SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ SẦM SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT VÀI KINH NGHIỆM
VỀ PHÁT HIỆN VÀ SỬA LỖI DÙNG TỪ, VIẾT CÂU SAI
TRONG BÀI VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH KHỐI 4,5
TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG ĐẠI
THÀNH PHỐ SẦM SƠN
Người thực hiện: Lữ Thị Thắm
Chức vụ: Giáo viên -Tổ trưởng (Tổ 4)
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quảng Đại
SKKN thuộc lĩnh vực (Môn): Tiếng Việt
THANH HÓA NĂM 2019
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1
1. Mở đầu:
1
1.1. Lí do chọn đề tài
1. 2. Mục đích nghiên cứu
2
1.3 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
1.5. Điểm mới của đề tài:
2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2
3
2. 2. Thực trạng các lỗi về dùng từ, viết câu sai mà học sinh khối 4, 5
trường Tiểu học Quảng Đại - Thành Phố Sầm Sơn thường mắc phải..
5
2.2.1. Lỗi về dùng từ
5
2.2. 2. Lỗi về đặt câu
2.3. Những giải pháp về sửa lỗi dùng từ, viết câu sai mà học sinh
8
khối 4, 5 trường Tiểu học Quảng Đại - Thành Phố Sầm Sơn
2.3.1.Biện pháp sửa lỗi vế cách dùng từ
2.3.2. Biện pháp sửa lỗi câu sai
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
8
12
17
17
17
17
1. Mở đầu:
1.1. Lí do chọn đề tài
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: "Phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế"
Vì vậy, ở nước ta, công tác giáo dục luôn luôn được toàn Đảng, toàn dân
quan tâm. Đất nước muốn văn minh, giàu mạnh thì cần phải có một nền giáo dục
tiên tiến. Do đó giáo dục của chúng ta luôn được đổi mới cùng với sự phát triển
của nhân loại.
Mục tiêu của giáo dục là đào tạo những con người phát triển toàn diện và
đầy đủ các tố chất. Mục tiêu nói trên, được thông qua việc dạy học các môn học
đặc biệt là môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn - thể Loại văn
miêu tả nói riêng .
Như chúng ta đã biết, văn miêu tả là một trong những thể loại văn rất quen
thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng như trong các tác phẩm văn học. Đây là
dạng văn có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát
triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của con người.
Với đặc trưng của mình, những bài văn miêu tả làm cho tâm hồn, trí tuệ người
đọc thêm phong phú, giúp ta cảm nhận được văn học và cuộc sống một cách tinh
tế hơn, sâu sắc hơn. Chính vì thế, văn miêu tả được đưa vào trường Tiểu học từ
rất sớm (ngay từ lớp 2). Đề tài của văn miêu tả với các em là những gì gần gũi,
thân quen với thế giới trẻ thơ, các em có thể quan sát được một cách dễ dàng, cụ
thể như: chiếc cặp, cái bàn, những vườn cây ăn quả mình yêu thích, những con
vật nuôi trong nhà, những cảnh vật xung quanh các em, những con người thân
quen với các em như bạn bè, thầy cô, người thân...Vì vậy, dạy tốt phân môn Tập
làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng là vấn đề được nhiều giáo
viên Tiểu học quan tâm.
Qua thực tế, nhiều năm giảng dạy lớp 4,5 tôi hiếm khi phát hiện thấy học
sinh giỏi môn Văn. Tại sao học sinh giỏi tập làm văn lại hạn chế nhiều như vậy,
trong khi Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của chúng ta, các em lúc chưa tròn một tuổi
đã biết nói, năm, sáu tuổi đã biết đọc, đã biết viết Tiếng Việt ? Chúng ta tự hào
Tiếng Việt ta phong phú, giàu hình ảnh, đa dạng về nghĩa, có sức biểu cảm sâu
sắc. Nhưng một thực tế lại rất buồn vì học sinh giỏi Tiếng Việt nói chung, phân
môn Tập làm văn nói riêng còn quá khiêm tốn. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi
thấy đa số học sinh đã biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách
khô khan, nghèo nàn về từ, diễn đạt ý rườm rà, tối nghĩa. Cách dùng từ đặt câu
chưa phù hợp, viết câu còn rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, chưa sáng tạo. Bố
cục bài văn chưa rõ ràng, cách chấm câu, cách sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh
chưa linh hoạt, chưa sinh động. Mặt khác, một số em còn phụ thuộc vào bài văn
mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa biết sử dụng bài văn mẫu để hình thành
lối hành văn riêng của mình, biến lời văn người khác thành cách diễn đạt của
mình. Phần lớn các em dùng lời hướng dẫn của giáo viên để viết bài văn của
mình một cách rập khuôn, máy móc, … dẫn đến bài văn chưa đạt hiệu quả cao.
1
Xuất phát từ nguyên nhân trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Một vài kinh
nghiệm về phát hiện và sửa lỗi dùng từ, viết câu sai trong bài văn miêu tả cho
học sinh khối 4, 5 trường Tiểu học Quảng Đại – Thành phố Sầm Sơn”.
Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn, kĩ hơn về một vấn đề đang được quan tâm
hiện nay là “nói, viết Tiếng Việt sao cho đúng, cho hay”. Đồng thời tích lũy cho
mình một vài kinh nghiệm, kĩ năng và tri thức cần thiết trong hành trang nghề
nghiệp của mình.
1. 2. Mục đích nghiên cứu.
- Xác định được các lỗi dùng từ, đặt câu, xác định nguyên nhân và tìm biện
pháp khắc phục cho phù hợp với học sinh lớp 4, 5, có hiệu quả trong nghiên cứu
và giảng dạy.
- Đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu cho học sinh Tiểu
học.
1.3 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Các lỗi sai về dùng từ, viết câu sai của học sinh khối 4, 5 trường Tiểu học
Quảng Đại - Thành phố Sầm Sơn.
- Thống kê, phân loại, chữa lỗi dùng từ và đặt câu trong các bài tập làm văn
của học sinh lớp 4, 5 trường Tiểu học Quảng Đại -Thành phố Sầm Sơn - năm
học 2018 - 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ học
- Phương pháp điều tra
1.5. Điểm mới của đề tài.
Trong thời đại ngày nay, khi xã hội càng phát triển càng đòi hỏi con người
khả năng giao tiếp tốt hơn trong mọi hoàn cảnh, mọi môi trường. Trong hoạt
động giao tiếp, câu được coi là đơn vị trung tâm và từ là yếu tố không thể thiếu
để tạo câu. Vì vậy, sửa lỗi dùng từ và đặt câu cho học sinh là một việc làm
thường xuyên và liên tục trong dạy học. Và cũng là để thực hiện nhiệm vụ “giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, để “nói và viết Tiếng Việt sao cho đúng, cho
hay”. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên tôi rất trăn trở về đề tài “Một vài
kinh nghiệm về phát hiện và sửa lỗi dùng từ, viết câu sai trong bài văn miêu
tả cho học sinh khối 4, 5-Thành phố Sầm Sơn” để tìm ra nguyên nhân và đề ra
những giải pháp có hiệu quả phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy.
