) tỷ lệ UTCTC
tại Việt Nam tương đương so với các nước trong khu vực như Indonesia,
Philippines, Brunei [27]. Năm 2016, tại Việt Nam có khoảng 36,91 triệu PN
từ 15 tuổi trở lên có nguy cơ bị UTCTC [28]. Theo GLOBOCAL 2018 Việt
Nam có 4.177 trường hợp UTCTC mắc mới với ASR (7,1/100.000), trung
bình mỗi ngày có trên 11 PN được phát hiện bị UTCTC và khoảng gần 7 PN
bị tử vong do UTCTC [22].
Thực tế, việc PN Việt Nam bị UTCTC được tiếp cận với cơ sở y tế là
rất thấp và phần lớn đến khám và điều trị đều ở giai đoạn muộn. Bệnh nhân



khám và điều trị tại Bệnh viện K (2007-2011) đa số ở giai đoạn muộn gần
70%, riêng UTCTC giai đoạn III và IV chiếm 57,8% [29]. Còn tại Bình Định
100% bệnh nhân UTCTC nhập viện đều ở giai đoạn muộn trong đó 53% giai
đoạn IV, 29% giai đoạn III và 18% giai đoạn II [30].
1.2. Một số đặc điểm của HPV
HPV là một vi rút không có vỏ ngoài, kích thước nhỏ, đường kính
trung bình khoảng 45-55 nm. Lớp vỏ protein của vi rút bao bọc nucleic acid
và được cấu thành từ các đơn vị cấu trúc (structure units), các đơn vị cấu trúc
này cấu thành 1 capsomer (đơn vị hình thái quan sát được trên bề mặt của các
hạt vi rút tương ứng với tập hợp các đơn vị cấu trúc), lớp vỏ của vi rút được
cấu thành từ 72 capsomer. Mỗi đơn vị capsomer gồm 2 loại protein là protein
L1 và L2 [27].
Cho đến nay, đã có gần 120 loại HPV được xác định. Mỗi loại có sự
thích nghi cao với một loại biểu mô nhất định. Các loại HPV có thể gây ra các
vấn đề sức khỏe nghiêm trọng khác nhau ví dụ như mụn cóc hoặc ung thư.
Tùy thuộc vào nguy cơ gây ung thư người ta chia các loại HPV làm 3 nhóm là
nhóm chưa xác định được nguy cơ gây bệnh (HPV 3, 7, 10, 13, 27,...), nhóm
có nguy cơ thấp (HPV 6, 11, ...) và nhóm có nguy cơ cao (HPV 16, 18, ...)
[31], [32].
Tuy có sự khác biệt về tần suất nhiễm các loại HPV giữa các vùng địa
lý nhưng type 16 và type 18 thường là nguy cơ gây ung thư cổ tử cung ở hầu
hết các nơi trên thế giới [33], [34], [35], [36].


1.3. Các đường lây truyền và hậu quả do nhiễm HPV

HPV lây truyền chủ yếu qua đường tình dục. Hoạt động tình dục đồng
giới hay khác giới đều có thể lây truyền HPV trực tiếp qua đường sinh dục,

miệng và hậu môn [7], [37], [38].
HPV cũng có thể lây truyền trực tiếp từ da qua da, qua niêm mạc miệng
và niêm mạc bộ phận sinh dục do vết thương hở ở bộ phận sinh dục, qua các
hành vi tình dục trong đó có sờ, chạm vào bộ phận sinh dục bằng tay hoặc
bằng miệng của người bệnh sang người lành [37], [39].
HPV còn có thể lây truyền qua các vật dụng như quần áo hay bề mặt
tiếp xúc, tuy nhiên cơ chế lây truyền chưa rõ. Một số tác giả cho rằng HPV có
thể lây truyền từ mẹ sang con trong thời kỳ trước và sau sinh, tuy nhiên các
trường hợp này hiếm gặp [40].
Hầu hết những trường hợp nhiễm HPV là tạm thời, không có biểu hiện
lâm sàng và thường tự khỏi sau khoảng vài tháng đến 2 năm [31], [39].
Tuy nhiên những trường hợp này có thể tái nhiễm hoặc bị nhiễm một
loại HPV khác. Khoảng 10% số trường hợp nhiễm HPV còn lại gây bệnh có
biểu hiện lâm sàng [33]. Các tổn thương bệnh nặng nhất là cổ tử cung, gây
UTCTC xâm lấn nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời [31],[33],
[41].Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nhiễm HPV là yếu tố nguy cơ mắc
một số loại ung thư khác như ung thư âm đạo, âm hộ ở phụ nữ; ung thư
dương vật ở nam giới hoặc ung thư da, tổ chức liên kết, vòm họng, trực
tràng, hậu môn và hầu họng ở cả phụ nữ và nam giới [11],[42]. HPV còn có
thể gây ra mụn cóc ở cơ quan sinh dục (chiếm 90% số trường hợp mắc
chủng nguy cơ thấp HPV type 6 và type11) và mụn cơm ở họng, tay, chân
[39]. Tuy không gây nguy hiểm đến tính mạng nhưng u nhú gây tình trạng
không thoải mái, ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày, giảm chất lượng cuộc
sống của người nhiễm HPV [41], [43].
1.4. Tình hình nhiễm HPV


