Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

ĐỀ ÁN THÀNH LẬP THỊ XÃ ĐỨC PHỔ VÀ CÁC PHƢỜNG THUỘC THỊ XÃ ĐỨC PHỔ, TỈNH QUẢNG NGÃI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 81 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NGÃI

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

ĐỀ ÁN
THÀNH LẬP THỊ XÃ ĐỨC PHỔ VÀ CÁC PHƢỜNG
THUỘC THỊ XÃ ĐỨC PHỔ, TỈNH QUẢNG NGÃI

Quảng Ngãi 2019


ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NGÃI

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

ĐỀ ÁN
THÀNH LẬP THỊ XÃ ĐỨC PHỔ VÀ CÁC PHƢỜNG THUỘC THỊ XÃ ĐỨC
PHỔ, TỈNH QUẢNG NGÃI
(Kèm theo tờ trình số …../TTr-UBND ngày ……………của UBND tỉnh Quảng Ngãi)
PHẦN I
CĂN CỨ PHÁP LÝ VÀ SỰ CẦN THIẾT THÀNH LẬP THỊ XÃ ĐỨC PHỔ VÀ
CÁC PHƢỜNG THUỘC THỊ XÃ ĐỨC PHỔ, TỈNH QUẢNG NGÃI
I. CÁC CĂN CỨ PHÁP LÝ
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
- Luật tổ chức Chính quyền địa phương số 77/2015/QH13;
- Luật Quy hoạch đô thị ngày 17/6/2009;


- Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội về phân loại đô thị;
- Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính;
- Quyết định số 445/QĐ- TTg ngày 07/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt điều chỉnh định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến
năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050;
- Quyết định số 2052/QĐ-TTg ngày 10/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2020;
- Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 07/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Chương trình phát triển đô thị quốc gia giai đoạn 2012 - 2020;
- Thông báo số 3756/TB-BNV ngày 14/8/2015 kết quả buổi làm việc giữa Bộ Nội vụ
với UBND tỉnh Quảng Ngãi về chủ trương thành lập thị xã Đức Phổ, điều chỉnh địa giới
hành chính để thành lập huyện mới Sông Hrê, tỉnh Quảng Ngãi;
- Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XIX, nhiệm kỳ
2015-2020;
- Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 01/7/2016 của Tỉnh ủy về đầu tư phát tiển kết cấu
hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị;
- Quyết định số 23/QĐ-UBND ngày 09/01/2017 của UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc
thông qua Đề án phát triển đô thị trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020, định hướng đến
năm 2025;

1


- Nghị quyết số 19/2015/NQ-HĐND ngày 14/12/2015 của HĐND tỉnh về Kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 của tỉnh Quảng Ngãi;
- Quyết định số 14/QĐ-UBND ngày 26/10/2011 của UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc
thông qua Đề án phát triển đô thị trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011-2015, định hướng đến
năm 2020;

- Quyết định số 831/QĐ-UBND ngày 17/11/2017 của UBND tỉnh về việc phê duyệt
Đề án Quy hoạch chung (điều chỉnh) đô thị Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi đến 2035;
- Quyết định số 40/QĐ-BXD ngày 17/01/2019 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về việc
công nhận khu vực dự kiến thành lập thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi đạt tiêu chuẩn đô
thị loại IV;
- Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Đức Phổ lần thứ XX, nhiệm kỳ 20152020;
- Và một số văn bản khác có liên quan.
II. LÝ DO VÀ SỰ CẦN THIẾT THÀNH LẬP THỊ XÃ ĐỨC PHỔ VÀ CÁC
PHƢỜNG THUỘC THỊ XÃ ĐỨC PHỔ, TỈNH QUẢNG NGÃI
Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Duyên Hải Trung Trung Bộ, có bờ
biển dài khoảng 129 km với vùng lãnh hải rộng lớn 11.000 km2, 6 cửa biển giàu nguồn
lực hải sản và nhiều bãi biển đẹp, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía Nam giáp tỉnh Bình
Định, phía Tây giáp tỉnh Kon Tum, phía Đông giáp Biển Đông. Nằm ở vị trí miền trung tổ
quốc, Quảng Ngãi cách thủ đô Hà Nội 890 km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí
Minh 824 km về phía Nam theo đường Quốc lộ 1A. Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung được Chính phủ chọn khu vực Dung Quất để xây dựng nhà máy
lọc dầu đầu tiên của Việt Nam, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch
nhanh cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quyết định số
2052/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10 tháng 11 năm 2010 về phê duyệt quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2020 xác định: Phấn
đấu đưa Quảng Ngãi trở thành tỉnh công nghiệp - dịch vụ và lên vị trí cao về phát triển
trong số các tỉnh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung vào năm 2020 với tốc độ tăng
trưởng cao và bền vững, có hệ thống cơ sở hạ tầng cơ bản đồng bộ theo hướng hiện đại.
Tỉnh Quảng Ngãi gồm 1 thành phố trực thuộc và 13 huyện, trong đó có 1 huyện đảo,
1 thành phố, 6 huyện đồng bằng, 6 huyện miền núi, trong đó có với 184 đơn vị hành chính
cấp xã, gồm có 9 thị trấn, 9 phường và 166 xã.
1. Sự cần thiết thành lập thị xã Đức Phổ
Là một trong 13 huyện của tỉnh Quảng Ngãi, huyện Đức Phổ nằm ở phía Đông Nam
của tỉnh , có 15 đơn vị hành chính cấp xã gồm 14 xã và 1 thị trấn; với diện tích tự nhiên
khoảng 372,76 km2, dân số trung bình hiện nay khoảng 150.927 người. Huyện Đức Phổ

