Charles Robert Darwin.
Chaerles Robert Darwin(1809_1882) là một nhà nghiên cứu ngời Anh
nổi tiếng không chỉ trong lĩnh sinh học mà còn trong những lĩnh vực
khác.Khi nói về lĩnh vực sinh học chúng ta không thể không nhắc tới
Darwin_Ngời đã đa ra về nguồn gốc các loài theo sự tiến hoá từ thấp lên cao
cũng nh nguồn gốc loài ngời, chấm dứt những quan điểm về sự sống không có
nguồn gốc hay bắt nguồn từ thần thánh, sự khủng hoảng trớc đây_Là cha đẻ
của thuyết tiến hoá và đã đề ra thuyết chọn loc tự nhiên.
Chúng ta có thể nói đợc không ít về những nhà khoa học cũng nh những
thành công của họ, cũng nh thế nhng đối với Darwin_ một ngời thành công
nhiều trong lĩnh vực sinh học nhất đã phải vợt qua không ít trở ngại khó
khăn vất vả trong cuộc sống và cuộc đời nghiên cứu để đạt đợc thành quả to
lớn cũng nh những sự thật khó tin về ông.
Về thân thế gia đình
Darwin(1809_1882)
Charles Robert Darwin l chỏu ca hai ngi ụng danh ting v giu
cú sng trong thi i Victoria ca nc Anh. ễng ni Eramus Darwin l
mt v thy thuc v nh t tng phúng khoỏng, cũn ụng ngoi Josiah
Wedgwood l nh sỏng lp lũ gm Wedgwood v cng l mt nhõn vt
hng u trong cuc Cỏch Mng K Ngh ti nc Anh. Cha ca Charles
Darwin l ụng Robert Darwin, mt bỏc s ti gii cũn m l b Susannah
Wedgwood. Charles Darwin cho i vo ngy 12 thỏng 2 nm 1809 trong
gia ỡnh cú ngi anh Eramus ln hn 4 tui. Gia ỡnh ny sng trong mt
tũa nh ln bờn ngoi th xó Shrewsbury.Vo ngy 19/1/1839, Charles
Darwin kt hụn vi cụ em h gn tờn l Emma Wedgwood. Cp v chng
ny c ng ti Bloomsbury trong mt cn nh cha nhiu mu vt ging
nh mt vin bo tng ri 3 nm sau, h dn qua lng Downe thuc ht
Kent, mt min quờ ho lỏnh. ễng b Darwin ó cú 10 ngi con, 2 a tr
ó b cht yu, mt ngi con gỏi tờn l Annie c yờu thng nht ó qua
i nm lờn 10 tui, cũn li 7 ngi con khỏc u cú c th yu ui.
Qúa trình học tập.
Khi còn nhỏ tuổi, Darwin không tỏ lộ một hứa hẹn nào rằng sau này sẽ
trở nên một nhà khoa học lừng danh trên thế giới. Tuy xuất thân từ một gia
đình gồm các học giả và nhà chuyên môn nhưng Darwin không phải là một
học sinh xuất sắc. Tại trường Charles Darwin chán nản trước tiếng La Tinh
và chương trình giáo dục cổ điển kém uyển chuyển. Cậu bị vị hiệu trưởng
trách mắng vì đã phí thời giờ vào các thí nghiệm hóa học hay vào công việc
thu thập các côn trùng, các mẫu đá.
Vào thời gian Darwin sinh ra, phần lớn các nhà khoa học đều nghĩ
rằng, các chủng loài sinh vật và thực vật là bất biến, mặc dù đã có những
suy nghĩ về sự tiến hóa cho các sinh vật, riêng con người thì không. Ông nội
của Darwin là Erasmus Darwin, cũng như Lamarck, đã giả đoán rằng các
sinh vật phát triển lên cao hơn từ các động lực bên trong của chúng.
Erasmus Darwin còn giả thiết rằng các sinh vật phát triển lên cao hơn qua
các điều kiện sống cạnh tranh, và sự sống còn của các thành viên có sức
sống cao, thích nghi hơn. Ngoài sự thừa hưởng tinh thần khoa học của ông
nội, Charles Darwin còn thừa hưởng tinh thần bền chí của ông cậu Josiah
Wedgwood (và là bố vợ sau này).