Ở đề tài này tôi đã tìm hiểu các lỗi về từ, về câu mà học sinh Tiểu học lớp 4,
5 trường Tiểu học Quảng Đại - Thành Phố Sầm Sơn thường mắc phải. Trên các
ngữ liệu từ, câu sai đã thống kê tôi đã phân loại và tìm hiểu nguyên nhân để tìm
ra những biện pháp khắc phục mang tính khả thi. Hơn nữa tôi cũng mạnh dạn đề
xuất một số biện pháp để hạn chế lỗi sai ngữ pháp, để rèn kĩ năng dùng từ, viết
câu cho học sinh lớp 4,5.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Căn cứ mục tiêu giáo dục Tiểu học - căn cứ nhiệm vụ năm học cùng yêu
cầu của môn học, ta thấy Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong dạy
2
học Tiếng Việt. Dạy Tập làm văn trong trường Tiểu học gắn liền với hoạt động
tạo lập văn bản. Để có được một bài văn mẫu mực học sinh phái có năng lực tư
duy phản ánh nhận thức đầy đủ của bản thân về đối tượng (nội dung giao tiếp) ở
văn bản; đồng thời các em phải có vốn hiểu biết cần thiết, đầy đủ về các chuẩn
mực ngôn ngữ (âm thanh, chữ viết, từ, câu, văn bản) và phải có kĩ năng sử dụng
linh hoạt, sáng tạo các chuẩn mực đó nhằm diễn đạt trong sáng, mạch lạc nội
dung giao tiếp cho phù hợp với một hoàn cảnh theo một mục đích giao tiếp nhất
định. Ngoài những yêu cầu đã nêu trên để có một bài văn hoàn chỉnh, sinh động
và hấp dẫn học sinh phải có năng lực cảm thụ phản ánh những cảm nhận về vẻ
đẹp của đối tượng. Và một yêu cầu không thể thiếu đối với học sinh Tiểu học
người tạo lập văn bản, đó là phải có đời sống tình cảm trong sáng, lành mạnh,
biết trân trọng cái đẹp, cái tốt; biết căm ghét, phê phán những thói xấu, cái ác
trong cuộc sống….
Trong chương trình tiểu học mới, các bài làm văn gắn với chủ điểm của đơn
vị học. Song song với các tiết làm văn luyện nói, luyện viết thì tiết Tập làm văn
trả bài có một vị trí quan trọng vì: giờ trả bài có mục đích rèn cho học sinh kĩ
năng kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh bài viết. Đây là kĩ năng quan trọng trong
hoạt động giao tiếp. Kĩ năng kĩ năng đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân với
mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt, sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn
đạt. Để có kĩ năng này, học sinh phải cần tập nhận xét văn bản nói hay viết của
bạn, tự sửa chữa bài viết ở lớp, rút kinh nghiệm và tự chữa (hoặc viết lại) bài
văn đã được giáo viên chấm, luyện tập, hình thành kĩ năng và thói quen tự điều
chỉnh, tự học tập dể luôn luôn tiến bộ. Đây chính là khâu cuối cùng để hoàn
thiên kĩ năng làm văn của học sinh.
Hơn nữa trong sách giáo khoa và sách giáo viên phần phân môn tập làm
văn, phương pháp nêu ra mới chỉ là chung chung, chưa cụ thể, chưa là vai trò
chủ thể, chủ động nắm vững kiến thức của học sinh.
Bên cạnh đó thực tế dạy học nhiều năm với những đối tượng khác nhau
(lớp bốn, lớp năm). Tôi thấy chất lượng bài Tập làm văn của các em có nâng cao
đôi chút, có một số tiến bộ đáng kể nhưng mới chỉ là ở một số ít.
Thêm vào đó người dạy còn chung chung, nặng về thuyết trình, áp đặt học
sinh. Giáo viên hiểu vấn đề chưa thực sự kĩ càng và thậm chí coi nhẹ giờ Tập
làm văn, đặc biệt “Chữa lỗi dùng từ đặt câu cho học sinh tiểu học Lớp 4, 5 qua
các giờ Tập làm văn”chưa hiệu quả, còn mang tính hình thức.
2. 2.Thực trạng các lỗi về dùng từ, viết câu sai mà học sinh khối 4, 5 trường
Tiểu học Quảng Đại - Thành Phố Sầm Sơn thường mắc phải.
Qua quá trình giảng dạy cũng như qua việc dự giờ học tập chuyên môn ở các
đồng nghiệp, tôi nhận thấy việc dạy làm văn ở lớp 4, 5 còn gặp một số khó khăn:
* Về giáo viên:
- Một số giáo viên còn ngại khi phải dạy phân môn tập làm văn nên khi dạy
còn nhiều lúng túng về phương pháp và nội dung hay hình thức tổ chức một tiết
dạy Tập làm văn dẫn đến hiệu quả các tiết dạy chưa cao. Điều này được thể hiện
rõ qua những tiết thao giảng, dự giờ chéo phân môn Tập làm văn ở trường.
- Phương pháp dạy của giáo viên còn rập khuôn, thiếu sự dẫn dắt gợi mở cho
3
học sinh, chưa kích thích được sự sáng tạo tìm tòi, chưa chọn từ ngữ, hình ảnh, ý
của học sinh.
- Giáo viên ít quan tâm đến việc hướng dẫn các em phải tả như thế nào để
bộc lộ được nét riêng biệt của đối tượng mình đang tả, thoát khỏi việc tả một
cách khuôn sáo.
- Giáo viên khi lên lớp còn truyền đạt “chay”, thiếu tranh ảnh, vật thật để hổ
trợ cho các em trong quá trình làm văn miêu tả.
- Thiếu sự kết hợp, liên hệ giữa tiết dạy phân môn tập làm văn với các môn
học khác.
* Về học sinh:
- Do khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn dừng lại ở mức độ tư duy
đơn giản trực quan, chất lượng cảm thụ văn học của học sinh chưa đồng đều dẫn
đến chất lượng làm văn chưa cao dẫn đến khi viết văn còn gặp không ít khó
khăn.
- Khả năng quan sát miêu tả còn sơ sài, học sinh chưa biết sử dụng các giác
quan để quan sát, quan sát chưa theo một trình tự, thấy đâu tả đó.
- Học sinh dùng từ đặt câu chưa hay, chưa đúng, chưa biết lựa chọn từ ngữ
thích hợp, vốn từ ngữ còn quá nghèo nàn, dùng từ địa phương nhiều, diễn đạt ý
văn mà như nói chuyện bình thường.
Kết quả điều tra khảo sát thực tiễn
Vào đầu năm học 2018 - 2019, tôi đã phối hợp với các đồng chí GV trong
khối 4, 5 tổ chức điều tra thực tiễn về các lỗi dùng từ, viết câu của HS bằng hình
thức rà soát, thống kê các lỗi qua các bài "Tập làm văn" của 216 học sinh khối
4, 5 trường Tiểu học Quảng Đại -Thành phố Sầm Sơn, kết quả thu được như sau:
Bảng 1: Bảng thống kê phân loại lỗi dùng từ
STT
1
2
3
4
5
6
Loại lỗi câu
Số lượng
Lỗi dùng từ không đúng nghĩa
40
Lỗi về kết hợp từ
29
Lỗi lặp từ
63
Lỗi thừa từ
23
Lỗi dùng từ không đúng phong cách
28
Lỗi dùng từ thiếu hình ảnh, cảm xúc
33
Bảng 2: Bảng thống kê phân loại lỗi đặt câu
Tỉ lệ (%)
18.5
13.4
29.2
10.6
13.0
15.3
STT
1
2
3
4
5
6
Loại lỗi câu
Thiếu thành phần
Thừa thành phần
Câu không xác định được thành phần
Lỗi trật tự câu
Lỗi về liên kết câu
Lỗi về dấu câu
Tỉ lệ (%)
18.1
13.4
10.6
13.9
21.8
22.2
Số lượng
39
29
23
30
47
48
4
Theo bảng thống kê trên tôi nhận thấy các lỗi mà học sinh thường mắc
phải trong bài làm thường do những nguyên nhân sau:
2.2.1. Lỗi về dùng từ:
a.Lỗi dùng từ không đúng nghĩa.
Học sinh hay mắc lỗi dùng từ sai do không hiểu nghĩa của từ hoặc không
biết kết hợp sử dụng từ cho hợp lí trong quá trình làm văn miêu tả. Chính việc
không hiểu rõ nghĩa của từ khiến các em sử dụng từ ngữ không đúng văn cảnh,
không tạo được thiện cảm cho người đọc. Bởi vậy, học sinh cần chú ý hơn nữa
trong việc trau chuốt ngôn ngữ, suy nghĩ thật kĩ trước khi hành văn để tránh bị
mất điểm trong quá trình làm bài
b. Lỗi về kết hợp từ.
HS thường mắc lỗi này do không nắm chắc được nghĩa hoặc không chú ý
về mối quan hệ ý nghĩa và ngữ pháp giữa các từ được dùng trong câu nên học
sinh đã kết hợp từ không đảm bảo sự tương hợp với nhau, không “ăn khớp” với
nhau.
c. Lỗi lặp từ.