có vị trí đặc biệt quan trọng, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội: cách cảng Dung Quất
khoảng 80km, cách sân bay Chu Lai 90km về phía Bắc và sân bay Phù Cát khoảng 100km
về phía Nam; có tuyến đường sắt Bắc - Nam, Quốc lộ 1, Quốc lộ 24, cao tốc Đà Nẵng Quy Nhơn và tuyến đường ven biển (Dung Quất - Sa Huỳnh), có cửa biển Mỹ Á, Sa
Huỳnh…là những điều kiện đặc biệt quan trọng, làm động lực cho việc hội nhập phát triển
kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, huyện còn có vị trí quan trọng về an ninh, quốc phòng, bảo
vệ chủ quyền Quốc gia đối với biển, đảo của Tổ quốc. Theo quy hoạch tổng thể phát triển

2


kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2020, Đức Phổ được định hướng phát triển
thành thị xã thuộc tỉnh vào năm 2015, là trung tâm kinh tế, văn hóa, du lịch của vùng phía
Nam tỉnh Quảng Ngãi. Theo Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030, huyện Đức Phổ nằm trên nhiều tuyến hành lang phát triển kinh
tế quan trọng của tỉnh; đến năm 2020, Đức Phổ cùng với các đô thị Quảng Ngãi, Dung
Quất, Di Lăng là những đô thị trọng điểm trong hệ thống đô thị của tỉnh. Ngày
17/11/2017, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã phê duyệt đồ án Quy hoạch chung (điều chỉnh) đô
thị Đức Phổ định hướng đến năm 2035, với khu vực dự kiến thành lập thị xã Đức Phổ gồm
15 xã, thị trấn, có diện tích tự nhiên 372, 76 km2, dân số 150. 927 người (khu vực nội thị
gồm thị trấn Đức Phổ và 7 xã, với diện tích tự nhiên khoảng 12.074 ha, dân số khoảng
78.192 người).
Huyện Đức Phổ có dân cư tập trung, cơ sở hạ tầng tương đối phát triển đồng bộ, các
tuyến giao thông kết nối thuận lợi, có các công trình hạ tầng đầu mối quan trọng. Vùng đất
này có nhiều di tích lịch sử, truyền thống cách mạng đấu tranh dựng nước và giữ nước,
nhiều tài nguyên văn hóa, di chỉ khảo cổ của nền văn hóa Sa Huỳnh nổi tiếng đã được xếp
hạng cấp tỉnh, cấp Quốc gia. Sa Huỳnh cũng là một trung tâm du lịch nhiều tiềm năng của
khu vực miền trung. Trong những năm qua, công tác quy hoạch và quản lý xây dựng, đầu
tư phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đã được chú trọng. Các khu dân cư
được chỉnh trang nâng cấp hoặc đầu tư xây dựng mới; các khu du lịch, cụm công nghiêp,