1.4.1. Tình hình nhiễm HPV trên thế giới
HPV là loại vi rút phổ biến nhất ở đường sinh sản cả nam và nữ, là
nguyên nhân của một số triệu chứng hoặc tổn thương tiền ung thư. Hơn 50%

số phụ nữ ở tuổi có hoạt động tình dục có nguy cơ nhiễm HPV ít nhất một lần
trong đời, tuy nhiên phần lớn tự khỏi trong vòng 2 năm, nhưng có khoảng
10% trong số họ nhiễm một số loại HPV dai dẳng và có nguy cơ tiến triển
thành ung thư, chủ yếu là UTCTC [44]. Theo ước tính của WHO mỗi năm
trên thế giới có khoảng 530.000 trường hợp mắc mới và hơn 270.000 người tử
vong do UTCTC, chiếm 7,5% các ca tử vong do ung thư ở phụ nữ. Hơn 85%
trường hơp tử vong do UTCTC xảy ra ở các nước đang phát triển [43].
Tỷ lệ nhiễm HPV dao động ở các quần thể dân cư khác nhau trên thế
giới và sự phân bố các loại HPV cũng thay đổi theo khu vực. Phân tích tổng
hợp của WHO tháng 6 năm 2014 cho thấy tỷ lệ nhiễm HPV ở PN trên thế giới
không có tổn thương UTCTC là khoảng 11,7%. Khu vực có tỷ lệ nhiễm HPV
cao nhất là Cận Saharan Châu Phi là 24%, tiếp đến là vùng châu Mỹ la tinh và
Caribe (16,1%); ở khu vực Đông Nam Á là 14%. Tuy nhiên sau phân tích
điều chỉnh theo quốc gia thì kết quả về nhiễm HPV ở phụ nữ ở các nước trên
thế giới khác nhau rất nhiều, thấp nhất là 1,6% và cao nhất là 41,9% [45].
Độ tuổi nhiễm HPV cao nhất ở phụ nữ dưới 25 tuổi với tỷ lệ trung bình
là 24%. Tuy nhiên một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nhiễm ở vùng Trung và
Nam Mỹ tăng lên ở phụ nữ từ 45 tuổi trở lên, hay ở một số nước có thu nhập
thấp ở châu Á và châu Phi thì tỷ lệ mắc hầu như không có gì khác biệt theo
nhóm tuổi [41].
Phân tích kết quả xét nghiệm tế bào cổ tử cung phụ nữ nhiễm HPV cho
thấy các type HPV bị nhiễm phổ biến nhất là HPV16 (2,5%), HPV18 (0,9%),
HPV31 (0,7%), HPV58 (0.6%) và HPV52 (0,6%). Tuy nhiên, mức độ phổ
biến của từng chủng loại có khác nhau theo từng quốc gia và lãnh thổ. Các
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nhiễm HPV52 là phổ biến ở Nhật Bản, Đài Loan và


các nước Đông Phi trong khi đó HPV18 là chủng vi rút phổ biến nhất ở Nam
Châu Âu; HPV53 là 1 trong 5 loại HPV chủ yếu được phát hiện tại Đông Phi,
Trung và Bắc Mỹ. Mặc dù có một số khác nhau về mức độ phổ biến của một