Đây là một trong những lỗi cơ bản nhất của học sinh tiểu học khi làm văn
miêu tả. Thay vào đó, các em nên sử dụng những từ ngữ mang tính chất thay thế
để tránh nhàm chán cho câu văn, đoạn văn mình sử dụng.
d. Lỗi về dùng thừa từ.
Dùng thừa từ là lỗi mà học sinh thường mắc phải trong bài văn miêu tả.
Nguyên nhân của lỗi này là do học sinh không nắm chắc nghĩa của từ, không
nắm chắc mô hình câu
đ. Lỗi dùng từ không phong cách.
Để làm tăng sức thuyết phục cho bài văn miêu tả, học sinh cần kết hợp sử
dụng các hình ảnh liên tưởng, so sánh. Bên cạnh những bài làm thiếu hình ảnh,
nội dung lan man có rất nhiều bài văn có các hình ảnh liên tưởng được sử dụng.
Tuy nhiên, hình ảnh các em sử dụng khập khiễng, không phù hợp với nội dung
của bài viết
e. Lỗi dùng từ thiếu hình ảnh, cảm xúc.
Đa phần học sinh thường chưa tự rèn luyện được các kĩ năng quan sát thực
tế, lối hành văn thông minh, cũng như vốn từ ngữ còn nghèo nàn, không hiểu
nghĩa của từ, dùng từ sai nghĩa. Do đó hiệu quả bài làm của các em thường
không cao. Bởi vậy, trong quá trình học tập, các em cần tự rèn luyện thêm nhiều
kĩ năng qua sách báo cũng như các tài liệu tham khảo để không ngừng hoàn
thiện bản thân, hướng đến những thành tích cao hơn nữa trong học tập
2.2. 2. Lỗi về đặt câu:
a. Lỗi thiếu thành phần câu.
* Câu thiếu chủ ngữ: Qua dự giờ và trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy những đề
bài đặt câu theo một chủ đề nào đó thì số học sinh đặt câu thiếu chủ ngữ hầu như
không có.
Ví dụ: Với yêu cầu: "Đặt 3 câu về lớp em" thì hầu hết học sinh đặt được
câu có chủ ngữ. Nhưng với những đề bài đặt câu không cho trước chủ đề thì tỉ lệ
viết câu thiếu chủ ngữ có cao hơn đặc biệt trong viết đoạn văn ngắn. Câu thiếu
chủ ngữ xuất hiện nhiều bởi nhiều học sinh nhầm đối tượng.
5
Ví dụ: Có hoa và đậu rất nhiều quả.
* Câu thiếu vị ngữ: Đó là những câu chỉ có một cụm danh từ.
Ví dụ: Lâu đài cổ kính.
Tỷ lệ học sinh viết câu thiếu vị ngữ nhiều hơn những câu thiếu chủ ngữ.
Nguyên nhân chủ yếu là do học sinh nhầm tưởng những danh từ được phát
triển dài là một câu, tưởng đã có nội dung thông báo trọn vẹn mặc dù ở đó mới
chỉ nêu đối tượng thông báo.
* Câu thiếu cả thành phần chủ ngữ và vị ngữ
Những câu mắc lỗi sai, thiếu thành phần chủ ngữ và vị ngữ là những câu
chỉ có thành phần trạng ngữ và cũng không nói được với những câu tiếp sau để
tạo thành một câu mới có trạng ngữ.
Nguyên nhân của loại lỗi này là học sinh không hiểu rằng chủ ngữ không
thể đứng sau quan hệ từ, các danh từ chỉ thời gian như khi, lúc… cần phải có bộ
phận bổ sung nghĩa. Mặt khác thường là bộ phận đứng sau quan hệ từ được
phát triển dài khiến học sinh tưởng là nó có nội dung thông báo.
Ví dụ: Đến ngày hoa phượng nở.
Trong ba loại câu thiếu thành phần thì tỉ lệ học sinh mắc lỗi sai câu thiếu
thành phần chủ ngữ, vị ngữ nhiều hơn câu mắc lỗi thiếu cả chủ ngữ, vị ngữ.
b. Lỗi thừa thành phần câu (lỗi diễn đạt rườm rà, dài dòng):
Là loại lỗi do câu có thành phần câu lặp lại một cách không cần thiết .
Đây là loại lỗi gặp phổ biến trong thực tế viết câu của học sinh hiện nay. Loại lỗi
này, khi học sinh kiểm tra lại rất khó nhận biết, nó làm cho đoạn văn các em viết
rất lủng củng.
Ví dụ: Trong nhà em có một người mà em rất yêu mến, đó là bà em rất kính
yêu.
Nguyên nhân của loại lỗi này là do các em viết như nói nên câu văn không
rành mạch, kỹ năng viết câu vào tình trạng kể lan man.
- Lỗi câu khó xác định nội dung biểu đạt, không lôgic về ý:
Là những câu về cấu tạo khó xác định các bộ phận câu kết hợp với nhau
theo quan hệ ngữ pháp nào, từ đó khó xác định thành phần câu.Loại câu này có
thể ngắn, có thể dài, càng dài, càng lỗi, càng lủng củng. Về ý nghĩa mối quan hệ
giữa các bộ phận câu cũng không rõ ràng, chính xác không lôgíc. Do đó, các câu
tối nghĩa hoặc vô nghĩa. Đây là loại lỗi thường gặp ở học sinh Hoàn thành, trong
các bài tập làm văn, ít gặp trong các bài tập đặt câu.
Nguyên nhân của loại lỗi này khá phức tạp, trước hết là học sinh không
chuẩn bị cho mình một nội dung cần nói nên không phân cách được trong tư duy
ra từng ý rạch ròi. Các em viết gần như trong tình trạng vô thức, nhớ từ nào,
cụm từ nào là viết ngay trong bài, không tìm cách tổ chức, sắp xếp các cụm từ
để biểu đạt nội dung. Đây là loại lỗi rất khó chữa, nhiều lúc phải trao đổi trực
tiếp với học sinh mới biết các em muốn diễn đạt điều gì để chữa lại cho đúng.
Loại lỗi câu sai này chiếm tỷ lệ lớn trong các lỗi câu, có thể thống kê các lỗi câu
này như sau:
c. Câu không xác định được thành phần.
Ví dụ: Quýt có hoa có quả khi quả chín nó lại có màu da cam và quả to có
nhiều nước ăn ngọt lịm.
6
d. Lỗi về trật tự câu .
Rất nhiều học sinh mắc phải lỗi này do làm bài một cách tự phát, dàn trải,
không đủ thời gian để đảm bảo bố cục 3 phần (Mở bài, thân bài, kết bài) cho bài
viết của mình. Lỗi này xuất phát từ việc không lập dàn ý, xác định các ý chính
trong bài để phân bổ thời gian hợp lí trong quá trình làm bài. Nhiều học sinh có
bài làm rất dài (2 - 3 trang giấy) nhưng các ý chính thì gần như không có.
e. Lỗi về từ liên kết:
- Câu sai nghĩa là những câu chứa đựng nội dung không phù hợp với hiện
thực khách quan, phản ánh sai hiện thực khách quan.
Ví dụ: Con mèo nhà em như cái cặp sách.
- Câu không rõ nghĩa: Là câu thiếu thông tin. Đó là những câu đúng về mặt
cấu tạo ngữ pháp, nghĩa là có đầy đủ thành phần chính, đúng về quan niệm ngữ
nghĩa chung. Nhưng thật sự câu kiểu này còn thiếu thành phần phụ bổ nghĩa cho
các từ trong câu, nên nghĩa câu không đầy đủ gây hụt hẫng cho người đọc.
Ví dụ: Mùa ổi xanh lá, em trèo cây.
- Câu không có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các vế
câu. Loại lỗi này chiếm số lượng rất lớn và đa dạng. Có thể xem loại lỗi này là
loại lỗi từ vựng - ngữ pháp.
Ví dụ: Cây cối xanh mơn mởn xào xạc trước gió
- Câu có các vế câu không tương hợp
Ví dụ: Trồng ổi sẽ thu được rất nhiều lợi, những đường gân nổi rõ như con rắn
vậy
- Câu có tác dụng quan hệ giữa các thành phần không lô gíc không tương
hợp là câu có các thành phần đồng chức không đồng loại.