3


khu công nghiệp; cơ sở thương mại, dịch vụ đang được thực hiện là các động lực chính để
phát triển kinh tế - xã hội và phát triển đô thị. Hiện nay, huyện có tỷ lệ lao động phi nông
nghiệp khá cao; trong những năm qua cơ cấu dân số, lao động có sự chuyển dịch mạnh
theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch
vụ thương mại, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, tốc độ
đô thị hóa diễn ra nhanh trên địa bàn thị trấn và các xã giáp ranh đòi hỏi cấp thiết phải có
không gian phù hợp để phát triển; mô hình tổ chức bộ máy chính quyền địa phương phải
được thay đổi từ quản lý nông thôn sang quản lý đô thị, để phù hợp và đáp ứng yêu cầu
phát triển của Đức Phổ, một địa phương đã và đang có tốc độ đô thị hóa và sự phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội ngày càng nhanh, mạnh, theo hướng hiện đại.
Đối chiếu với các quy định hiện hành của Nhà nước, huyện Đức Phổ về cơ bản đã
hội tụ đủ các tiêu chuẩn và điều kiện để chuyển thành thị xã thuộc tỉnh. Thành lập thị xã
Đức Phổ thuộc tỉnh Quảng Ngãi là một sự cần thiết khách quan, phù hợp với sự phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương trong giai đoạn hiện nay, cũng như phù hợp với nguyện
vọng của Đảng bộ, Chính quyền, các tầng lớp nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nói chung và
huyện Đức Phổ nói riêng; góp phần thực hiện ngày càng có kết quả, hiệu quả các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của người dân địa phương trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng hiện đại của nước ta hiện nay.
2. Sự cần thiết thành lập các phƣờng thuộc thị xã Đức Phổ
Huyện Đức Phổ hiện có 15 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị trấn Đức Phổ và
14 xã. Khu vực dự kiến thành lập thị xã được lập cho phạm vi 15 xã, thị trấn; Trong đó
Khu vực nội thị gồm 07 xã và 01 thị trấn, khu vực ngoại thị gồm 07 xã.
Đô thị Đức Phổ có vị trí kinh tế khá thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Qua địa
bàn đô thị có tuyến đường sắt Bắc - Nam, Quốc lộ 1, Quốc lộ 24, đường tỉnh 627B và
tuyến đường ven biển (Dung Quất- Sa Huỳnh); cửa biển Mỹ Á và cua73 biển Sa Huỳnh là
nơi cung cấp các dịch vụ cho hơn1 400 tàu thuyền,… Đến nay, khu vực thị trấn Đức Phổ
đã có nhiều công trình dự án được triển khai đầu tư, ngoài nguồn vốn ngân sách, huyện đã

thu hút nguồn vốn khác như: Nhà máy may xuất khẩu Vinatex Đức Phổ, Trung tâm
thương mại chợ Đức Phổ, cụm Công nghiệp Đồng Làng, Cụm công nghiệp Sa Huỳnh,
Khu dịch vụ hậu cần nghề cá Mỹ Á, Siêu thị Co.opmart Đức Phổ, Khu dân cư chỉnh trang
đô thị An Phát Đạt, Khu dân cư Nam Trần Hưng Đạo, Khu dân cư An Phú, Khu dân cư
Bàu Sen…
Với những tiền đề phát triển như vậy, khu vực nêu trên đã và đang diễn ra quá trình
đô thị hóa nhanh; kinh tế phát triển ổn định với cơ cấu đa dạng: công nghiệp, TTCN, xây
dựng, thương mại - dịch vụ, du lịch và nông nghiệp; có tốc độ tăng trưởng kinh tế, giá trị
sản xuất năm sau cao hơn năm trước; mật độ dân số, thu nhập bình quân đầu người và tỷ lệ
lao động phi nông nghiệp ngày càng cao hơn các vùng lân cận; bộ mặt đô thị của các xã,
thị trấn ngày một khang trang hơn.
Qua phân tích đánh giá thì thị trấn Đức Phổ và các xã Phổ Hòa, Phổ Ninh, Phổ Minh,
Phổ Văn, Phổ Vinh, Phổ Quang, Phổ Thạnh, về cơ bản đã đáp ứng đủ các điều kiện, tiêu
chuẩn thành lập phường theo quy định của Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày
25/5/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Việc thành lập các phường Nguyễn Nghiêm, Phổ Hòa, Phổ Ninh, Phổ Minh, Phổ
Văn, Phổ Vinh , Phổ Quang và Phổ Thạnh sẽ tạo tiền đề pháp lý cho việc thiết lập mô hình

4


tổ chức bộ máy chính quyền đô thị, nhằm đáp ứng yêu cầu về công tác quản lý hành chính
nhà nước trên địa bàn; góp phần vào việc nâng cao tỷ lệ đô thị hóa, đưa huyện Đức Phổ
đạt các tiêu chuẩn của thị xã thuộc tỉnh theo định hướng quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định 2052/QĐ-TTg ngày 10/11/2010 và Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng
Ngãi lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2015-2020, Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 01/7/2016 của
Tỉnh ủy về đầu tư phát tiển kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị;
Quyết định số 23/QĐ-UBND ngày 09/01/2017 của UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc thông
qua Đề án phát triển đô thị trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm

2025; Nghị quyết số 19/2015/NQ-HĐND ngày 14/12/2015 của HĐND tỉnh về Kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 của tỉnh Quảng Ngãi; Quyết định số 14/QĐUBND ngày 26/10/2011 của UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc thông qua Đề án phát triển
đô thị trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020; Quyết định số
831/QĐ-UBND ngày 17/11/2017 của UBND tỉnh về việc phê duyệt Đề án Quy hoạch
chung (điều chỉnh) đô thị Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi đến 2035; Quyết định số 40/QĐBXD ngày 17/01/2019 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về việc công nhận khu vực dự kiến
thành lập thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV.

