Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Đánh giá hiệu quả điều trị phẫu thuật gãy c2 kiểu hangman

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.85 KB, 11 trang )

Kết quả điều trị phẫu thuật gãy C2 kiểu Hangman
Dương Tất Linh1, Hà Kim Trung 2
1

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Hợp Lực
2

Bệnh viện E

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị phẫu thuật gãy C2 kiểu Hangman.
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu số liệu của 50 bệnh nhân gãy C2 kiểu Hangman được phẫu
thuật tại bệnh viện Việt Đức từ 6/2017 đến 12/2018.
Kết quả: Hầu hết bệnh nhân là nam giới (82,0%), tuổi trung bình là 40,0 ± 17,0 tuổi, tai nạn
giao thông là nguyên nhân chính gây chấn thương (52,0%). Tỷ lệ tổn thương thần kinh mức
Frankel C, D giảm sau khi phẫu thuật so với trước đó. Biến chứng sớm gặp phải là loét tỳ đè
(6,0%); nhiễm trùng tiết niệu (2,0%); và khàn giọng (12,0%). Kết quả nắn chỉnh sau phẫu
thuật cho thấy 92,0% nắn chỉnh tốt, 6,0% chưa nắn được và 2,0% không vững. Sau 6 tháng, có
5 bệnh nhân có tê bì (10,0%); 13 bệnh nhân có hạn chế cúi ngửa (27,1%). 11 bệnh nhân hạn
chế quay cổ (25,0%) và 10 bệnh nhân có đau cổ (20,8%). Hầu hết liền xương sau 6 tháng và
chỉ có 1/48 bệnh nhân có nắn chỉnh không tốt. Sau mổ 6 tháng có tới 93,8% số bệnh nhân đạt
kết quả tốt, vẫn còn 2 bệnh nhân khá (4,1%) và 1 bệnh nhân đạt kết quả trung bình (2,1%).
Kết luận: Phẫu thuật tạo điều kiện cho phục hồi thần kinh tốt nhất là với nhóm bệnh nhân liệt
không hoàn toàn. Cố định cột sống qua đường cổ trước và cổ sau ít có tai biến và biến chứng
nguy hiểm.
Từ khóa: Gãy C2, gãy C2 kiểu Hangman, điều trị phẫu thuật, phẫu thuật gãy C2.
Thông tin tác giả chính:
Tác giả: Dương Tất Linh
Địa chỉ: Bệnh viện đa khoa Quốc tế Hợp Lực
Điện thoại: 0918094205



Email:
I.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Gãy cuống C2 kiểu Hangman chiếm khoảng 4% gãy cột sống cổ [1]. Điều trị gãy cột sống cổ
do gãy cuống C2 chủ yếu là phẫu thuật làm vững cột sống. Có nhiều phương pháp phẫu thuật
khác nhau tùy thương tổn, tùy trang thiết bị sẵn có và tùy theo phẫu thuật viên với hai đường
mổ chính là đường cổ trước và đường cổ sau. Từ những năm 2000, ở Việt nam bắt đầu phát
triển phẫu thuật cột sống cổ cao và gãy cuống C2 bằng phẫu thuật. Một số tác giả (Võ Văn
Thành, Dương Chạm Uyên, Hà Kim Trung) đã nghiên cứu và thực hiện những phẫu thuật này.
Tuy nhiên, đến nay vẫn còn thiếu nghiên cứu cụ thể liên quan tới điều trị gãy cuống C2 kiểu
Hangman. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Kết quả điều trị phẫu thuật gãy C2 kiểu
Hangman” nhằm đánh giá hiệu quả điều trị bằng phẫu thuật của loại tổn thương này.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Có 50 bệnh nhân được chẩn đoán gãy C2 kiểu Hangman được điều trị phẫu thuật tại Khoa
II.

Phẫu thuật thần kinh và Phẫu thuật cột sống Bệnh viện Việt Đức từ tháng 1/2017 đến tháng 12
năm 2018 được chọn vào nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện phương pháp mô tả cắt ngang hồi cứu số liệu.
Nội dung nghiên cứu
- Phương pháp phẫu thuật:
• Bệnh nhân nằm ngửa với đường mổ cổ trước bên, vai kê gối thấp hoặc nằm sấp với đường mổ
cổ sau, không để đầu cúi quá, kê đầu bệnh nhân trên giá đỡ hoặc khung Mayfiel. Vô cảm bằng
gây mê nội khí quản. Gây tê tại chỗ bằng dung dịch Adrenaline/Lidocain với tỷ lệ 1/100.000

nhằm hạn chế sự chảy máu.