“Tôi tìm cách biết tên của các loài hoa, và thu thập tất cả mọi thứ có thể
có, sò, con dấu, tem, tiền xu, và đá khoáng. Niềm đam mê thu thập, điều
đưa con người trở thành một nhà nghiên cứu tự nhiên một cách hệ thống,
một người yêu nghệ thuật hoặc một người hà tiện, đã phát triển rất mạnh
trong tôi, và rõ ràng là bẩm sinh, điều các anh chị tôi không có.” Trong học
hành, ông được người ta bảo là chậm chạp, và “Tôi tin rằng, về nhiều
phương diện, tôi là một đứa trẻ nghịch ngợm”. Ông thú nhận rằng “tôi
thích bịa ra những chuyện không thật, cốt để gây sự náo động. Chẳng hạn
một lần tôi hái nhiều trái cây ngon từ vườn cây của bố tôi và đem dấu
chúng trong một bụi rậm. Sau đó tôi chạy đi hơi hãi phao tin rằng tôi đã
khám phá được một đống trái cây hái trộm.”
Hè 1818 ông đi vào trường lớn của TS Butler tại Shrewsbury và học ở
đó 7 năm liền. Ông được kể là người thích đi dạo cô đơn với những suy nghĩ
của mình, mặc dù ông không còn nhớ ông suy nghĩ những gì. Ông có cái thú
lớn đi câu cá hằng giờ liền bên bờ sông hay hồ. Trong học hành ông vẫn là
một cậu bé bình thường. Ông nhớ lại về thời gian qua ở trường: “Không có
gì có thể còn xấu cho sự phát triển của trí óc tôi hơn là cái trường của TS
Butler, bởi vì nó rất ư là cổ điển, không dạy cái gì khác hơn là các loại cổ
ngữ và một ít địa lý và lịch sử cổ đại. Trường học là một nơi để giáo dục,
điều đó đối với tôi là hoàn toàn lạ thường. Trong cả cuộc đời, tôi hoàn toàn
bất lực trong việc học thành thạo một ngoại ngữ.[…] Chỉ có một vui thích
duy nhất mà tôi cảm nhận được từ những buổi học tập như thế là vài đoản
ca của Horace mà tôi thật sự ngưỡng mộ.”
Rồi ông viết tiếp: “Khi rời nhà trường, tôi không thuộc loại giỏi hay
kém ở lứa tuổi đó; và tôi tin rằng tôi được tất cả các thầy và cha tôi xem
như một cậu bé rất bình thường, có phần thấp hơn tiêu chuẩn trung bình
về mặt trí tuệ là khác. Tôi cảm thấy nhục nhã sâu sắc khi bố tôi một lần nói
với tôi: Cậu chẳng quan tâm gì khác hơn là săn bắn, chó, và bắt chuột, và cậu
sẽ là một sự sĩ nhục cho chính cậu và cho cả gia đình cậu.” Nhưng bố ông, là
người tốt bụng nhất mà ông biết được như ông nói, là người ông yêu mến
nhất trong ký ức ông, “có lẽ đã giận dữ và có phần không công bằng với tôi
khi ông dùng những từ như thế.”
Nhìn lại tư chất của ông trong thời gian ngồi ghế nhà trường, ông
nhận định “những đặc tính duy nhất của giai đoạn này, những cái đem lại
sự hứa hẹn cho một cái gì tốt cho tương lai, đó là ông có được nhiều sở thích
khác nhau được phát triển mạnh mẽ cũng như nhiệt tâm cho tất cả những
gì ông có cơ hội quan tâm đến, và có niềm vui sôi nổi khi hiểu được một đề
tài hay một đối tượng phức tạp nào đó
Mùa thu 1825, khi thấy cậu học sinh Charles chẳng học hành gì tốt,
ông bố có quyết định “khôn ngoan”, như Darwin bảo, kéo ông sớm ra khỏi
trường của TS Butler để gửi ông lên Đại học Edinburgh với mục đích học y
khoa, cùng với anh ông, nơi mà bố và ông nội ông đã biết tiếng tăm về khoa
học. Đại học này được thành lập năm 1582 và đã có thời kỳ cực thịnh về
khoa học và y khoa ở thế kỷ 18. Nhưng đó là quá khứ. “Các bài giảng là cực
kỳ buồn tẻ” trừ bài giảng về hóa của GS Hope, một học trò của Lavoisier cà
Dalton. Ông chứng kiến hai cuộc phẩu thuật, lúc bấy giờ chưa có thuốc gây
mê, và phải bỏ đi không thể nào xem tiếp, và quyết định không tiếp tục
ngành này nữa. Ông tin rằng bố ông sẽ có đủ gia tài chia cho ông để có một
cuộc sống tương đối đàng hoàng, và trở thành một nhà nghiên cứu khoa
học độc lập. Ông chuyển qua quan tâm hơn về các môn khoa học khác, giao
du kết bạn với những người yêu khoa học, trong các lãnh vực địa chất,
động vật học, và thực vật học, tham gia các chuyến đi nghiên cứu dã ngoại.