số chủng HPV, nhìn chung HPV16 và HPV18 vẫn là 2 chủng phổ biến và
nguy hiểm nhất ở mọi quốc gia và là nguyên nhân của hơn 70% các ca bệnh
UTCTC xâm lấn [39], [46].
1.4.2. Tình hình nhiễm HPV ở Việt Nam
Tỷ lệ nhiễm HPV tại Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng và có sự
khác nhau giữa các vùng miền. Một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nhiễm HPV
ở khu vực phía Nam cao hơn phía Bắc. Năm 2004, nghiên cứu của Cơ quan
nghiên cứu ung thư quốc tế (IARC) cho thấy tỷ lệ nhiễm HPV trong cộng
đồng dân cư nữ từ 18-75 tuổi tại Hà Nội là 4,05% [47]. Năm 2010, tác giả Bùi
Diệu và cộng sự thực hiện nghiên cứu trên 1620 phụ nữ độ tuổi 18-65 thuộc
hai quận của Hà Nội cho thấy tỉ lệ nhiễm HPV là 6,4% [10]. Cũng trong năm
2010, tác giả Trần Thị Lợi nghiên cứu trên phụ nữ 18-69 tuổi tại thành phố
Hồ Chí Minh cho kết quả tỷ lệ nhiễm là 10,8% [48] và tác giả Vũ Thị Hoàng
Lan thực hiện nghiên cứu trên 1500 phụ nữ độ tuổi 18-65 thuộc hai quận của
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỉ lệ nhiễm HPV trên toàn mẫu là
7,2%, tỉ lệ này ở Thành phố Hồ Chí Minh cao hơn ở Hà Nội và tương ứng là
8,3% và 6,1% [49]. Nghiên cứu của Hồ Thị Phương Thảo và cộng sự năm
2011 cho tỷ lệ nhiễm HPV của phụ nữ đến khám phụ khoa tại Bệnh viện trung
ương Huế là 19,6% [33]. Năm 2012 Nguyễn Hữu Quyền nghiên cứu tỷ lệ
nhiễm HPV của phụ nữ đến khám phụ khoa ở Bệnh viện đa khoa
MEDILATEC cho kết quả cao tới 29,8% [34]. Nhìn chung, kết quả của các
nghiên cứu trong nước cũng đã cho thấy tỷ lệ nhiễm HPV ở Việt Nam khác
nhau ở các vùng miền, tăng theo thời gian cũng tương tự như kết quả một số
tác giả khác trên thế giới [47],[49], [50], [51], [52].


Các chủng loại HPV phân lập được ở Việt Nam cũng bao gồm nhiều
loại khác nhau. Nghiên cứu của tác giả Vũ Hoàng Lan và cộng sự phát hiện
được 18 loại, trong đó 5 loại HPV có tỉ lệ hiện mắc cao nhất ở Hà Nội là
HPV16, 18, 58, 81 và 45 và 5 loại có tỉ lệ hiện mắc cao nhất ở Thành phố Hồ

Chí Minh là HPV 18, 11, 16, 58 và 70 [49]. Lê Quang Vinh nghiên cứu ở cả 3
miền trong cả nước phát hiện được các loại HPV nguy cơ thấp bao gồm: 6,
11, 42, 43, 61, 62, 70, 71, 81 và các loại HPV thuộc nhóm nguy cơ cao là 16,
18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 53, 56, 58, 59, 66 và 68. Cũng giống như kết
quả của nhiều tác giả khác, tỷ lệ HPV 11 và 6 là phổ biến trong nhóm nguy cơ
thấp và loại 16, 18 và 58 chiếm đa số trong nhóm nguy cơ cao. Tỷ lệ PN chỉ
nhiễm 1 loại HPV chiếm nhiều nhất (khoảng 50,4%), số nhiễm 2 loại là
22,9% và số nhiễm từ 3 loại trở lên chiếm 26,7% [52]. Nghiên của của Trần
Thị Lợi ở thành phố Hồ Chí Minh cho kết quả về tỷ lệ các chủng có nguy cơ
cao là 9,1% và chủng có nguy cơ thấp là 1,7%, trong đó cao nhất là HPV 16
(chiếm 56%), tiếp theo là HPV 18 (38%), chủng 58 là 11% và chủng 11 là 5%
[51]. Như vậy, 2 chủng HPV16 và HPV18 cũng là 2 chủng HPV phổ biến
nhất như các nước khác trên thế giới. Ngoài ra một số chủng HPV nguy cơ
cao là HPV58, HPV52, HPV35, và HPV45 cũng được ghi nhận có tỷ lệ
nhiễm cao ở PN có viêm nhiễm CTC ở Việt Nam.
1.5. Các phương pháp dự phòng UTCTC do lây nhiễm HPV
UTCTC là bệnh nguy hiểm, tỷ lệ tử vong cao nhưng nếu được phát
hiện sớm và điều trị kịp thời thì có thể phòng được phần lớn các trường hợp
bệnh. Nhiễm một hoặc nhiều loại HPV nguy cơ cao đã được khẳng định là
nguyên nhân tiên phát của UTCTC. Các phương pháp dự phòng và kiểm soát
ung thư cổ tử cung đã được WHO khuyến cáo và nhiều quốc gia trên thế giới
triển khai bao gồm dự phòng cấp 1, cấp 2 và cấp 3[Error: Reference source
not found], [6].