Các kỹ thuật phẫu thuật sử dụng:


 Kỹ thuật nẹp vít qua cuống theo phương pháp của Roy-Camille
 Kỹ thuật Smith-Robinson kết hợp nẹp vít

-

Bệnh nhân được khám tại các thời điểm: trước phẫu thuật, sau phẫu thuật 5-7 ngày và sau phẫu
thuật 6 tháng. Đánh giá hiệu quả điều trị dựa vào khám lâm sàng (các triệu chứng toàn thân,
vận động, cảm giác, đánh giá thương tổn thần kinh) và cận lâm sàng chủ yếu dựa trên hỉnh ảnh

chụp X-quang.
• Phân loại đánh giá thương tổn thần kinh theo Frankel:

Loại
A
B
C
D
E


Đặc điểm.
Liệt hoàn toàn. Mất vận động, cảm giác dưới tổn thương.
Liệt không hoàn toàn. Cảm giác còn, mất vận động dưới vùng tổn thương.

Liệt không hoàn toàn. Cảm giác còn, vận động giảm (cơ lực chi 2/5- 3/5).
Liệt không hoàn toàn. Cảm giác còn, vận động giảm (cơ lực 4//5).
Vận động và cảm giác bình thường

Đánh giá kết quả sau mổ:
 Nhóm có kết quả tốt: bệnh nhân có biểu hiện phục hồi vận động, cảm giác, không có biến

chứng.
 Kết quả khá: không có dấu hiệu phục hồi vận động, nhưng có dấu hiệu phục hồi cảm giác,

không có biến chứng.
 Kết quả trung bình: không có biểu hiện phục hồi vận động, cảm giác, không có biến chứng.
 Kết quả xấu: bệnh nhân nặng lên sau phẫu thuật hoặc tử vong.


Đánh giá kết quả tái khám:
 Kết quả tốt: Bệnh nhân phục hồi hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn về vận động, cảm giác

và cơ tròn


 Kết quả khá: Bao gồm các bệnh nhân phục hồi không hoàn toàn về vận động và cảm giác,

có rối loạn cơ tròn
 Kết quả trung bình: Bệnh nhân không phục hồi về vận động, còn rối loạn cơ tròn.
 Kết quả xấu: Bệnh nhân không phục hồi hoặc có biến chứng như viêm phổi, viêm tiết niệu,

loét tỳ đè, suy kiệt, hoặc tử vong….
Phân tích và xử lý số liệu
Tất cả các thông tin của bệnh nhân về nhân khẩu học, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trước

và sau mổ được thu thập, đánh giá và phân tích. Số liệu được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1
và được xử lý, phân tích bằng phần mềm Stata 14.0.
Đạo đức nghiên cứu
Việc sử dụng số liệu được sự đồng ý của Bệnh viện Việt Đức, đảm bảo chỉ sử dụng cho mục
đích nghiên cứu và không gây bất kỳ ảnh hưởng bất lợi nào tới đối tượng nghiên cứu.
III.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung
Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 40,0 ± 17,0 tuổi, thấp nhất 18 tuổi và cao nhất là
84 tuổi. Đa số bệnh nhân là nam giới, chiếm 82,0%. Tai nạn giao thông là nguyên nhân chủ
yếu với 27/50 trường hợp (54%), ngã cao 10/50 trường hợp (20,0%), tai nạn sinh hoạt 8 trường
hợp (16,0%), tai nạn lao động 4 trường hợp (6,9%).
Kết quả điều trị
Kết quả sớm sau phẫu thuật
Bảng 1: Đánh giá tổn thương thần kinh trước và sau phẫu thuật theo Frankel
Độ tổn thương

Trước phẫu thuật
Số lượng
Tỷ lệ (%)

Sau phẫu thuật
Số lượng
Tỷ lệ (%)