Ông thích thú gia nhập “Hội Plinius” (được thành lập năm 1823 bởi Robert
Jameson theo tên của một nhà văn và nghiên cứu tự nhiên của Rom), một
sân chơi của các sinh viên nghiên cứu và thảo luận về các đề tài khoa học.
Ông có hai phát hiện bằng mắt thường, một về trứng của một loại sinh vật
rêu lá, và một về trứng của một loại sinh vật nước nhỏ, nhưng cả hai thực
ra chuyển động được và đều là ấu trùng. Ông trình bày tại Hội Plinius.
Những khám phá đầu tiên này làm ông càng phấn khởi trong nghiên cứu
khoa học. Ông được gia nhập The Royal Society (Hàn lâm viện Anh này đã
vinh danh ông năm 1864 với Huân chương-Copley, và từ 1890 tặng thưởng
Huân chương-Darwin như một giải đặc biệt). Lần đầu tiên ông nghe TS
R.Grant thuyết minh say sưa về những ý tưởng của Lamarck về sự biến đổi
các giống loài, nghe trong một sự “ngạc nhiên lặng thinh”. Ông nhớ lại
những ý tưởng này lúc đó không có ảnh hưởng gì lên ông trực tiếp, nhưng
chắc chắn sau này nó sẽ làm cho sự phát triển các ý tưởng của ông về nguồn
gốc các chủng loài thuận lợi hơn.
Bố của Darwin thấy việc học y khoa không xong, một lần nữa muốn
cãi thiện đường học vấn của con mình nên quyết định cho con học…thần
học để là mục sư! Tuy nghề này không nằm trong truyền thống của gia
đình vốn gồm bác sĩ, luật sư và nhà giáo, nhưng cũng không phải là tồi. Bởi
vì nghề mục sư vẫn còn chừa lại khá nhiều thời gian, và thời ấy không thiếu
những mục sư nghiên cứu khoa học như một hobby.
Thế là Darwin được gửi đến đại học Cambridge, có một căn phòng tại
Christ College, để học làm mục sư. Đây là đại học rất lâu đời và nổi tiếng,
được thành lập từ thế kỷ 12.
Nhưng rồi “Trong thời gian 3 năm ở Cambridge, thời gian của tôi
cũng hoàn toàn bị phung phí như ở Edinburgh và trong trường học”, “thời
gian của tôi bị phung phí một cách đáng buồn, và còn nghiêm trọng hơn là
phung phí.” Ông tự học là chính, và cuối cùng cũng thi đậu “một cách dễ
dàng”. “Không có công việc nào ở Cambridge được theo đuổi một cách
nhiệt tình, và không công việc gì làm tôi vui nhiều như việc sưu tầm bọ.”
Trong thời gian ở Cambridge, hè ông đi sưu tầm bọ, thu ông đi săn. “Ba
năm ở Cambridge là ba năm vui thú nhất của cuộc đời hạnh phúc của tôi;
vì lúc đó tôi có sức khỏe tốt nhất, và cũng gần như ở trong tâm trạng tốt
nhất.”
“Một người có ảnh hưởng hơn ai hết lên cả sự nghiệp” của Darwin là
GS Henslow, nhà thần học vừa là giáo sư thực vật học. Trong vòng nửa thời
gian cuối ở Cambridge ông đã dành phần lớn thì giờ để đi dạo dài hơi với
Henslow. Ông này có kiến thức rộng về không những thực vật học, mà còn
cả về côn trùng học, hóa học, khoáng vật học và địa chất học, và có biệt tài
suy luận, rút ra được kết luận từ những quan sát li ti, điều mà sau này
Darwin sẽ áp dụng. Một nhân vật thứ hai có ảnh hưởng quan trọng lên
Darwin là Adam Sedgwick, GS địa chất học tại Cambridge và là bạn tuổi
bố của Darwin. Ông này đã chứng minh cho Darwin thấy rằng “Khoa học
là sự tổng hợp lại của các dữ kiện, để có thể suy ra từ đó các định luật phổ
quát hay kết luận” như Darwin nhận định. Đó cũng là con đường Darwin sẽ
đi.