5


PHẦN II
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA HUYỆN ĐỨC
PHỔ VÀ CÁC XÃ.
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI CỦA HUYỆN ĐỨC PHỔ
Trong quá trình hình thành và phát triển, Đức Phổ là vùng đất nhiều lần chia tách,
sáp nhập và thuộc các cấp quản lý hành chính khác nhau: Thời kỳ phong kiến, địa bàn Đức
Phổ nằm trong huyện Khê Cẩm đời nhà Hồ, huyện Mộ Hoa đời nhà Lê và Mộ Đức đời
nhà Nguyễn. Năm 1890 (Thành Thái năm thứ 2), những xã "Thượng bạn" thuộc Mộ Đức
cắt ra và đặt thành châu Đức Phổ thuộc Nha Sơn phòng Nghĩa Định. Năm 1899 (Thành
Thái năm thứ 11), phần lớn các tổng Cảm Đức, Triêm Đức, Tri Đức được tách ra khỏi Mộ
Đức lập thành huyện Đức Phổ. Năm 1906, 03 tổng đổi tên là Phổ Cảm, Phổ Tri và Phổ
Vân với 78 xã.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, huyện Đức Phổ đổi tên là huyện Nguyễn
Nghiêm nhưng chỉ một thời gian ngắn rồi đổi lại là Đức Phổ. Các tổng cũng có sự đổi tên:
tổng Phổ Cảm đổi là tổng Trần Kha, tổng Phổ Tri đổi là tổng Huỳnh Lầu, tổng Phổ Vân
đổi là tổng Phan Bằng nhưng cũng chỉ trong một thời gian ngắn thì quay lại tên cũ và xóa
bỏ luôn cấp tổng. Huyện Đức Phổ được hoạch định lại đơn vị hành chính với 13 xã đều lấy
chữ Phổ làm đầu: Phổ Phong, Phổ Thuận, Phổ Văn, Phổ Quang, Phổ An, Phổ Nhơn, Phổ
Ninh, Phổ Hòa, Phổ Minh, Phổ Vinh, Phổ Khánh, Phổ Cường, Phổ Thạnh; dưới xã là

thôn; các thôn thường lấy tên làng xã cũ.
Sau khi tiếp quản, đến năm 1958 chính quyền Sài Gòn thành lập quận Đức Phổ, đổi
tên gọi các xã, đặt hai xã mới, tổng cộng có 15 xã, vẫn lấy chữ Phổ ở đầu, nhưng đổi tên
chữ sau: xã Phổ Hòa đổi là xã Phổ Đại; xã Phổ Thuận đổi là xã Phổ Long; xã Phổ Văn đổi
là xã Phổ Hưng; xã Phổ Phong đổi là xã Phổ Nghĩa; xã Phổ An đổi là xã Phổ Lợi; xã Phổ
Quang đổi là xã Phổ Xuân; xã Phổ Ninh đổi là xã Phổ Bình; xã Phổ Minh đổi là xã Phổ
Tân; xã Phổ Nhơn đổi là xã Phổ Phước; xã Phổ Cường đổi là xã Phổ Trang; xã Phổ Khánh
đổi là xã Phổ Trung, một phần tách lập thành xã Phổ Hiệp; xã Phổ Thạnh đổi là xã Phổ
Thạch, tách một phần lập xã Phổ Châu; xã Phổ Vinh đổi là xã Phổ Thành.
Sau năm 1975, Đức Phổ vẫn giữ nguyên địa giới hành chính đã có và có 13 xã như
thời kháng chiến chống Pháp (xã Phổ Hiệp nhập lại vào xã Phổ Khánh, xã Phổ Châu nhập
lại vào xã Phổ Thạnh). Năm 1987, thị trấn Đức Phổ được thành lập từ thôn Vĩnh Lạc và
một phần thôn Vĩnh Bình xã Phổ Ninh, thôn Trường Sanh xã Phổ Minh, thôn An Thọ, An
Lạc xã Phổ Hòa. Đến năm 1999, xã Phổ Châu lại được tách lập thành 1 xã, là xã cực nam
của tỉnh Quảng Ngãi.
Từ năm 2005, lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi có kế hoạch xây dựng huyện Đức Phổ trở
thành thị xã trực thuộc tỉnh. Đến nay, huyện Đức Phổ có 01 thị trấn Đức Phổ và 14 xã: Phổ
Hòa, Phổ Thuận, Phổ Văn, Phổ Phong, Phổ An, Phổ Quang, Phổ Ninh, Phổ Minh, Phổ
Nhơn, Phổ Cường, Phổ Khánh, Phổ Thạnh, Phổ Châu và Phổ Vinh.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, địa danh Đức Phổ có ý nghĩa quan trọng với sự phát
triển của tỉnh Quãng Ngãi. Huyện Đức Phổ còn được biết đến với đường bờ biển khá dài,
thuận lợi cho phát triển ngư nghiệp, được xem là một thế mạnh của huyện. Đức Phổ còn là
quê hương của nền Văn hóa Sa Huỳnh nổi tiếng, được nhà khảo cổ học người Pháp phát
hiện năm 1909 và được xác định niên đại cách nay khoảng 2.500 năm và nền Văn hóa