Dự phòng cấp 1: bao gồm tuyên truyền giáo dục nhằm giảm lối sống
tình dục có nguy cơ cao, QHTD an toàn, tiêm vắc xin phòng nhiễm HPV,
tránh hoặc làm giảm các yếu tố nguy cơ khác như lập gia đình sớm, có con
sớm, hút thuốc lá (kể cả chủ động và thụ động) [37], [53], [54]. Ngoài ra,
WHOcũng khuyến cáo giáo dục nâng cao kiến thức về HPV, nhận thức

được nguy cơ và có thái độ tích cực trong phòng lây nhiễm để giảm hành vi
nguy cơ, thực hiện chiến lược thay đổi hành vi phù hợp với từng vùng, địa
phương, phát triển và giới thiệu một cách hiệu quả về vắc xin phòng HPV,
ngoài ra cần khuyến khích cộng đồng hạn chế hút thuốc lá, có chế độ dinh
dưỡng hợp lý [43].
Dự phòng cấp 2: Mặc dù các biện pháp dự phòng ban đầu có thể coi là
giảm đáng kể nguy cơ và tỷ lệ nhiễm HPV là một nguyên nhân chính gây
UTCTC. Nhưng phát hiện các tổn thương tân sản nội biểu mô CTC và xử trí
phù hợp cũng là một vấn đề quan trọng trong khám và điều trị bệnh. Các
phương pháp hiện được dùng trong phát hiện các tổn thương tiền UTCTC bao
gồm xét nghiệm tế bào CTC (khám sàng lọc), quan sát CTC với dung dịch
acid acetic hoặc dung dịch Lugol, xét nghiệm ADN HPV. Sau khi được phát
hiện, tổn thương tiền ung thư có thể được điều trị bằng các phương pháp cắt
bỏ (khoét chóp bằng dao, dao điện, laser, LEEP) hoặc phá hủy (áp lạnh, đốt
điện, hóa hơi bằng laser) [53].
Hiện nay vắc xin đã phòng ngừa được khoảng 70% các trường hợp
UTCTC, vì vậy việc kết hợp cả hai biện pháp này sẽ mang lại hiệu quả tối đa
trong việc loại bỏ UTCTC [37].
Dự phòng cấp 3: Bao gồm phát hiện các trường hợp ung thư xâm lấn ở
giai đoạn sớm và điều trị tại các cơ sở có đủ điều kiện. Dự phòng ở cấp độ
này đã được triển khai tốt ở các nước có hệ thống y tế phát triển. Việc thực
hiện dự phòng cấp 3 ở Việt Nam còn rất khó khăn do sự phối hợp chưa đồng


bộ giữa các tuyến trong hệ thống y tế cũng như các văn bản hướng dẫn, chỉ
đạo chưa thật rõ ràng, cụ thể [53].
1.6. Vắc xin phòng ung thư cổ tử cung
Kể từ khi ra mắt tiêm chủng HPV tại Úc vào năm 2006, nó tạo ra một
cơ hội vàng như một sự can thiệp tiết kiệm cuộc sống cho hàng triệu phụ nữ
để ngăn ngừa một số loại nguy cơ cao thường xuyên của HPV. Hiệu quả vắc