Năm cuối ở Cambrigde ông đọc quyển sách của Alexander von
Humboldt “Kể chuyện cá nhân” (personal narrative) về các cuộc thám
hiểm thế giới với sự chú ý và thích thú lớn. “Cuốn sách này và cuốn sách
của Sir J. Herschel ‘Nhập môn nghiên cứu triết học tự nhiên’ (Introduction
to the Study of Natural Philospophy) đã đánh thức trong tôi mong ước cháy
bỏng có được một đóng góp, cho dù đó là khiêm tốn nhất, cho tòa nhà cao
cả của khoa học. Không một quyển sách nào khác, hoặc cả chục quyển sách
khác, có một tác dụng như thế lên tôi như hai quyển sách trên.”
Ông suy nghĩ thật sự nghiêm túc và hỏi thăm khả năng tàu đi biển.
Chuyến tàu Beagle sắp tới đã đáp đúng ý nguyện ông lúc đó.
“Khi vừa về đến nhà từ chuyến đi nghiên cứu dã ngoại ở Nordwales,
tôi tìm thấy thư của Henslow thông báo rằng thuyền trưởng Fritz-Roy sẳn
sàng nhường một phần của cabin riêng của ông cho một người trẻ tuổi
thích cùng đi với ông trên con tàu Beagle với tư cách là một nhà nghiên cứu
khoa học tự nguyện mà không ăn lương.” Darwin liền chớp ngay cơ hội
này. Nhưng ông bố quan ngại, và thật hạnh phúc cho ông biết bao, khi ông
bố nói thêm về điều kiện: “Nếu cậu có thể tìm được một người có lý trí lành
mạnh khuyên cậu nên đi, thì tôi sẽ cho phép cậu đi.” Và người có “lý trí
lành mạnh” kia để khuyên nên cho Charles Darwin đi không ai khác hơn là
ông cậu Jos của Darwin.
Qúa trình dẫn đến thành công và sự nghiệp.
Theo lời của cha, ông chuyển từ Đại học Edingburgh đến Đại học
Cambridge để học văn khoa, với kì vọng trở thành tu sĩ sau này. Năm 1828
ông đến Cambridge, nhưng thay vì chú tâm theo học, ông lại chạy theo
những thú vui mới như cưỡi ngựa và săn bắn. Ở đây ông quen với một nhà
tự nhiên học rất nổi tiếng đương thời là Giáo sư John Stevens Henslow.
Đến kì thi năm 1831, Darwin đạt kết quả tốt, đứng hạng 10 trong số 178
sinh viên.
Năm 1831, qua giới thiệu của Giáo sư Henslow, Charles Darwin được tham
gia chuyến viễn du trên tàu Beagle. Chuyến du hành thám hiểm dự trù chỉ
2 năm, nhưng trong thực tế kéo dài đến 5 năm trời qua gần 65.000 km.
Trong 5 năm trường từ 1831 tới 1836, con tầu biển Beagle đã ghé vào
hầu như tất cả các lục địa và các hòn đảo chính khi nó chạy vòng quanh
trái đất. Darwin đã phục vụ bằng các công việc của nhà địa chất, nhà thực
vật, nhà động vật và một nhà khoa học tổng quát, đây là một chuẩn bị đầy
đủ dành cho cuộc đời khảo cứu và viết sách của ông sau này.
Tại mỗi nơi đi qua, Darwin đều thu lượm thật nhiều cây cỏ và thú vật,
các vật hóa thạch và các sinh vật, các hình thức sống trên mặt đất hay dưới
biển. Ông đã nghiên cứu bằng con mắt của một nhà tự nhiên học các hệ
thực vật và hệ động vật (the flora and fauna) của nhiều miền đất và miền
biển, tìm kiếm thật nhiều mẫu vật trên các cánh đồng hoang của xứ
Argentina, trên sườn núi khô cằn của rặng núi Andes, nơi các hồ muối hay
các sa mạc của xứ Chile và Australia, trong rừng rậm của xứ Brazil, Tierra
del Fuego và Tahiti, trên hòn đảo Cape Verde trơ trụi. Các nơi khảo sát của
Darwin còn là các cấu tạo địa chất của bờ biển và miền núi Nam Mỹ, các
ngọn núi lửa đang hoạt động hay đã tắt trên các hòn đảo hay đất liền, các
đảo san hô, các hóa thạch của động vật có vú nơi miền Patagonia, các dấu
vết suy tàn của con người tại Peru và cả các thổ dân của miền Tierra del
Fuego và Patagonia.