6


Chămpa với bi ký khắc trên đá bằng chữ Sanskrit (chữ Chăm cổ), văn bia này được tìm
thấy tại thôn Thạnh Đức, xã Phổ Thạnh. Qua nhiều năm, Đức Phổ vẫn còn lưu lại rất nhiều

di sản văn hóa phong phú của người Việt như lễ hội ra quân đánh bắt thủy sản đầu năm
được tổ chức tại biển Sa Huỳnh ngày mùng 3 Tết âm lịch hàng năm và Hát sắc bùa, một
hình thức diễn xướng dân gian, mang tính chất nghi lễ phong tục diễn ra vào các dịp tết
Nguyên đán.
Nói đến Đức Phổ là nói đến vùng đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, nơi
diễn ra phong trào nông dân Tây Sơn từ cuối thế kỷ XVIII, phong trào Cần Vương năm
1886, và phòng trào Duy Tân. Đức Phổ còn là cái nôi cách mạng của tỉnh Quảng Ngãi,
nơi ra đời của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi, sự kiện ngày 8/10/1930 với hơn 5.000 người dân
xuống đường để chia lửa với phong trào xô viết Nghệ Tĩnh, toàn huyện có 13/14 xã là lực
lượng vũ trang với hơn 200 bà mẹ Việt Nam anh hùng.
II. HIỆN TRẠNG
1. Vị trí địa lý:
Đức Phổ là huyện đồng bằng trải dài theo bờ biển phía nam tỉnh Quảng Ngãi, cách
trung tâm thành phố Quảng Ngãi khoảng 40km; có tọa độ địa lý từ 14o34’40” đến 14
o
54’50” vĩ độ Bắc và từ 108 o047’50” đến 109 o04’56” kinh độ Đông:
- Phía Đông giáp biển Đông;
- Phía Tây giáp huyện Ba Tơ;
- Phía Nam giáp huyện Hoài Nhơn, Tỉnh Bình Định;
- Phía Bắc giáp huyện Mộ Đức.
- Phía Tây Nam giáp huyện An Lão, tỉnh Bình Định.
- Phía Tây bắc giáp với huyện Nghĩa Hành.
Trung tâm Huyện Đức Phổ cách thành phố Quảng Ngãi khoảng 40km, cách khu
kinh tế và cảng nước sâu Dung Quất khoảng 60 km và cách khu kinh tế Nhơn Hội (Bình
Định) khoảng 120 km, cách sân bay Chu Lai 90km về phía Bắc và sân bay Phù Cát
khoảng 100km về phía Nam; có tuyến đường sắt Bắc - Nam, Quốc lộ 1, Quốc lộ 24, cao
tốc Đà Nẵng - Quy Nhơn và tuyến đường ven biển (Dung Quất - Sa Huỳnh), có cửa biển
Mỹ Á, Sa Huỳnh…là những điều kiện đặc biệt quan trọng, làm động lực cho việc hội nhập
phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, huyện Đức Phổ có vị trí quan trọng về an ninh,
quốc phòng, bảo vệ chủ quyền Quốc gia đối với biển, đảo của Tổ quốc.

2. Điều kiện tự nhiên:
a) Địa hình, địa mạo
Khu vực nghiên cứu có địa hình phức tạp, đa dạng, bị chia cắt mạnh, núi và đồng
bằng xen kẽ, một số nhánh núi của dãy Trường Sơn chạy ra tận bờ biển.
- Tại các khu vực trung tâm thị trấn, có cao độ nền từ: 5,22m - 10,7m, không bị ngập
lụt.
- Khu vực sản xuất nông nghiệp: dọc sông Trà Câu, trên địa phận các xã Phổ Ninh,
Phổ Văn, Phổ Quang, Phổ Minh, Phổ Vinh có đồng bằng tương đối rộng, địa hình bằng
phẳng, cao độ nền từ 1,00 - 4,80m.

7


- Khu vực đồi núi: Khu vực đồi núi có độ dốc lớn (≥25%), nằm phía tây khu vực
nghiên cứu (xã Phổ Ninh, Phổ Hòa), và có một số dãy núi chạy suốt ra bờ biển, có một ít
đồng bằng nhỏ hẹp nằm cạnh các suối và xen kẽ với núi.
b) Khí hậu:
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, Đức Phổ có nền nhiệt cao, mưa tương đối nhiều,
bức xạ lớn cho phép sản xuất nhiều vụ trong năm và cây trồng, vật nuôi sinh trưởng phát
triển tốt.
- Khí hậu được chia thành 2 mùa: Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 lượng mưa
nhiều, nhiệt độ thấp, lượng bốc hơi và giờ nắng ít. Mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8, lượng
mưa ít, nắng nóng, lượng nước bốc hơi cao.
- Nhiệt độ trung bình năm là 25,80C, tháng giêng và tháng hai nhiệt độ trung bình chỉ
đạt 21,5-22,50C, đặc biệt có lúc nhiệt độ xuống thấp, dưới 200C nên lúa trổ bông vào thời
gian này thường bị lép, mất mùa.
- Lượng mưa trung bình cả năm đạt 1.915mm, hạn hán thường xảy ra từ tháng 3 tháng 8 và úng lụt thường xảy ra trong mùa mưa (tháng 9 - tháng 12).
- Đức Phổ nằm trong vùng gió mùa, có 2 mùa gió chính: gió mùa đông với hướng
thịnh hành là Đông Bắc đến Bắc và gió mùa hạ với hướng chính là Đông đến Đông Nam,
tốc độ gió trung bình 2-4 m/s. Song những lúc chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc thì