xin đã được chứng minh kể từ 95% công tác phòng chống hiệu quả cho các
tổn thương cổ tử cung đã được tài liệu tốt [9], [55], [56], [57].Tất cả ba loại
vắc xin, cụ thể là Cervarix, Gardasil và Gardasil 9, hiện đang được bán trên
thị trường để bảo vệ chống lại nhiễm trùng với HPV 16 và 18. Một số phòng
còn được bảo vệ chống lại một số chủng HPV có nguy cơ cao cũng như các
loại HPV 6, 11.
Theo WHO ước tính cho tháng 5 năm 2017, vắc xin HPV được kết hợp
với các chương trình tiêm chủng quốc gia tại 71 quốc gia trên thế giới [58].
Đó là khuyến cáo cho các em gái và PN ở từ 12 -26 tuổi và cho các bé trai ở
một số nước công nghiệp cao [46]. Một lịch tiêm hai liều đã được thực hiện
cho em gái từ 9 đến 14 tuổi, và ba liều chích ngừa cho những người lớn tuổi
[46], [58]. Nó được khuyến khích để quản lý trước khi tiếp xúc với HPV để
đảm bảo hoạt động tốt nhất của vắc xin, tiêm chủng HPV, do đó, nên được
thực hiện lý tưởng trước khi hoạt động tình dục [9],[55].
Việt Nam là 1 trong 4 quốc gia được PATH tài trợ chương trình giới
thiệu vắc xin HPV đến cộng đồng từ năm 2007 [41]. PATH đã tài trợ cho
chương trình đưa vắc xin HPV đến cộng đồng dựa trên cơ sở những điều kiện
hiện có và khó khăn còn tồn tại có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của chương
trình. Cervarix và Gardasil là 2 loại vắc xin HPV đã thương mại hóa được bắt
đầu đưa vào sử dụng ở quy mô nhỏ tại Việt Nam từ năm 2011. Mỗi 1 liều
HPV được tài tợ 5 đôla Mỹ, mức độ phủ cho trẻ em gái trong khoảng 14 tuổi
đã đạt được 94% ở cả 2 nhóm [59]. Đây được xem như cơ sở để Chính phủ


Việt Nam cân nhắc việc đưa vắc xin HPV vào chương trình tiêm chủng mở
rộng quốc gia.
Tuy nhiên, sau khi hoàn thành các chương trình tiêm chủng HPV này
trong gần 10 năm, vắc xin HPV không được tích hợp vào lịch tiêm chủng
thường xuyên. Người sử dụng tự trả 3 liều vắc xin HPV và đề nghị cho tất cả
các em gái và PN ở độ tuổi từ 9-26 tuổi. Chi phí trung bình toàn cầu cho ba

mũi tiêm khoảng 400 đô la Mỹ, Trong khi đó tại Việt Nam giá khoảng 150–
195 đô la Mỹ, ở mức thấp. Tuy nhiên, chi phí này là rất cao đối với hầu hết
công dân Việt Nam khi thanh toán này có thể chiếm gần một phần mười thu
nhập năm khoảng 2170 đô la Mỹ trong năm 2016 [59]. Do đó, mối quan tâm
của phụ huynh do thiếu kiến thức và chi phí vắc xin HPV thường được coi là
các rào cản cho việc sử dụng phổ biến chủng ngừa HPV [59]. Vì vậy kiến
thức, hành vi của người dân trong từng quốc gia là cần thiết để xây dựng một
chương trình phòng ngừa HPV thành công trong tương lai.
1.7. Một số nghiên cứu về KAP về phòng chống UTCTC
1.7.1. Nghiên cứu trên thế giới
Việc đánh giá về kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống UTCTC
trên thế giới và trong khu vực đã được hành tại một số quốc gia trên các đối
tượng như là phụ nữ khám sàng lọc, hay cha mẹ của trẻ em gái… [34],[51]
những đối tượng là SV với độ tuổi chủ yếu là khoảng 18 đến 25 vẫn được chú
ý nhất. Kết quả của các nghiên cứu đều cho thấy tỷ lệ hiểu biết về HPV, con
đường lây truyền và cách phòng tránh HPV là rất hạn chế nếu không có các
biện pháp can thiệp về truyền thông.
Tại Châu Âu, một nghiên cứu ở Scotland tiến hành năm 2008 khảo sát
hiểu biết của 150 SV(100 nữ và 50 nam) tại trường Đại học y khoa của
Glasgow trước và sau can thiệp truyền thông cho thấy trước khi có can thiệp
tỷ lệ trả lời đúng về con đường lây truyền, các biện pháp phòng tránh chỉ dưới
50% ở cả nam và nữ nhưng sau can thiệp thì tỷ lệ này tăng lên 73%, chỉ có