Khi đến Brazil ông kinh ngạc và thích thú trước sự đa dạng của rừng
Amazon, nhưng rất ghét thái độ của những tay thực dân đối với người nô lệ
bản xứ. Có người cho rằng chính vì ông ghét thái độ kì thị người bản xứ
của người Âu châu đã nung nấu ý chí để ông chứng minh rằng những người
da trắng này có cùng nguồn gốc với người nô lệ địa phương. Trong một
trang nhật kí nổi tiếng, ông viết rằng: “Theo tôi, chúng ta phải ghi nhận
rằng một người dù với những phẩm chất vương giả của mình… vẫn mang
trên người cái dấu ấn không thể xóa bỏ của một cội nguồn cấp thấp.”
Trong thời gian thám hiểm và tàu ghé qua nhiều địa điểm khác nhau,
ông quan sát hàng loạt hiện tượng và thu thập rất nhiều di vật. Nơi gây ấn
tượng sâu sắc nhất cho ông là quần đảo Galapagos (cách đất liền Nam Mỹ
khoảng 500 km), vì ở đây ông tìm thấy những con rùa khổng lồ, thằn lằn to
lớn, sư tử biển, cua, v.v… mà ông không thấy ở bên Âu châu. Điều đặc biệt
thú vị là các sinh vật này cũng có mặt ở một vài đảo chung quanh nhưng
với hình dạng khác chút ít. Ông ghi chú rất chi tiết, cẩn thận, phân biệt rõ
cái nào là quan sát thực tế, và cái nào là do ông suy luận. Thỉnh thoảng ông
gửi các hiện vật này về Đại học Cambridge cùng với nhật kí cho gia đình
biết ông đang làm gì và ở đâu.
Thời gian tham gia đoàn thám hiểm cũng chính là lúc ông nhận ra rằng
những gì ông đọc trong Kinh thánh không phù hợp với thực tế của thế giới
tự nhiên, và ông thai nghén lí thuyết tiến hóa từ đó. Ngay từ lúc đó ông đã lí
giải rằng hình thể đất đai ngày nay đã trải qua những quá trình thay đổi
lớn; các sinh vật tồn tại và sẽ thay đổi hình dạng trong các thế hệ sau; và
các sinh vật này không phải được một đấng tối cao nào sáng tạo ra một
cách độc lập, mà chúng tiến hóa từ các sinh vật khác.
Khi tàu Beagle về London vào ngày 2/10/1836, Darwin đã nổi tiếng
trong giới khoa học, vì trước đó một năm Giáo sư Henslow hay sử dụng
những hiện vật của Darwin để thuyết giảng trong các hội nghị khoa học.
Trong thời gian ở London, ông đọc cuốn sách nổi tiếng về dân số của Linh
mục Thomas Malthus, mà trong đó ông lí giải rằng dân số sẽ được quân
bình hóa do các yếu tố bệnh tật, hạn chế tài nguyên, và chiến tranh. Chịu
ảnh hưởng cách lí giải đó, Darwin suy luận rằng một cơ chế tương tự cũng
vận hành trong thế giới tự nhiên, và ông gọi đó là “natural selection” – chọn
lọc tự nhiên.
Thuyết Tiến Hóa ra đời.