A

1

2,0


1

2,0

B

6

12,0

6

12,0

C

4

8,0

2

4,0

D

3

6,0


2

4,0

E

36

72,0

39

78,0


Sau phẫu thuật, tỷ lệ bệnh nhân có điểm phân loại thần kinh mức Frankel C, D giảm (từ 8,0%
và 6,0% xuống còn chỉ 4,0%); trong khi đó tỷ lệ bệnh nhân ở phân loại Frankel E tăng từ 72%
lên 78%.
Bảng 2. Biến chứng sớm sau phẫu thuật
Biến chứng
Nói khàn
Loét
Viêm tiết niệu
Tử vong
Tổng

n
6
3

1
0
50

%
12,0
6,0
2,0
0
100

Ở tuần đầu sau phẫu thuật, kết quả theo dõi bệnh nhân cho thấy gặp phải một số biến chứng
sớm như: nói khàn (12,0%), loét tỳ đè (6,0%) và viêm tiết niệu (2,0%). Không có bệnh nhân tử
vong sớm sau phẫu thuật.
Bảng 3. Kết quả nắn chỉnh sau phẫu thuật
Số lượng

Tỷ lệ (%)

Nắn chỉnh tốt

46

92,0

Chưa nắn chỉnh được

3

6,0


Nắn chỉnh không vững

1

2,0

50

50

Nắn chỉnh

Tổng

Kết quả X-quuang quy ước chụp lại trước khi ra viện cho thấy hầu hết bệnh nhân được nắn
chỉnh tốt, chiếm 92,0%. Tỷ lệ chưa nắn chỉnh được là 6,8% và còn 1/50 bệnh nhân chiếm 2,0%
số bệnh nhân nắn chỉnh không vững.

Hình 1: Đánh giá kết quả điều trị sau mổ 5-7 ngày (n=58)
Đa số bệnh nhân có kết quả tốt (75,9%). Kết quả khá có 12,1% và 15,5% số bệnh nhân có kết
quả trung bình. Không có bệnh nhân nào có kết quả điều trị xấu sau khi mổ 5-7 ngày.
Kết quả điều trị sau phẫu thuật 6 tháng


Nghiên cứu liên lạc và trực tiếp khám lại cho 48/50 bệnh nhân sau 6 tháng phẫu thuật, kết quả
đánh giá như sau:
Bảng 4. Các triệu chứng lâm sàng khám lại sau mổ 6 tháng (n=48)
Triệu chứng


n
10
12
13
5
1
34
48

Đau cổ
Hạn chế quay cổ
Hạn chế cúi ngửa
Tê bì
Rối loạn cơ tròn
Bình thường
Tổng

%
20,8
25,0
27,1
10,4
2,1
70,8
100

Sau 6 tháng, có 70,8% số bệnh nhân cảm thấy hoàn toàn bình thường. Còn lại, các triệu chứng
lâm sàng thường gặp ở bệnh nhân là hạn chế quay cổ (25,0%); hạn chế cúi ngửa (27,1%); đau
cổ (20,8%); tê bì (10,4%) và vẫn còn 1/48 bệnh nhân chiếm 2,1 % có rối loạn cơ tròn.
Bảng 5. Kết quả chụp X-quang qui ước (n=48)

Kết quả
Liền xương
Nắn chỉnh không tốt

n
47
1

Tổng

%
97,9
2,1

48

100

Kết quả X-quang quy ước cho thấy xương liền tốt chiếm hầu hết với 97,9% trong nghiên cứu.
Chỉ có 1/48 bệnh nhân có nắn chỉnh chưa tốt.

Hình 2: Đánh giá kết quả điều trị sau mổ 6 tháng (n=48)
Kết quả khám lại 6 tháng sau mổ cho thấy, hầu hết bệnh nhân có kết quả tốt, chiếm 93,8%.
Không có bệnh nhân nào có kết quả kém hoặc tử vong. Vẫn còn 1/48 bệnh nhân có kết quả
điều trị mức trung bình.
IV.

BÀN LUẬN

Đặc điểm chung của bệnh nhân

Đối tượng nghiên cứu có tuổi trung bình là là 40,0 ± 17,0 tuổi, thấp nhất 18 tuổi và cao nhất là
84 tuổi. Đa số bệnh nhân là nam giới, chiếm 82,0%. Tai nạn giao thông là nguyên nhân chủ yếu