tốc độ gió có thể cao hơn nhiều. Mặt khác mùa hè có gió Tây Nam khô nóng thổi từng đợt
5-7 ngày ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp nhất là lúa hè thu giai đoạn làm đòng, trổ
bông.
- Trên biển trung bình có 135 ngày gió mạnh cấp 6 gây ảnh hưởng đến thời gian đi
biển của ngư dân, nhất là vào thời gian từ tháng 11 đến tháng 01 năm sau. Mỗi năm trung
bình có một cơn bão vào Quảng Ngãi, thường có bão vào tháng 10, ảnh hưởng đến vụ lúa
mùa và đời sống nhân dân.
c) Thủy văn:
- Sông Trà Câu: bắt nguồn từ vùng Đông Nam huyện Ba Tơ, đoạn trên gọi là sông
Ba Liên hay sông Vực Liêm, chảy theo hướng Tây - Tây Bắc đến Đông - Đông Nam rồi
đổ ra cửa biển Mỹ Á. Sông Trà Câu được coi là một trong những con sông lớn của tỉnh
Quảng Ngãi.
- Sông Lò Bó bắt nguồn từ vùng núi phía nam huyện, có độ cao 300m, chảy theo
hướng Tây Nam - Đông Bắc, diện tích lưu vực khoảng 36km2, chiều dài 27,8 km.
- Sông Thoa là con sông đào xuất phát từ Phú An đi qua các xã Đức Hòa, Đức Tân,
Đức Phong (huyện Mộ Đức), Phổ An, Phổ Quang và cuối cùng đổ ra cửa Mỹ Á. Sông
Thoa lấy nước sông Vệ ở Phú An (xã Đức Hiệp) để tưới cho đồng ruộng trong mùa nắng
hạn lại vừa tiêu úng, thoát lũ trong mùa mưa cho các vùng dọc ven sông.
- Ngoài ra còn có các hồ đập như: Hồ Liệt Sơn, hồ An Thọ, tham gia điều tiết lũ và
cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp.
3. Diện tích tự nhiên và cơ cấu các loại đất
Theo số liệu thống kê năm 2018 Huyện Đức Phổ có diện tích tự nhiên là 372,76 km2.
Trong đó chia ra:

8


Diện tích đất nông nghiệp 302,92 km2 chiếm 81,18%
Diện tích đất phi nông nghiệp 59,53 km2 chiếm 15,95%
Diện tích đất chưa sử dụng 10,72 km2 chiếm 2,87%

4. Dân số và cơ cấu thành phần dân cƣ
Với vai trò là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế - xã hội của khu vực phía nam
của tỉnh Quảng Ngãi, huyện Đức Phổ luôn có sự phát triển kinh tế - xã hội ở mức cao, hệ
thống hạ tầng đô thị đang từng bước được đầu tư xây dựng đồng bộ, môi trường đô thị,
nếp sống văn minh đô thị ngày càng được cải thiện, đời sống nhân dân được nâng cao.
Đây đang và sẽ là tiền đề thu hút được lượng lớn lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh cũng
như các vùng lân cận về làm việc và sinh sống.
Năm 2018, toàn huyện Đức Phổ có dân số đã quy đổi là 150.927 người, bao gồm:
học sinh, sinh viên từ các trường THCN dạy nghề, doanh nhân kinh doanh và buôn bán tại
đô thị, lao động tạm trú làm việc tại các cụm công nghiệp và doanh nghiệp sản xuất, bệnh
nhân điều trị nội trú tại bệnh viện, một số lực lượng quân đội và lực lượng vũ trang đóng
quân trên địa bàn....
+ Dân số trung bình của toàn huyện: 150.927 người, trong đó nữ giới chiếm 50,85%.
+ Dân số trong độ tuổi lao động của huyện: 105.649 người, trong đó nữ giới chiếm
50,87%.
+ Dân số trung bình của khu vực nội thị: 78.192 người, trong đó nữ giới chiếm 50,52
%.
+ Dân số trong độ tuổi lao động của khu vực nội thị : 52.069 người, trong đó nữ giới
chiếm 51,23%.
Theo số liệu điều tra, tính đến tháng 12 năm 2018 trên toàn khu vực này có số lao
động đang làm việc trong các ngành kinh tế là 52.069 người, trong đó lao động đang làm
việc trong ngành nông nghiệp là 13.210 người; lao động trong các ngành công nghiệp,
xây dựng, ngư nghiệp, thương mại, dịch vụ (phi nông nghiệp) là 39.159 người.Tỷ lệ lao
động phi nông nghiệp khu vực nội thị là 75,2%.
Thống kê lao động khu vực thị trấn Đức Phổ mở rộng (năm 2018)