Chìa khóa của lời bí ẩn đối với Darwin do đọc cuốn sách “Khảo Luận về
Dân Số” (Essay on Population) của Thomas Robert Malthus. Malthus đã
cho biết sự việc cung cấp thực phẩm đã kiểm soát mức độ gia tăng dân số
và số tăng thêm của con người trên trái đất bị chặn lại vì các hạn chế tích
cực như tai nạn, bệnh tật, chiến tranh và nạn đói kém. Như vậy các yếu tố
tương tự có thể áp dụng vào các sinh vật và thực vật. Darwin đã viết: “Từ
sự quan sát lâu dài các thói quen của sinh vật và thực vật, tôi nhận ra rằng
trong các hoàn cảnh sống, các chủng loại thích nghi thường được duy trì và
các chủng loại không biết thích nghi sẽ bị tiêu diệt. Kết quả của sự kiện này
là các chủng loại mới được sinh ra”. Như vậy đã ra đời Chủ Thuyết Darwin
danh tiếng về “chọn lựa tự nhiên” (natural selection), “tranh đấu để sống
còn” (struggle for existence) hay “sự sống còn của kẻ thích hợp nhất”
(survival of the fittest), và đây là nền móng của cuốn sách “Nguồn Gốc của
các Chủng Loại”.
Ngày 18/6/1858 khi Darwin viết gần phân nửa cuốn sách về lí thuyết
chọn lọc tự nhiên, ông được người bạn cũ Alfred Russel Wallace, một nhà
khoa học thâm niên, hiện đang thám hiểm về sinh học tại quần đảo Mã Lai.
Wallace cho biết rằng ông ta đang suy nghĩ về nguồn gốc của các loài vật và
giống như Darwin, cũng bị ảnh hưởng khi đọc tác phẩm của Malthus. Bức
thư của ông Wallace có đi kèm với một khảo sát có tên là “Khảo luận về
chiều hướng biến đổi vĩnh viễn xuất phát từ loài gốc” (Essay on the
Tendency of Varieties to Depart Indefinitely from the Original Type). Đây
cũng chính là lời minh xác của Darwin. Charles Darwin hiện đang ở trong
tình trạng khó xử. Rõ ràng là cả hai nhân vật này do nghiên cứu độc lập với
nhau, đã đi tới cùng các câu kết luận giống nhau, trong khi Darwin đã bỏ ra
nhiều năm suy nghĩ và tìm kiếm, còn ý tưởng của Wallace được dẫn tới do
trực giác. Nhiều nhà khoa học có cảm tình với Darwin muốn ông được ghi
công do các nghiên cứu lâu dài đã qua, nên đã xếp đặt một buổi công bố các
công trình của hai nhà khoa học tự nhiên.
Darwin và Wallace được mời trình bày các tìm kiếm của mình trước
Hội Khoa Học Linnaean (the Linnaean Society) và văn bản đầu tiên về Lý
Thuyết Tiến Hóa (the theory of evolution) được phổ biến vào buổi chiều
ngày 01 tháng 7 năm 1858. Sau đó cả hai bài khảo sát được đăng trên Tạp
Chí của Hội Khoa Học Linnaean. Vào cuối năm 1859, tác phẩm của
Charles Darwin đã trở nên một cái mốc của Lịch Sử Khoa Học và được ông
John Murray xuất bản tại thành phố London. Ấn bản đầu tiên gồm 1,200
cuốn đã bán hết trong vài ngày đầu. Các ấn bản khác chỉ bán tại nước Anh
đã lên tới 24,000 cuốn và đã được dịch sang hầu hết các ngôn ngữ chính.
Bản gốc của tác phẩm của Charles Darwin có tên là: “Về Nguồn Gốc của
các Chủng Loại do Cách Chọn Lựa Tự Nhiên” (On the Origin of Species by
Means of Natural Selection), hay “Sự Duy Trì các Dòng Giống thích ứng
trong cuộc Tranh Đấu vì Lẽ Sống” (The Preservation of Favoured Races in
the Struggle for Life). Nhan đề dài của cuốn sách đã được rút gọn thành:
“Nguồn Gốc của các Chủng Loại” (Origin of Species).
Tác phẩm “Nguồn Gốc của các Chủng Loại” từ phần đầu đã mô tả các
thay đổi nơi thú vật và cây cỏ do con người kiểm soát, các biến đổi do “chọn
lựa nhân tạo” so với các thay đổi trong thiên nhiên hay “chọn lựa tự nhiên”
và chủ thuyết Darwin đã kết luận rằng mỗi khi có đời sống, đều có đổi thay
và không có hai cá nhân nào hoàn toàn giống nhau. Trong sự biến đổi, còn
có sự tranh đấu để sinh tồn và tốc độ gia tăng theo cấp số nhân. Tác phẩm
“Nguồn Gốc” còn cho thấy nguyên tắc “chọn lựa tự nhiên” đã hoạt động để