Ví dụ: Hàng ngày em chăm sóc cây và đi rửa ấm chén.
Nguyên nhân là do học sinh không hiểu nghĩa từ và khả năng kết hợp của
chúng.
g. Lỗi về dấu câu
Lỗi về dấu câu có thể chia làm 2 loại: Lỗi không dùng dấu câu và lỗi dùng dấu
câu sai.
- Lỗi không dùng dấu câu:
Là lỗi câu sai do không dùng dấu câu ở những phần cần thiết, thường học
sinh mắc lỗi này do không sử dụng dấu chấm kết thúc câu và dấu phẩy ngăn
cách giữa các thành phần câu. Có những bài viết các em không sử dụng một dấu
câu nào. Loại lỗi này là một lỗi phổ biến.
Nguyên nhân của loại lỗi này là do học sinh đã vi phạm nguyên tắc sử dụng
dấu câu. Khi đã kết thúc một ý phải đặt dấu ngắt câu. Việc không sử dụng dấu
câu gây khó khăn trong giao tiếp khiến người đọc không thể nhanh chóng nắm
được nội dung các em cần truyền đạt thậm chí có những trường hợp không xác
định được ý muốn diễn tả.
Ví dụ: Lớp em có bạn Trang là học sinh giỏi và cũng là người bạn của em
bạn còn là người con ngoan và hiếu thảo bạn và em đã giúp đỡ nhau trong lúc
khó khăn bạn đã rất quý và tôn trọng em còn em cũng đối xử với bạn ấy như
vậy.
- Lỗi sử dụng dấu câu không đúng chức năng .
7
Là lỗi của những câu đã sử dụng dấu câu khi không cần thiết hoặc đáng lẽ
phải dùng dấu câu này, lại dùng dấu câu khác. Biểu hiện của lỗi là học sinh dùng
dấu chấm ngắt câu khi chưa đúng ý, dùng dấu phẩy ngăn cách các thành phần
chủ ngữ và vị ngữ, ngăn cách động từ với bổ ngữ, dùng dấu phẩy ngăn cách các
thành phần chủ ngữ và vị ngữ, ngăn cách động từ với bổ ngữ, dấu hai chấm ngăn
cách hai vế câu khi vế nọ không có ý giải thích cho vế kia. Phổ biến nhất trong
loại lỗi này là câu dùng dấu chấm tuỳ tiện khi chưa hiểu ý, cắt đôi câu ra một
cách vô lý.
Ví dụ: Em thấy hoa đỏ, mùi thơm, em rất thích loại hoa này, nó có thể làm
đẹp khu vườn nhà em.
Việc học sinh không sử dụng dấu câu hoặc sử dụng sai dấu câu là do chưa
biết áp dụng dấu câu trong việc diễn đạt nội dung, chưa nắm được cách sử dụng
chúng.
2.3. Những giải pháp về sửa lỗi dùng từ, viết câu sai cho học sinh lớp 4, 5
trường Tiểu học Quảng Đại - Thành Phố Sầm Sơn.
Chương trình học ở trường tiểu học, thời gian dành cho việc luyện tập làm
văn rất ít cách dùng từ học sinh rất ít (chỉ có 2 tiết). Hầu như học sinh chỉ kịp
tìm hiểu qua loa. Các em chưa thực sự có thời gian nhiều cho việc vận dụng
trong thực tế ngôn từ. Hơn nữa ý thức tự giác trong việc thực hành sử dụng từ
ngữ ở các em chưa cao.
Việc hạn chế đến mức thấp nhất lỗi dùng từ cho học sinh, khắc phục được
những lỗi đã nêu ra là một công việc không dễ dàng. Trong điều kiện chương
trình dạy Tập làm văn ở trường Tiểu học, thời gian dành cho phần này quá ít, tôi
xin trình bày một vài kinh nghiệm nhỏ sau đây. Nó được thực hiện ở trong giờ
trả bài, các buổi thực hành tập làm văn của môn Tiếng việt. Đồng thời có thể
thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi nếu có điều kiện.
2.3.1.Biện pháp sửa lỗi vế cách dùng từ:
a. Biện pháp sửa lỗi về nghĩa của từ.
Nội dung ý nghĩa là một bình diện của từ. Nó là cái được biểu đạt của mỗi
từ. Do đó yêu cầu đầu tiên khi dùng từ trong bài văn miêu tả là phải dùng từ cho
đúng với ý nghĩa của từ. Điều đó có nghĩa là từ được dùng phải biểu hiện được
chính xác nội dung miêu tả cần thể hiện. Đối với học sinh tiểu học, việc nắm
nghĩa từ còn nhiều hạn chế, cho nên thường mắc lỗi dùng từ sai nghĩa trong bài
văn miêu tả. Trong đó phổ biến nhất là lỗi thường xảy ra giữa các từ gần nghĩa
hoặc có yếu tố cấu tạo chung. Tuy có phần giống nhau về nghĩa của các từ đó
nhưng các từ đó vẫn có sự khác nhau và cần sử dụng khác nhau.
Trong khi nói viết các em không chỉ nhớ chính xác hình thức ngữ âm từ
mình dùng. Thường thì các em chỉ nhớ "mang máng" từ này phát âm như thế
này, như thế kia... sau đó các em dùng không cần cân nhắc có trường hợp do vốn
từ nghèo nàn các em không tìm được từ nào thay thế từ mình dùng mặc dù cũng
thấy là từ đó chưa chính xác, sai âm. Để khắc phục tình trạng này tôi nhắc nhở
học sinh cần cân nhắc kĩ lưỡng khi dùng từ ngữ trong khi nói viết.
Để làm được điều này đòi hỏi các em phải tự trau dồi vốn ngôn ngữ của
mình.
8
- Cần có thói quen tự giải thích ý nghĩa của những từ ngữ mà mình nhớ
mang máng.
Ví dụ 1: Dáng người của anh bộ đội khá cao ráo.
Ví dụ 2: Trên bàn mẹ em đặt một lọ hoa tươi làm cho căn phòng càng thêm
linh động.
Ví dụ 3: Lá cúc màu xanh sẫm, to bằng cả bàn tay em, mọc lẫn lộn trên
thân cây.
Ví dụ 4: Cô giáo em là một người phụ nữ dịu dàng, nết na.
Các câu văn trên đều mắc lỗi dùng từ sai nghĩa . Để chữa lỗi này cần phải
thay thế những từ ngữ dùng sai đó bằng các từ ngữ có khả năng thể hiện chính
xác nội dung, ý nghĩa mà người viết muốn diễn đạt.
Ở ví dụ 1, từ dùng Si về nghĩa là từ cao ráo , bởi cao roá có nghĩa là cao và
khô, không bị ẩm thấp. Do đó từ này chỉ dùng cho địa điểm và nơi chốn (hoặc
nếu có dùng trong tả người cũng chỉ dùng trong khẩu ngữ - ngôn ngữ giao tiếp
hằng ngày). Để miêu tả hình dáng anh bộ đội thì nên thay bằng từ cao lớn.
Tương tự như vậy ở ví dụ 2, từ linh động có nghĩa là ở trạng thái động, có
sự chuyển biến khéo léo tuuỳ theo tình thế, với ý nghĩa câu văn miêu tả căn
phòng có sức sống với nhiều dạng vẻ khác nhau thì cần thay từ linh động bằng
từ sinh động.
Ở ví dụ 3, người viết muốn miêu tả lá cúc mọc trên thân cây không thẳng
hàng, không cùng một chỗ thì phải dùng từ so le mới chính xác, không thể dùng
từ lẫn lộn vì lẫn lộn có nghĩa là trộn lẫn vào nhau không còn phân biệt được
nữa.