50% trả lời đúng về việc vắc xin không thể phòng ngừa tất cả các loại HPV.
Dù cho có sự gia tăng đáng kể về sự hiểu biết về HPV, nhưng vẫn còn đến
hơn 30% tin rằng UTCTC không liên quan đến HPV mà là một loại khác. Đại
đa số nam sinh vẫn tin rằng nam giới không cần tiêm vắc xin. Tuy nhiên hạn
chế của nghiên cứu này là việc các SV của giai đoạn điều tra sau khi can
thiệp, khi được hỏi có thể bị ảnh hưởng bởi phần kiến thức họ đã được học,

do vậy có thể làm sai lệch kết quả thêm vào là thời gian dành cho thu thập
thông tin ngắn (khoảng 10 phút) nên chất lượng câu trả lời có thể bị ảnh
hưởng [43]. Một kết quả ở Hoa Kỳ cũng chỉ ra kết quả tương đồng khi cho
thấy SV đại học là đối tượng có nguy cơ nhiễm HPV do thiếu nhận thức về
HPV và có nhiều hành vi có nguy cơ cao: uống rượu, QHTD, hút thuốc lá…
đồng thời khuyến cáo việc cần có nhiều nghiên cứu đánh giá kiến thức, thực
hành về phòng chống HPV của đối tượng này cũng như trong cộng đồng [11].
Tại khu vực Châu Phi, khi tiến hành nghiên cứu tại trường Đại học
Nam Phi năm 2013với 440 đối tượng là nữ SVbằng phương pháp nghiên cứu
mô tả cắt ngang cho thấy ngoài 277 đối tượng nghiên cứu đã có QHTD
(chiếm 63%) thì trong số những SV chưa bao giờ có QHTD (n = 163) có 96
SV (58,9%) đã từng nghe nói về bệnh UTCTC nhưng chỉ có 12 SV (12,5%)
biết rằng HPV gây UTCTC. Hơn một phần ba (35,4%) SV nói chính xác rằng
QHTD trước 18 tuổi là một nguy cơ gây UTCTC và 55,2 % SV biết về thử
nghiệm PAP (phết tế bào cổ tử cung) được sử dụng để khám sàng lọc HPV và
UTCTC. Đa số sinh viên (77,3%) sẵn sàng chấp nhận tiêm phòng HPV. Kết
quả cũng cho thấy SV đã nhận thức được rằng có nhiều bạn tình, QHTD trước
khi 18 tuổi, hút thuốc là những yếu tố nguy cơ mắc HPV và sẵn sàng chấp
nhận tiêm phòng HPV [39].
Tại Châu Á, các nghiên cứu cũng cho thấy sự thiếu hụt về kiến thức
phòng chống UTCTC. Nghiên cứu tại Nhật Bản, khi đánh giá kiến thức và
thái độ phòng ngừa UTCTC thông qua kiến thức về an toàn trong QHTD,


tiêm vắc xin HPV và khám sàng lọc với 245 SV tại một trường đại học quốc
tế cho thấy có đến 47% có QHTD với độ tuổi sớm nhất là 13 tuổi; số có quan
hệ từ 3 bạn tình trở lên là 22% nhưng lại chỉ có 42% là có sử dụng bao cao su.
Là một quốc gia tiến hành tiêm chủng mở rộng vắc xinHPV nhưng tại cuộc
điều tra này lại chỉ có 1,5% đã từng hỏi về các biện pháp khám sàng lọc và
chỉ có 2 SV đã tiêm phòng. Một trong những nguyên nhân chính là SV nhận