với 27/50 trường hợp (54%), ngã cao 10/50 trường hợp (20,0%), tai nạn sinh hoạt 8 trường hợp
(16,0%), tai nạn lao động 4 trường hợp (6,9%). Kết quả này là phù hợp do những đối tượng này
có khả năng tham gia giao thông và lao động, đặc biệt là lao đông nặng nhọc nhiều hơn. Kết
quả này cũng phù hợp với những nghiên cứu trước đó của Lê Văn Trụ (2012) [2], Nguyễn Đức
Viễn (2014) [1] và Lý Huy Sơn (2018) [3]
Kết quả sớm sau phẫu thuật
Đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật chúng tôi tập trung vào các yếu tố chính là biến chứng
sớm sau mổ, phục hồi thần kinh và kết quả đánh giá chung.
Đối với nhóm bệnh nhân có tổn thương thần kinh mặc dù phẫu thuật không có vai trò quyết
định đến kết quả phục hồi thần kinh nhưng các nghiên cứu đều cho rằng phẫu thuật có ảnh
hưởng rất lớn đến khả năng hồi phục: Tạo điều kiện cho hồi phục, hạn chế thương tổn thứ phát
của tủy và tạo điều kiện cho phục hồi chức năng sau mổ. Đa số các trường hợp chấn thương cột
sống cổ nói chung và vỡ C2 kiểu Hangman nói riêng có tổn thương thần kinh [4]. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân trong nhóm Frankel C-D trước mổ là 8,0% và 6,0% giảm
còn 4% sau mổ. Điều này cho thấy, nhóm bệnh nhân liệt không hoàn toàn (Frankel C-D) có sự
phục hồi về tổn thương thần kinh sau phẫu thuật. Kết quả này cũng tương tự như trong nghiên
cứu của Lý Huy Sơn và cộng sự: có 7 bệnh nhân (15,9%) nằm trong nhóm Frankel A-B không
có dấu hiệu phục hồi thần kinh trước khi ra viện, nhóm bệnh nhân liệt không hoàn toàn phục
hồi tốt hơn (Frankel C-D) từ 11,4% trước mổ giảm còn 6,8%) [3].
Đối với nhóm bệnh nhân có tổn thương thần kinh, theo lý thuyết, việc can thiệp phẫu thuật sẽ
không có vai trò quyết định đến kết quả phục hồi thần kinh. Tuy nhiên, các nghiên cứu đều cho
rằng phẫu thuật có thể có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hồi phục; giúp tạo điều kiện cho hồi
phục, hạn chế thương tổn thứ phát của tủy và giúp cho phục hồi chức năng sau mổ được thuận
lợi hơn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có bệnh nhân nào có biến chứng nuốt khó ngay sau phẫu
thuật mặc dù đây là một trong những chứng phổ biến. Trong một nghiên cứu của Yi Yang và

cộng sự, có 8/93 bệnh nhân gãy xương kiểu Hangman có biến chứng này [5]. Ở tuần đầu sau


phẫu thuật, kết quả theo dõi bệnh nhân cho thấy gặp phải một số biến chứng sớm như: nói khàn
(12,0%), loét tỳ đè (6,0%) và viêm tiết niệu (2,0%). Không có bệnh nhân tử vong sớm sau phẫu
thuật. Lý Huy Sơn nghiên cứu trên đối tượng tương tự cũng đã báo cáo kết quả tương đồng,
không có bệnh nhân nào có biến chứng thủng thực quản và nhiễm trùng vết mổ, có 5 bệnh nhân
nói khàn (11,4%) nhưng đến khi khám lại thì dấu hiệu nói khàn đã hết [3]. Các kết quả này
cũng phù hợp với nhận định của Prost S và cộng sự: Gãy xương Hangman ít gây tử vong và có
tỷ lệ biến chứng thần kinh thấp [6]
Kết quả điều trị sau phẫu thuật 6 tháng
Việc đánh giá kết quả điều trị cuối cùng (sau mổ 6 tháng) dựa trên biểu hiện lâm sàng, kết quả
nắn chỉnh trên X-quang và đánh giá chung.Có 48/50 bệnh nhân có đánh giá đầy đủ sau phẫu
thuật 6 tháng.
Sau 6 tháng, có 70,8% số bệnh nhân cảm thấy hoàn toàn bình thường, không có bệnh nhân nào
có khàn tiếng. Đây là một kết quả tích cực bởi theo nhiều tác giả, thậm chí sau phẫu thuật cột
sống cổ 5 năm, 8,9% số bệnh nhân vẫn có thể gặp các vấn đề về giọng nói [ 5]. Kết quả nghiên
cứu cũng cho thấy, các triệu chứng lâm sàng thường gặp ở bệnh nhân là hạn chế quay cổ
(25,0%); hạn chế cúi ngửa (27,1%); đau cổ (20,8%); tê bì (10,4%) và vẫn còn 1/48 bệnh nhân
chiếm 2,1 % có rối loạn cơ tròn. Trong nghiên cứu năm 2018 của Lý Huy Sơn cũng cho thấy,
trong những bệnh nhân khám lại không còn bệnh nhân nào nói khàn tiếng, tỉ lệ bệnh nhân còn
rối loạn cơ tròn là 5,3%. Bệnh nhân hạn chế quay cổ chiếm tỉ lệ 26,3% [3].
Kết quả X-quang quy ước cho thấy xương liền tốt chiếm hầu hết với 97,9% trong nghiên cứu.
Chỉ có 1/48 bệnh nhân có nắn chỉnh chưa tốt. Đây là trường hợp có chẩn đoán gãy cuống cung
C2 Type III, khoảng di lệch C2 ra trước so với C3 khá lớn, trật mặt khớp C2-C3 nên nắn chỉnh
khó khăn và hàn xương kém.
Việc đánh giá liền xương có thể được thực hiện theo phân độ của Bridwell, theo đối, độ I là
những trường hợp hàn xương tốt với sự tạo hình xương và sự hiện diện của bè xương; độ II là
trường hợp mảnh ghép còn nguyên vẹn nhưng chưa tạo hình xương đầy đủ, không có dấu hiệu
thấu quang (lucencies) ở các đầu mảnh ghép. Độ III là mảnh ghép còn nguyên nhưng có dấu