Ở ví dụ 4, học sinh dùng từ nết na để miêu tả cô giáo là không tích hợp bởi
từ này chỉ dùng để miêu tả, nhận xét người bằng vai hoặc thấp vai hơn người
viết. Vì thế cần cần thay bằng từ khác hợp lí hơn, chẳng hạn từ nhân ái...
b. Biện pháp sửa lỗi về kết hợp từ:
Các từ khi được dùng trong câu văn, trong bài văn miêu tả, luôn luôn có
mối quan hệ về ngữ nghĩa và ngữ pháp. Chúng nằm trong các mối quan hệ với
những từ đi trước và những từ đi sau. Vì thế, do không nắm chắc được nghĩa
hoặc không chú ý về mối quan hệ ý nghĩa và ngữ pháp giữa ccs từ được dùng
trong câu nên học sinh đã kết hợp từ không đảm bảo sự tương hợp với nhau,
không “ăn khớp” với nhau.
Ví dụ 1: Mỗi khi ba tiếng trống đổ hồi đều đặn, chúng em lại nhanh chân
xếp hàng vào lớp.
Ví dụ 2: Cô có hàm răng trắng thẳng tắp.
Ví dụ 3: Linh là lớp trưởng nhưng bạn rất gương mẫu.
Ở ví dụ 1 không thể dùng từ đổ hồi để miêu tả ba tiếng trống vì nghĩa của
chúng không tương hợp với nhau. Hồi là nhiều âm thanh kế tiếp nhau trong một
thời gian nhất định. Chỉ có ba tiếng trống thì không thành hồi được. Vì thế cần
thay từ đổ hồi bằng từ ngữ khác ví dụ từ vang lên, ...
Ở ví dụ 2, thẳng tắp ( nghĩa là thảng thành một đường dài) dùng để miêu tả
hàm răng là không hợp lí, nên thay từ này bằng từ đều đặn.
Ở ví dụ 3, mắc lỗi sử dụng sai quan hệ từ để thể hiện mối quan hệ giữa các
vế câu. Có thể chữa lỗi ở ví dụ này bằng cách thay thế quan hệ từ nhưng bằng
9
quan hệ từ nên hoặc giữ lại quan hệ từ nhưng và chữa lại một trong hai vế câu
cho phù hợp với ngữ nghĩa. Ví dụ: Linh là lớp trưởng nhưng đôi khi bạn chưa
gương mẫu hoặc Linh không phải là lớp trưởng nhưng bạn rất gương mẫu.
c. Biện pháp sửa lỗi về dùng thừa từ
Dùng thừa từlà lỗi mà học sinh thường mắc phải trong bài văn miêu tả.
Nguyên nhân của lỗi này là do học sinh không nắm chắc nghĩa của từ, không
nắm chắc mô hình câu. Đồng thời, do nghèo vốn từ, khả năng huy động và lựa
chọn từ hạn chế.
Ví dụ : Người bạn em yêu quý nhất hơn cả là bạn Phương.
Để chữa lỗi dùng từ thừa câu văn trên, cần phải loại bỏ những từ ngữ dùng
thừa đó trong câu.
Ở ví dụ này, cần bỏ một trong hai từ nhất hoặc hơn cả.
d. Biện pháp sửa lỗi lặp từ.
Ranh giới giữa việc lặp từ như biểu hiện của một vốn từ nghèo nàn, thiếu
cấn nhắc trong khi nói, viết với việc lặp từ (phép lặp) như một phép liên kết câu
tạo tính chặt chẽ mạch lạc cho bài nói, bài viết thường có những khi tương đối
khó phân định nhất là đối với học sinh. Chính vì vậy khi chữa lối lặp từ, tôi cho
các em hiểu rõ:
- Lặp là hiện tượng từ ngữ được nhắc đi nhắc lại được hiểu là một loại lỗi
khi sự trùng lặp ấy gây cảm giác nặng nề nhàm chán.
- Lặp từ thể hiện của vốn từ nghèo nàn, của việc dùng từ thiếu cân nhắc.
- Lặp không cung cấp nội dung mới mà chỉ nhắc lại nội dung cữ một cách
máy móc dập khuôn.
- Bỏ các từ lặp đó đi câu vẫn rõ nghĩa mà cách diến đạt lại thanh thoát, nhẹ
nhàng.
Trước hết cần phân biệt cho học sinh cách lặp có chủ ý (tạo nhịp điệu cho
câu văn) với cách dùng vô thức (làm cho câu văn nặng nề nhàm chán).
Để giúp cho học sinh sửa chữ lỗi dùng từ này tôi đưa ta câu văn rồi cho học
sinh phát hiện về nội dung truyền đạt cùng với ý từ hình thức của câu văn.
Ví dụ:
1. Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng xanh ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.( Nguyễn Đình Thi )
2. Sau khi về nhà, em bắt tay vào nấu cơm, em nhặt rau, em vo gạo, em bắc
bếp nấu cơm. Xong xuôi em đi tắm, chờ bố mẹ về ăn cơm. (- Bài làm của học
sinh.)
Qua 3 ví dụ trên học sinh sẽ tìm ra cái hay của việc sử dụng những từ ngữ
lặp lại với dụng ý của nhà văn Thép Mới và của nhà văn Nguyễn Đình Thi (
Biện pháp tu từ được sử dụng: Điệp từ, điệp ngữ kết hợp với phép liệt kê. Điệp
từ, điệp ngữ “đây”, “là của chúng ta”, “những”.. kết hợp phép liệt kê “trời
xanh”, “núi rừng” , “dòng sông”… nhằm khẳng định ý thức về chủ quyền lãnh
thổ, niềm tự hào về sự trù phú, giàu đẹp của quê hương đồng thời cũng nhận ra
lỗi lặp từ mà bạn học sinh mắc phải: ( lặp từ "em" làm cho câu văn kém mạch
10
lạc, lủng củng). Sau đó đưa ra phương pháp lược bỏ lỗi lặp để câu văn trở lên
trong sáng. Một vài lần như vậy sau đó tôi đưa cho các em những lỗi mà chính
các em và các bạn trong lớp mắc phải. Tiếp theo học sinh tự đưa ra những lỗi mà
mình mắc phải để cả lớp cùng chữa. Sau đó sẽ thực hiện thường xuyên ở các giờ
luyện tập, trả bài tập làm văn, trả bài văn. Các em sẽ tự đọc lại bài của mình và
tự chữa nếu mắc lỗi. Từ đó các em sẽ cân nhắc từ ngữ mình dùng trong những
hoàn cảnh ngôn ngữ cụ thể.
đ. Biện pháp sửa lỗi dùng từ không đúng phong cách.
Mỗi loại văn bản có đặc điểm riêng về ngôn ngữ, cách dùng từ. Vì thế, có
những từ chỉ thích hợp hoặc chỉ được dùng trong một phong cách ngôn ngữ nào
đó. Do không ý thức rõ về chuẩn mực phong cách của kiểu bài văn miêu tả nên
học sinh đã sử dụng những từ ngữ thuộc phong cách ngôn ngữ nói ( chỉ phù hợp
trong giao tiếp hằng ngày) vào trong bài văn miêu tả (thuộc phong cách ngôn
ngữ viết, sử dụng ngôn ngữ có tính chất nghệ thuật).
Ví dụ 1: Vào buổi sáng, không khí trong công viên cực kì trong lành.
Ví dụ 2: Suốt năm học em chưa thấy cô quát mắng một học sinh nào.
Ví dụ 3: chúng tôi chẳng dề gì quên cây phượng ở góc sân trường.
Ví dụ 4: Nhận được chiếc bút máy từ tay bố, em vui ơi là vui.
Trong các câu văn trên, các từ ngữ: cực kì, quát mắng, chẳng dễ gì, vui ơi
là vui không nên sử dụng trong bài văn miêu tả, do đó cần phải thay thế bằng
các từ ngữ khác cho phù hợp hơn chẳng hạn như: vô cùng, nặng lời trách mắng,
không thể nào quên, rất vui, ...
e. Biện pháp sửa lỗi dùng từ thiếu hình ảnh, cảm xúc.
Văn miêu tả là loại văn giàu hình ảnh và cảm xúc. Vì thế trong bài văn
miêu tả yêu cầu dùng từ đúng là chưa đủ mà còn phải tiến tới dùng từ hay. Bởi
khi được dùng từ đúng lúc, đúng chỗ những từ gợi tả, gợi cảm, những hình ảnh
so sánh nhân hoá , ... sẽ làm cho đối tượng miêu tả được hiện ra một cách cụ thể
sinh động, đồng thời cũng bộc lộ được tình cảm, cảm xúc của người viết cũng
như khơi gợi tình cảm, cảm xúc ấy ở người đọc. Chính vì thế thông qua thao tác
thay thế từ, giáo viên có thể giúp học sinh biết cách sử dụng những từ ngữ gợi
tả, gợi cảm trong bài văn miêu tả.