TT

1
2

3
4
5
6
7

Tên đơn vị hành
chính

Thị trấn Đức Phổ
Xã Phổ Hòa
Xã Phổ Vinh
Xã Phổ Ninh
Xã Phổ Minh
Xã Phổ Văn
Xã Phổ Quang

Tổng số
lao động
(ngƣời)

Số lao
động phi
nông
nghiệp
(ngƣời)

Số lao động
nông nghiệp
(ngƣời)


Tỷ lệ lao
động phi
nông nghiệp
(%)

5.964
3.522
6.135
6.515
3.766
6.501
5.888

5.130
2.466
4.601
4.626
2.636
4.616
4.475

834
1.056
1.534
1.889
1.130
1.885
1.413


86
70
75
71
70
71
76

9


8

Xã Phổ Thạnh

13.778

10.609

3.169

77

Hiện trạng diện tích dân số, các đơn vị hành chính thuộc huyện Đức Phổ
(năm 2018)
TT
1
2
3
4

5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15

Tên đơn vị hành chính

Diện tích (km2)

Dân số đã quy đổi
(ngƣời)

6,09
10,54
22,25
16,27
15,52
9,33
11,01
29,73
19,85
56,00
48,51

54,07
14,60
18,15
40,84

8.712
9.489
9.395
5.198
8.683
5.281
8.667
22.767
5.658
13.267
14.801
9.584
11.646
11.255
6.524

Thị trấn Đức Phổ
Xã Phổ Văn
Xã Phổ Ninh
Xã Phổ Hòa
Xã Phổ Vinh
Xã Phổ Minh
Xã Phổ Quang
Xã Phổ Thạnh
Xã Phổ Châu

Xã Phổ Khánh
Xã Phổ Cường
Xã Phổ Phong
Xã Phổ Thuận
Xã Phổ An
Xã Phổ Nhơn
5. Hiện trạng phát triển kinh tế

a) Về tăng trưởng kinh tế và cơ cấu kinh tế:
Trong những năm qua huyện Đức Phổ vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình giai đoạn 2016 - 2018 khoảng 17,16 %. Tổng giá trị
sản xuất theo giá trị hiện hành của toàn huyện năm 2018 đạt 19.212 tỷ đồng (giá so sánh
năm 2010), trong đó. Cụ thể:
- Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển khá, giá trị sản xuất đạt 8.570 tỷ đồng,
chiếm 44.6%.
- Thương mại - dịch vụ phát triển mạnh, giá trị sản xuất đạt 7.780 tỷ đồng: chiếm
40,5%.
- Nông - lâm - ngư nghiệp phát triển theo chiều sâu, giá trị sản xuất đạt 2.862 tỷ
đồng, chiếm 14,9%.
Như vậy, năm 2018 tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch
vụ chiếm 85.1% tong cơ cấu kinh tế của huyện.
b)Thu, chi ngân sách, thu nhập bình quân đầu người:
- Thu ngân sách: Hàng năm công tác thu ngân sách đều đạt chỉ tiêu được giao. Trong
năm 2018 tình hình phát triển kinh tế của huyện đạt được nhiều kết quả tích cực, các chỉ
tiêu cơ bản hoàn thành và vượt kế hoạch đề ra, thu ngân sách tăng cao, đặc biệt là thu nội
địa và thu xuất nhập khẩu, Tổng thu NSNN trên địa bàn huyện năm 2018 đạt 174,597 tỷ
đồng, tổng thu ngân sách huyện năm 2018 đạt 732,702 tỷ đồng.