hiệu thấu quang ở đầu mảnh ghép và độ IV là khi bệnh nhân không hàn xương, mảnh ghép bị
hủy hoặc lún. Theo phân độ này, sau mổ 6 tháng cho thấy 97,0% số trường hợp đạt độ I. Chỉ
còn 1 trường hợp liền xương độ II, chiếm 2,1% số bệnh nhân nghiên cứu khám lại được. Nói
cách khác, tất cả bệnh nhân nghiên cứu đều đã đạt được lành xương.
Kết quả khám lại 6 tháng sau mổ cho thấy, hầu hết bệnh nhân có kết quả tốt, chiếm 93,8%.
Không có bệnh nhân nào có kết quả kém hoặc tử vong. Vẫn còn 1/48 bệnh nhân có kết quả
điều trị mức trung bình. Rõ ràng, kết quả này phản ánh hiệu quả điều trị rất tuyệt vời của phẫu
thuật đối với chấn thương gãy C2. Đa số bệnh nhân phục hồi hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn
về vận động, cảm giác và cơ tròn. Kết quả này cũng tương tự như trong các nghiên cứu trước
đó [7], [2], [8], [9], [10], [11], [12], cho thấy kỹ thuật phẫu thuật điều trị gãy C2 kiểu Hangman
mang lại hiệu quả khá cao. Theo Myrphy H và công sự, Thất bại điều trị ít gặp hơn trong nhóm
điều trị phẫu thuật (0,12%; CI 95%, 0,01% -2,45%) so với nhóm không phẫu thuật (0,71%; CI
95%, 0,28% -15,75%) (tỷ lệ chênh lệch 0,07; 95% CI, 0,01-0,56) [13].Theo Kaun Ibebuike và
cộng sự, phẫu thuật điều trị chấn thương cột sống cổ là phương án hiệu quả, thậm chí an toàn
ngay cả đối với trẻ nhỏ [14].
V.

KẾT LUẬN

Phẫu thuật tạo điều kiện cho phục hồi thần kinh tốt nhất là với nhóm bệnh nhân liệt không hoàn
toàn. Với bệnh nhân liệt hoàn toàn thì phẫu thuật tạo điều kiện cho chăm sóc, phục hồi chức
năng sớm làm giảm biến chứng do nằm lâu.
Cố định cột sống qua đường cổ trước và cổ sau ít có tai biến và biến chứng nguy hiểm, nắn
chỉnh tốt (91,4%) cùng với việc ghép xương tự thân mang lại hiệu quả liền xương cao (97,5%).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Nguyễn Đức Viễn, Nguyễn Phong và Trần Hùng Phong (2014), "Điều trị gãy cuống

cung C2 do chấn thương bằng phẫu thuật nẹp vít cuống cung", Nghiên cứu Y học - y học
TP. Hồ Chí Minh, Tập 18(Phụ bản số 6), tr. 73-80.


2.

3.
4.
5.

6.

7.

8.
9.

10.
11.

12.
13.

14.