Ví dụ 1: Chiếc bút có màu đen.
Ví dụ 2: Những bông hoa trong vườn toả hương rất thơm.
Ví dụ 3: Mặt cặp rất nhãn, không có vết.
Ví dụ 4: Con gà mái có bộ lông màu vàng rất đẹp.
Những câu văn trên nếu xét một cách cô lập tách khỏi bài văn miêu tả thì
hoàn toàn bình thường cả về cấu tạo ngữ pháp cũng như về ý nghĩa. Tuy nhiên
khi đặt trong bài văn miêu tả, có thể là chúng chưa thực sự hay, chưa hấp dẫn và
truyền cảm. Do đó, cần thay thế vào vị trí của những từ ngữ thiếu hình ảnh và
cảm xúc bằng các từ láy, tính từ gợi tả, hình ảnh so sánh, nhân hoá... thích hợp.
Ở ví dụ 1,2,3 có thể thay thế các từ: đen, thơm, nhẵn bằng các từ ngữ như:
đen nhánh, thơm ngát (hoặc thơm ngào ngạt), nhẵn bóng ...Những từ ngữ được
thay thế này có tác dụng tạo nên hình ảnh cụ thể, hiển hiện rõ nét trước mắt
người đọc.
11
Đối với ví dụ 4 cần phối hợp sử dụng hai biện pháp tu từ so sánh và nhân
hoá để viết lại câu văn cho sinh động, gợi cảm hơn: Chị gà mái khoác trên
mình bộ lông vàng mướt như nhung trông rất đẹp...
2.3.2. Biện pháp sửa lỗi câu sai.
a. Biện pháp sửa lỗi câu thiếu thành phần.
- Thiếu chủ ngữ
Ví dụ: Qua câu chuyện “Bàn chân kì diệu” cho em thấy ý chí phấn đấu và
nghị lực phi thường của anh Nguyễn Ngọc Ký. (Câu thiếu chủ ngữ)
Câu thiếu thành phần thường bắt nguồn từ việc người viết không nhận biết
một cách rành mạch vai trò của các thành phần của các thành phần câu và ranh
giới giữa chúng. Ví dụ 1 rất điển hình cho dạng câu thiếu chủ ngữ do người viết
“nhầm trạng ngữ với chủ ngữ”. Khi chữa những câu sai như vậy, để học sinh dễ
phát hiện lỗi, nên yêu cầu các em xác đinh thành phần chính và phụ của câu( ví
dụ tìm chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ), từ đó phát hiện ra cái sai của câu về cấu tạo:
thiếu chủ ngữ - chỉ có trạng ngữ và chủ ngữ. Để có câu đủ thành phần, cần bổ
sung chủ ngữ, ngoài ra cũng có thể chữa bằng cách “cải tạo câu cho đủ thành
phần bằng việc gạch bỏ từ qua hoặc tạo ra một nòng cốt mới bằng cách thay từ
cho bằng dấu phẩy. Như vậy, câu sai trên có thể được chữa thành các câu đúng
sau:
Qua câu chuyện“Bàn chân kì diệu”, tác giả cho em thấy ý chí phấn đấu và
nghị lực phi thường của anh Nguyễn Ngọc Ký ( bổ sung chủ ngữ)
Câu chuyện“Bàn chân kì diệu”, tác giả cho em thấy ý chí phấn đấu và
nghị lực phi thường của anh Nguyễn Ngọc Ký ( chuyền trạng ngữ thành chủ
ngữ)
Câu chuyện“ Bàn chân kì diệu”, tác giả em thấy ý chí phấn đấu và nghị
lực phi thường của anh Nguyễn Ngọc Ký (tạo nòng cốt mới cho câu)
- Thiếu vị ngữ:
Ví dụ: Mẹ em, người bạn lớn mà vô cùng thân thiết đối với em.
Cũng là câu thiếu thành phần nhưng câu này thuộc dạng lỗi khác và có
nguyên nhân khác. Cái sai của câu là việc người viết mang lối nói không chuẩn
mực của khẩu ngữ. Về nguyên tắc các câu giới thiệu nhận định thuộc kiểu câu
Ai là gì? Phải có vị ngữ mở đầu bằng từ là. Câu này sai chính là thiếu từ là .
Cách chữa đưn giản nhất là thêm từ là vào trước người bạn để có câu đúng.
Cũng có thể cho rằng nguyên nhân tạo ra câu sai là do người viết nhầm thành
phần chú thích của chủ ngữ là vị ngữ của câu. Theo cách phân tích này, câu
trong ví dụ này chưa có vị ngữ và việc cần làm để có câu đúng là thêm cho câu
sai một vị ngữ thích hợp. Có thể chữa câu sai này thành thanh các câu đúng
tương tự hai câu sau đây:
- Mẹ em là người bạn lớn mà vô cùng thân thiết đối với em.
- Mẹ em, người bạn lớn mà vô cùng thân thiết đối với em, luôn chỉ bảo cho
em điều hay, lẽ phải.
Sự phân tích trên đây cho thấy việc xác định nguyên nhân sai chi phối việc
lựa chọn cách cách câu. Khi chữa một câu, ta chỉ phỏng đoán nguyên nhân gây
sai và chữa theo nguyên nhân đã xác định . Càng phỏng đoán nhiều nguyên nhân
bao nhiêu thì cách chữa càng phong phú bấy nhiêu (lí do chủ yếu của việc có
12
thể xác đinh nhiều nguyên nhân và nhiều cách chữa cho một câu sai là do câu
được xem xét tách khỏi hoạt động. Nếu phân tích câu gắn với ngữ cảnh thì việc
phỏng đoán nguyên nhân sai sẽ chính xác hơn, do vậy cách chữa câu sai cũng
xác định hơn.)
Từ việc phân tích hai câu sai trên có thể rút ra kết luận: Muốn chữa câu
thiếu thành phần, cần phải "thêm" thành phần còn thiếu cho câu. Ở đây cần hiểu
thao tác "thêm" theo nghĩa rộng: có thể là bổ sung thành còn thiếu hoặc cải biến
một thành phần câu vốn giữ chức năng khác thành phần còn thiếu trong câu.
- Câu thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ.
Ví dụ: Khi mùa hè đến. (Hoa phượng nở đỏ rực khắp sân trường)
Câu trên chỉ có một trạng ngữ nên thiếu nòng cốt câu.
Cách chữa:
Cách 1: Bỏ quan hệ từ "khi";. Câu mới sẽ là: Mùa hè đến.
Cách 2: Thêm chủ ngữ, vị ngữ để tạo câu mới.
Khi mùa hè đến, ve kêu râm ran suốt ngày.
Cách 3: Khi mùa hè đến, hoa phượng nở đỏ rực khắp sân trường.
b. Biện pháp sửa lỗi câu thừa thành phần:
Không phổ biến bằng câu thiếu thành phần nhưng câu thừa thành phần
cũng không ít trong bài làm của học sinh. Nguyên nhân chủ yếu gây ra loại lỗi
này cũng là do các em mang thói quen của lời nói miệng vào bài viết.
Ví dụ: Câu chuyện ấy tác giả khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu.
Học sinh đã viết thừa từ "tác giả" hoặc cụm từ "câu chuyện ấy".
Cả hai thành phần này đều có thể làm chủ ngữ của; khuyên chúng ta phải
có tấm lòng nhân hậu nhưng lại không hợp với nhau về ý nghĩa.
Cách chữa :
Cách 1: Bỏ từ "tác giả";
Câu chuyên ấy khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu.
Cách 2: Bỏ cụm danh từ "câu chuyện ấy";
Tác giả muốn khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu.
Cách 3: Biến "câu chuyện ấy" thành trạng ngữ bằng cách thêm từ "qua".
Qua câu chuyên ấy, tác giả khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu.