thức chưa đầy đủ về tình dục an toàn cũng như mối liên quan giữa HPV và
UTCTC; thiếu động lực khi tiếp xúc với cán bộ y tế [38].
Theo báo cáo của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ
(CDC), thì UTCTC là loại ung thư có khả năng phòng ngừa cao nhất tại các
nước phát triển vì các đối tượng có nguy cơ có tỷ lệ tiếp cận cao với các
chương trình tầm soát và tiêm vắc xin phòng nhiễm HPV đang được thực hiện
rộng rãi. Tuy nhiên tại các nước đang phát triển, việc triển khai vắc xin phòng
ngừa HPV gặp nhiều khó khăn liên quan đến hiểu biết của phụ nữ về HPV và
nguy cơ gây ung thư của HPV. Chính vì thế, gần đây ngày càng nhiều nghiên
cứu về kiến thức, thái độ và hành vi trong phòng nhiễm HPV đã được tiến
hành trên nhiều nhóm đối tượng khác nhau như SV, PN, cán bộ 10 y tế [60],
Kết quả cho thấy mặc dù kiến thức, thái độ, hành vi về phòng nhiễm HPV có
cải thiện nhưng tỷ lệ nhóm PN hiểu biết về lĩnh vực này luôn thấp và có sự
khác nhau giữa các khu vực, quốc gia trong toàn cầu cũng như giữa các địa
phương trong mỗi nước [61], [62], [63].
1.7.2 Nghiên cứu tại Việt Nam
Cho đến nay, các nghiên cứu về HPV ở Việt Nam chủ yếu là xác định
tỷ lệ nhiễm, các loại HPV thường gặp còn các nghiên cứu về kiến thức, thái
độ và thực hành về HPV ở PN cho đến nay vẫn chưa có nhiều. Mặc dù vậy
theo một số tác giả thì kiến thức, thái độ, hành vi của PN trong phòng nhiễm
HPV có sự khác nhau giữa các vùng/miền. Sự khác nhau có thể do cách chọn
đối tượng và điều kiện kinh tế, xã hội của địa bàn. Với các số liệu của các


nghiên cứu hiện có, tỷ lệ đạt kiến thức về HPV cao hơn ở các đối tượng
nghiên cứu ở các tỉnh phía Nam[64], [65].
Lê Thị Yến Phi và cộng sự (năm 2011) nghiên cứu trên 206 phụ nữ tuổi
19-26 tới tiêm vắc xin HPV tại Bệnh viện Hùng Vương và Paster thành phố
Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ khách hàng có kiến thức và thái độ về tiêm vắc
xin HPV được đánh giá tốt chỉ là 37,4%, khá là 39,3%, trung bình là 20,9%,

và kém là 2,4% [66], [67].
Nghiên cứu của Huỳnh Thị Thu Thủy ở Bệnh viện Từ Dũ cũng vào
năm 2011, với 196 đối tượng là thanh, thiếu niên nữ tuổi 13-26 đến tiêm
phòng HPV cho thấy có 55,1% có kiến thức đúng về HPV (điểm trung bình
7,4± 1,56), 55,6% có kiến thức đúng về UTCTC (điểm trung bình 5,5±
0,66) [68].
Ở Hà Nội, năm 2014, Phạm Quốc Thắng đã tiến hành nghiên cứu về
kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống HPV với 615 đối tượng là học sinh
trường Trung cấp Y Dược Hà Nội. Kết quả thu được trong số đã nghe về HPV
có tới 42,4% không biết đường lây của HPV; 39% không biết hành vi nào có
nguy cơ lây nhiễm HPV; Trong khi đó thái độ của học sinh lại tương đối tích
cực. Ngược lại với một số hành vi dự phòng lại có kết quả thấp: chỉ 5,5% các
em đã tiêm phòng vắc xin HPV; chỉ 12,7% đã từng khám sàng lọc; tỷ lệ sử
dụng bao cao su trong quan hệ tình dục chỉ chiếm 41,2% [69].
Kiến thức về vắc xin và tiêm phòng vắc xin còn thấp hơn nhiều so với
kiến thức về HPV. Tỷ lệ kiến thức đúng về vắc xin HPV của các bà mẹ trong
nghiên cứu của Việt Thị Minh Trang tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2012 chỉ
là 10,7%. Kết quả nghiên cứu của Lê Thị Yến Phi cho thấy có 18% phụ nữ
tham gia nghiên cứu nghĩ rằng tiêm vắc xin HPV thì có thể yên tâm 100%
không bị UTCTC và có 19,9 % phụ nữ nghĩ rằng sau tiêm phòng HPV không
cần thiết phải làm xét nghiệm tầm soát 20 UTCTC [37]. Hiểu biết không đầy
đủ về vắc xin cũng là một yếu tố dẫn đến thiếu thái độ tích cực trong việc


×