Lê Văn Trụ (2012), Đánh giá đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và kết quả điều
trị phẫu thuật gãy cột sống cổ kiểu hamgman's tại bệnh viện Việt Đức, Đại học Y Hà
Nội, Hà Nội.
Lý Huy Sơn (2018), Đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và kết quả điều trị phẫu
thuật gãy cuống đốt sống cổ C2 do chấn thương, Đại học Y Hà Nội.

Hà Kim Trung (2004), Chẩn đoán và điều trị phẫu thuật chấn thương cột sống cổ có tổn
thương thần kinh tại bệnh viện Việt Đức, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
Yi Yang, Lijuan Dai, Litai Ma và các cộng sự. (2018), "Incidence of dysphagia and
dysphonia after Hangman's fractures: Evidence from 93 patients", Medicine, 97(49), tr.
e13552-e13552.
S. Prost, C. Barrey, B. Blondel và các cộng sự. (2019), "Hangman's fracture:
Management strategy and healing rate in a prospective multi-centre observational study
of 34 patients", Orthop Traumatol Surg Res, 105(4), tr. 703-707.
Nguyễn Đức Viễn, Nguyễn Đình Phong và Trần Hùng Phong (2014), "Điều trị gãy
cuống cung C2 do chấn thương bằng phẫu thuật nẹp vít cuống cung", Nghiên cứu Y học
- y học TP. Hồ Chí Minh, Tập 18(Phụ bản số 6), tr. 73-80.
S. Wang, Q. Wang, H. Yang và các cộng sự. (2017), "A novel technique for unstable
Hangman's fracture: lag screw-rod (LSR) technique", Eur Spine J, 26(4), tr. 1284-1290.
A. Ceja-Espinosa, R. Huato-Reyes và R. Ortega-Valencia (2018), "Hangman's fracture
surgical management with posterior C2-4 fusion: Case description and literature
review", Surgical neurology international, 9, tr. 147-147.
Cong Wang, Hui Ma, Wen Yuan và các cộng sự. (2013), "Anterior C3 corpectomy and
fusion for complex Hangman's fractures", International orthopaedics, 37(1), tr. 89-93.
M. A. R. Soliman, B. Y. M. Kwan và B. S. Jhawar (2019), "Minimally Invasive
Unilateral Percutaneous Transfracture Fixation of a Hangman's Fracture Using
Neuronavigation and Intraoperative Fluoroscopy", World Neurosurg, 122, tr. 90-95.
X. C. Zhu, Y. J. Liu, X. F. Li và các cộng sự. (2019), "Min-invasive surgical treatment
for multiple axis fractures: A case report", World J Clin Cases, 7(7), tr. 898-902.
H. Murphy, G. D. Schroeder, W. J. Shi và các cộng sự. (2017), "Management of
Hangman's Fractures: A Systematic Review", J Orthop Trauma, 31 Suppl 4, tr. S90s95.
Kaunda Ibebuike, Mark Roussot, James Watt và các cộng sự. (2018), "Management
challenges of traumatic spondylolisthesis of the Axis with an unusual C2-C3 posterior
subluxation in a paediatric patient: case report and literature review", African health
sciences, 18(2), tr. 458-467.



Outcomes of surgery treatment for Hangman’s fracture
Duong Tat Linh1, Ha Kim Trung2
1

Hop Luc International General Hospital
2

E Hospital

SUMMARY
Objective: Evaluating the outcome of surgery treatment for Hangman’s fracture.
Methods: Retrospective study of 58 patients with Hangman’s fracture operated at Viet Duc
Hospital and E Hospital from June 2017 to Dec 2018.
Results: The majority of patients were male (82,0%), the median age was 40,0 ± 17,0; the main
cause for fracture was traffic accident (54,0%). Decrease in the ratio of Franken C and D injury
after surgery was noted. The early complications were: impact ulcer (6,0%); urological
infection (2,0%) and raspy voice (12,0%). Post-surgery bone correction indicated that: 92%
showed good result, 6,0% were unable for the procedure and 2,0% were unstable. After 6
months, there were 5 patients had numbness (10%), 13 patients were limited bowing and
raising difficulties (27,1). 11 patients had limited ability turning his/her neck (25%) and 10 felt
pain at their neck (20.8%). Most of the patients enrolled healed after 6 months and only 1/48
had poor bone correction. At the period of 6 months post-operation, 93.8% had good outcome.
Conclusion: Surgery provided the best help for restoration of the neural system, especially
non-complete paralyzed patients. Fixing backbone via front and back neck proved to bring little
risk for complications.
Keywords: C2 fracture, Hangman’s fracture, operation, C2 fracture operation.




×