Cách 4: Biến "tác giả" thành định ngữ của "câu chuyện ấy"
Câu chuyện ấy của tác giả muốn khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân
hậu..
c. Biện pháp sửa câu không phân định rõ thành phần
Ví dụ: Kỷ niệm về chú gấu bông bố đã tặng sinh nhật.
Chúng ta không thể xác định được các thành phần chủ ngữ, vị ngữ của câu
trên.
Cách chữa: Thay đổi vị trí từ, cụm từ và thêm động từ "là".
Chú gấu bông là món quà kỉ niệm bố em đã tặng nhân ngày sinh nhật.
Ví dụ: Cây bàng hàng ngày em thường ngồi ôn bài.
Câu trên sai do học sinh sắp xếp các thành phần chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ
không hợp lí. Điều này làm cho câu khó hiểu, vô nghĩa và không rõ các thành
phần ngữ pháp.
Cách chữa: Sắp xếp lại các thành phần.
13
Hàng ngày, em thường ngồi ôn bài dưới gốc cây bàng này.
d. Biện pháp sửa lỗi về trật tự câu:
Ví dụ: "Con mèo nhà em nặng khoảng một ki- lô- gam rưỡi. Lông nó màu
tro. Em nhớ có một lần, nó ra vườn chuối, thấy một con chuột béo quay. Nó rón
rén, co mình lại nấp vào gốc chuối. Mắt nó nhìn con chuột rồi bất chợt nó lao
vụt tới chỗ con chuột. Trong giây lát, nó đã tóm gọn con chuột. Đầu nó trông to
như quả cam sành. Mắt nó tròn xoe, rất tinh nghịch."
Nếu đứng riêng lẻ, mỗi câu trên đầu đúng cấu tạo. Tuy nhiên, khi xem xét
cả đoạn văn, ta thấy một số câu được sắp xếp theo thứ tự không hợp lí: lẽ ra phải
miêu tả hết các bộ phận về hình dáng bên ngoài của con mèo rồi mới miêu tả
hoạt động của nó, nhưng người viết đã miêu tả hoạt động khi chưa tả xong hình
dáng và sau đó lại tiết tục miêu tả một số đặc điểm về hình dáng. Chính cách sắp
xếp như vậy phá vỡ mạch lạc của bài văn.
Với lỗi cụ thể trên đây, giáo viên cần sử dụng câu hỏi gợi mở để học sinh
tách riêng những chi tiết nói về hình dáng và những chi tiết nói về hoạt động của
con mèo, sau đó hướng dẫn các em sắp xếp các chi tiết đó theo một trật tự thích
hợp, kết quả đúng sẽ là: "Con mèo nhà em nặng khoảng một ki- lô- gam rưỡi.
Lông nó màu tro. Đầu nó trông to như quả cam sành. Mắt nó tròn xoe, rất tinh
nghịch. Em nhớ có một lần, nó ra vườn chuối, thấy một con chuột béo quay. Nó
rón rén, co mình lại nấp vào gốc chuối. Mắt nó nhìn con chuột rồi bất chợt nó
lao vụt tới chỗ con chuột. Trong giây lát, nó đã tóm gọn được con chuột."
Như thế có thể thấy, để hạn chế tận gốc kiểu lỗi này, giáo viên cần chú ý
hướng dẫn học sinh biết cách quan sát, tìm ý, lựa chọn và sắp xếp ý, lập dàn bài
trước khi viết, bởi vì nguyên nhân sâu xa của lỗi này không thuộc về kĩ năng
viết câu mà thuộc về kĩ năng lập dàn bài.
- Câu không rõ nghĩa:
Ví dụ: Hàng năm em về quê.
Ví dụ: Mùa ổi xanh lá, em trèo cây.
Cách chữa: Giáo viên giúp học sinh đặt câu hỏi để xác định các thành phần của
câu như: hàng năm em về quê để làm gì?, Em trèo cây để làm gì?. Từ đó học
sinh sẽ tìm ra thành phần phụ bổ nghĩa cho các từ trong câu giúp người đọc hiểu
đầy đủ nghĩa của câu.
Ví dụ: Hàng năm em về quê thăm ông bà.
Ví dụ: Mùa ổi xanh lá, em trèo cây hái những quả chín vàng.
- Câu không có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các vế câu.
Ví dụ: Mỗi bữa em cho nó ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều. (Lúc nào em cũng
cho nó nhiều thức ăn ngon)
Câu trên chúng ta thấy trạng ngữ và vế câu không tương hợp nhau, có sự
mâu thuẫn giữa "mỗi bữa" với "sáng, trưa, chiều"
Cách chữa:
Cách 1- Sửa trạng ngữ: Mỗi ngày em cho nó ăn ba bữa: sáng, trưa, chiều.
Cách 2- Kết hợp câu sau nó để tạo thành câu phù hợp.
Mỗi bữa sáng, trưa, chiều em đều cho nó ăn nhiều thức ăn ngon.
đ. Biện pháp sửa lỗi về từ liên kết.
14
Khi viết văn học sinh hay dùng sai từ liên kết, đặc biệt là từ xưng hô hoặc
từ thay thế. Chẳng hạn, trong cùng một bài văn người viết xưng em, nhưng ngay
đó là lại xưng tôi hoặc mình; có khi thay cho một từ có nội dung số nhiều lại
dùng đại từ số ít hoặc ngược lại, dùng đại từ số ít để thay thế cho từ ngữ có nội
dung chỉ số nhiều. … Dưới đây là một số ví dụ về câu dùng sai từ thay thế:
Ví dụ : Có không biết bao nhiêu là bướm trắng từ tứ xứ rủ nhau đến chơi
ở vườn cải. Nó hợp thành từng đàn, bay rập rờn trên cánh hoa.
Trong câu 2 của ví dụ trên, người viết đã sử dụng "nó" là đại từ số ít để
thay thế cho cụm từ có ý nghĩa số nhiều" không biết bao nhiêu là bướm trắng".
Chính cách sử dụng từ không đúng như vậy đã tạo ra lỗi logic trong bài viết. với
lỗi này, giáo viên cần giúp học sinh phát hiện từ thay thế và từ được thay thế, chỉ
ra sự không tương hợp giữa chúng và lựa chọn đại từ số nhiều thích hợp để thế
vào vị trí của từ "nó".
Dễ thấy rằng, với các câu sai loại này, cần dựa vào ngữ cảnh để phát hiện
sự không tương hợp giữa câu sai với các câu khác, phát hiện nguyên nhân gây
lỗi, sau đó chữa lỗi theo nguyên nhân đã xác định. Ở kiểu lỗi này, do sự chi phối
của ngữ cảnh, số lượng cách chữa sẽ ít hơn rất nhiều so với khi chữa câu rời,
thậm chí, có câu sai chỉ một cách chữa duy nhất.
e. Biện pháp sửa lỗi về dấu câu:
Các lỗi về dấu câu bắt nguồn từ việc học sinh chưa thực sự hiểu đầy đủ về
vai trò, tác dụng của mỗi loại dấu câu. Khi viết bài, có trường hợp học sinh
không hề dùng dấu câu, cũng có trường hợp dùng dấu câu một cách tùy tiện.
Điều này làm cho câu văn của các em trở nên rối rắm về cấu tạo và mơ hồ về nội
dung.
- Lỗi không dùng dấu câu:
Ví dụ: " Ngày xửa ngày xưa có một con dê trắng đi vào một khu rừng thì
có một con sói trong rừng ra quát dê kia mày đi đâu đấy tôi đi tìm lá non và
nước mát sói lại hỏi thế đầu mày có gì đầu tôi có sừng."
Người viết đoạn văn trong ví dụ trên dường như không có ý niệm về dấu
câu. Trong bài viết của em, lời của người dẫn chuyện và lời của các nhân vật
trong câu chuyện không hề được phân biệt, các mục đích nói gắn với tình huống
nói năng cụ thể cũng không hề được thể hiện, bởi vì dấu câu hoàn toàn vắng
mặt. Chính vì điều này làm cho câu chuyện em kể trở nên rối rắm và không
logic.
Với những lỗi không sử dụng dấu câu, giáo viên phải hướng dẫn học sinh
xác định ranh giới các ý, ranh giới lời nói của các nhân vật, sau đó sử dụng dấu
câu thích hợp để ngăn cách các ý, các câu thể hiện mục đích nói. Bằng các bước
như vậy, học sinh có thể chữa đoạn lời trong ví dụ trên thành các câu sau:
" Ngày xửa ngày xưa có một con dê trắng đi vào một khu rừng. Chợt có một con
sói trong rừng ra quát:
" Dê kia, mày đi đâu đấy?" "Tôi đi tìm lá non và nước mát." Sói lại hỏi: "Thế
đầu mày có gì? "Đầu tôi có sừng." ( có thể không dùng dấu ngoặc kép mà sử
dụng dấu gạch ngang để thể hiện lời nói trực tiếp của các nhân vật.)
Lỗi dùng dấu câu không đúng chức năng:
15
Lỗi thường gặp của kiểu này là dùng dấu chấm vào vị trí của dấu phẩy. Kha
nhiều trường hợp, sau khi viết thành phần phụ của câu, học sinh đã viết dấu
chấm để ngăn cách thành phần này với nòng cốt câu, trong khi lẽ ra phải viết
dấu phẩy. Chính điều này đã tạo ra một kiểu câu sai đặc biệt: chỉ có thành phần
phụ và không có nòng cốt.
Ví dụ: Để chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam. Chúng em thi đua học tập
thất tốt.
Câu thứ nhất trong ví dụ trên thiếu cả chủ ngữ, vị ngữ, có nguyên nhân từ
việc người viết đã dùng dấu chấm để ngăn cách trạng ngữ chỉ mục đích với nòng
cốt của câu. Để học sinh phân tích và chữa lỗi, giáo viên cần gợi ý cho các em
thấy quan hệ nội dung giữa câu sai và câu đúng ngay sau nó: câu sai nêu mục
đích của sự việc được nói đến của câu đứng sau. Ngoài ra cần giúp học sinh
hiểu rằng khi muốn nêu hoàn cảnh thời gian, nơi chốn, nguyên nhân,mục
đích, ... diễn ra một việc nào đó thì những thông tin ấy nên đưa vào bộ phận
trạng ngữ; giữa trạng ngữ và phần còn lại của câu có dấu phẩy ngăn cách. Nắm
được điều này các em có thể chữa câu (trong ví dụ) và những câu sai tương tự
một cách dễ dàng: thay dấu chấm (đầu) trong "câu" sai bằng dấu phẩy để nhập
"câu" sai với câu sau nó, tạo thành một câu mới là câu đơn có trạng ngữ: Để
chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam, chúng em thi đua học tập thất tốt.
Từ việc chữa những câu sai kiểu này, học sinh không chỉ rút ra bài học về
cách chữa các câu sai cùng kiểu, mà còn hạn chế được những lỗi viết câu tương
tự.
Mặt mẹ lấm tấm mồ hôi. Hay : Mặt mẹ ròng ròng mồ hôi.
Những từ ngữ, câu sai được phân tích và chữa trong sáng kiến này không
phải là tất cả các loại lỗi phổ biến trong bài viết của HS lớp 4, 5 trường Tiểu học
Quảng Đại - thành phố Sầm Sơn. Đây chỉ là một số ví dụ mà tôi sử dụng để
minh họa cho ý tưởng hình thành viết câu cho học sinh từ hoạt động phát hiện
và sửa lối dùng từ, viết câu sai. Căn cứ vào bài tập làm văn cụ thể của học sinh,
giáo viên sẽ lựa chọn những lỗi cần chữa sao cho vừa sức để học sinh đạt hiệu
quả cao nhất.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau một thời gian tìm hiểu nguyên nhân, phát hiện lỗi và áp dụng những
biện pháp về việc sửa lỗi câu cho học sinh lớp 4,5 tôi thấy, số lượng các em viết
đúng và hay về câu văn vẫn còn hạn chế nhưng những biện pháp sửa lỗi đã phần
nào đã giúp các em học sinh nhìn nhận ra lỗi câu của mình để có biện pháp sửa
chữa hợp lý. Đối với học sinh đạt mức Hoàn thành các em đã xác định đúng yêu
cầu đề, biết viết câu văn đúng ngữ pháp, viết đoạn văn bài văn tương đối hình
ảnh. Với học sinh có lực học tốt hơn, các em đã biết quan sát thực tế một cách
chi tiết, biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong khi làm bài. Vì vậy bài viết
của các em đã có nhiều sáng tạo và chuyển biến rõ rệt so với đầu năm.
Cụ thể kết quả khảo sát học sinh khối 4,5 - Trường Tiểu học Quảng Đại Thành phố Sầm Sơn vào thời điểm cuối năm học 2018 -2019 như sau:
Tổng số HS
Hoàn thành tốt
SL
TL (%)
Hoàn thành
SL
TL (%)
Chưa hoàn thành
SL
TL (%)
16
216
105
48,6
111
51,4
0
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận:
Phát hiện và sửa lỗi dùng từ, viết câu sai trong bài tập làm văn cho học sinh
là việc làm rất cần thiết, có tác dụng rất tích cực đối với việc rèn kĩ năng viết câu
đúng cho học sinh. Theo lí thuyết hoạt động lời nói, giai đoạn cuối của hoạt
động sản sinh lời nói là kiểm tra kết quả. Phát hiện, phân tích và sửa lỗi cho học
sinh chính là kiểm tra kết quả cuả quá trình viết. Việc làm này một mặt giúp học
sinh loại bỏ lỗi viết câu trong bài làm của mình, hình thành kĩ năng viết đúng ở
các em; mặt khác, giúp giáo viên nắm được trình độ của học sinh, từ đó có biện
pháp dạy học thích hợp. Vì vậy trong quá trình dạy học, giáo viên cần thường
xuyên đánh giá chất lượng viết câu và khảo sát định kì vở viết các môn của học
sinh để nắm được các em đang mắc lỗi về phần nào. Từ đó xác định nguyên
nhân và có biện pháp khắc phục kịp thời. Trong thời đại ngày nay, khi xã hội
càng phát triển càng đòi hỏi con người khả năng giao tiếp tốt hơn trong mọi
hoàn cảnh, mọi môi trường.
Trong hoạt động giao tiếp, câu được coi là đơn vị trung tâm và từ là yếu tố
không thể thiếu để tạo câu. Vì vậy, sửa lỗi câu cho học sinh là một việc làm cần
thiết, thường xuyên và liên tục trong dạy học và cũng là để thực hiện nhiệm vụ
"giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt", để nói và viết Tiếng Việt sao cho
đúng,cho hay.
3.2. Kiến nghị:
* Đối với giáo viên:
- Dạy tốt các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu và đặc biệt là
phân môn Tập làm văn.
- Tận dụng thời gian rèn luyện cho học sinh thói quen sử dụng từ gợi tả chính
xác; dùng biện pháp tu từ khi viết văn và thói quen đọc sách .
*Đối với quản lí:
Thường xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên môn về chuyên đề phân môn Tập
làm văn để giáo viên học hỏi và nắm chắc phương pháp dạy học nhất là thể loại
miêu tả đồng thời học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình dạy học.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã thực hiện trong những
năm làm công tác giảng dạy. Tôi rất mong được sự đóng góp của tất cả đồng
nghiệp để tôi có thêm những kinh nghiệm nhằm góp phần vào công tác giáo dục
trong những năm tiếp theo đạt được hiệu quả cao hơn. Tôi xin chân thành cảm
ơn!
XÁC NHẬN CỦA
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2019
HIỆU TRƯỞNG
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết
17
Lữ Thị Thắm
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Diệp Quang Ban (1987), Câu đơn Tiếng Việt - Nxb Giáo dục.
2. Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (2003) - Ngữ pháp Tiếng Việt Nxb Giáo dục.
3. Nguyễn Đức Dần (1993), Tiếng Việt - Nxb Giáo dục.
4. Lê Phương Nga (2002)- Dạy học ngữ pháp ở Tiểu học - Nxb Giáo dục.
5. Bùi Minh Toán, Lê A (2002)- Tiếng Việt thực hành - Nxb Giáo dục.
6. Nguyễn Minh Thuyết (2001)- Tiếng Việt thực hành - Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
2