10



- Về chi ngân sách: Trong nhưng năm qua, tổng chi ngân sách trên địa bàn luôn được
cân đối với nguồn thu ngân sách huyện được hưởng, trong đó tỷ lệ cho đầu tư phát triển
ngày một tăng; chi thường xuyên và cho công tác sự nghiệp ổn định ở mức trung bình.
Cân đối thu chi ngân sách luôn luôn đạt dư, đảm bảo nguồn tài chính cho đô thị phát triển
ổn định, chủ động thực hiện các chương trình kế hoạch của địa phương, đặc biệt là chương
trình phát triển đô thị Đức Phổ đến năm 2020. Chi ngân sách của toàn huyện năm 2018 là
668,125 tỷ đồng.
- Cân đối thu chi ngân sách hàng năm tổng kết dư năm 2018: 64,577 tỷ.
Theo nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội của toàn huyện, mức sống của người dân đã
được cải thiện đáng kể; bình quân thu nhập đầu người tăng dần qua các năm; cụ thể, năm
2016 đạt 31,01 triệu đồng/năm, năm 2017 đạt 32,05 triệu đồng/năm, năm 2018 đạt 33,06
triệu đồng/năm. Với kết quả trên, huyện Đức Phổ có bình quân thu nhập đầu người bằng
0.57 lần trung bình với cả nước (Thu nhập bình quân đầu người năm 2018 của Việt
Nam ước tính đạt 58,5 triệu đồng).
Tình hình thu chi ngân sách và thu nhập bình quân đầu người của huyện Đức Phổ trong
giai đoạn 2016-2018 và ước tính năm 2019
TT
Chỉ tiêu
ĐVT Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Ước 2019
Tổng thu ngân sách trên
Tỷ
1 địa bàn (kể cả trợ cấp từ
732,702
769,33
681,55
780,05
đồng
tỉnh)
2


Tổng chi ngân sách trên
địa bàn

Tỷ
đồng

670,24

758,6

668,125

701,53

3

Thu nhập bình quân đầu
người

Triệu/
năm

31,01

32,05

33,06

34,6


- Trong những năm qua, kinh tế các thị trấn Đức Phổ và các xã Phổ Hòa, Phổ
Vinh, Phổ Ninh, Phổ Minh, Phổ Văn, Phổ Quang, Phổ Thạnh tăng trưởng ổn định; cơ
cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, thương mại tăng nhanh, chiếm phần lớn trong cơ
cấu kinh tế. Trong đó, ngành thương mại – dịch vụ chiếm tỷ trọng cao. Cân đối thu chi
ngân sách được bảo đảm. Tỷ lệ hộ nghèo bình quân 03 năm 2016 - 2018 của thị trấn và
07 xã đạt từ 3,34% đến 7,54% (thị trấn Đức Phổ 3,34%; xã Phổ Văn 4,10%, xã Phổ
Hòa 6,53%, xã Phổ Vinh 5,75%, xã Phổ Ninh 5,25%, xã Phổ Minh 6,07%, xã Phổ
Quang 7,54%, xã Phổ Thạnh 7,37%%); thấp hơn mức bình quân chung của
huyện(7,7%).
c) Công nghiệp, TTCN và xây dựng
Với tiềm năng và sự liên kết giữa các cụm công nghiệp trên địa bàn và hệ thống khu
dân cư, mạng lưới giao thông và cơ sở hạ tầng đang được quan tâm đầu tư xây dựng đã tạo
nên động lực phát triển công nghiệp. Đến nay trên địa bàn huyện các cụm công nghiệp đã
phê duyệt cơ bản được lấp đầy diện tích, cụ thể: Cụm công nghiệp Sa Huỳnh có diện tích
0,053 km2, đã lấp đầy 100% với 11 dự án đầu tư; Cụm công nghiệp Phổ Phong có diện

11


tích 0,1021 km2, đã lấp đầy 100% với 03 dự án đầu tư; Cụm công nghiệp Phổ Hòa có diện
tích 0,041 km2, đã lấp đầy 100% với 01 dự án đầu tư; Cụm công nghiệp Đồng Làng có
diện tích 0,20 km2, đã lấp đầy 42% với 02 dự án đầu tư; riêng khu Công nghiệp Phổ Phong
có diện tích 1,43 km2 đang được các nhà đầu tư quan tâm, khảo sát lựa chọn điểm đầu tư.
Bên cạnh đó huyện cũng đã tập trung phát triển các làng nghề, như: Làng nghề chổi đót ở
Phổ Phong, Phổ Thuận; Làng nghề chế biến thủy, hải sản ở Phổ Thạnh, Phổ Quang. Hầu
hết các Cụm công nghiệp trên địa bàn huyện hoạt động có hiệu quả, tạo việc làm mới cho
gần 900 lao động tại địa phương với mức lương bình quân 3 triệu đồng/người/tháng.


Cụm Công nghiệp Phổ Hòa (Nhà máy may Vinatex Đức Phổ)

Bản đồ quy hoạch KCN Phổ Phong

12


d) Thương mại, dịch vụ, du lịch
Trong vòng 8 năm qua, Đức Phổ đã tập trung định hướng, dành nhiều thời gian,
kinh phí đầu tư phát triển hệ thống cơ sở thương mại và dịch vụ.
Hoạt động thương mại tiếp tục phát triển cả về khối lượng và giá trị hàng hoá lưu
thông, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Đến nay, trên địa bàn có nhiều doanh nghiệp và cơ sở
sản xuất kinh doanh đang hoạt động, làm ăn có hiệu quả, các dịch vụ khác như bưu chính
viễn thông, tài chính - tín dụng cũng có nhiều chuyển biến rất tích cực đã giải quyết việc
làm cho hàng ngàn lao động tại địa phương.
Mạng lưới chợ được đầu tư mở rộng phù hợp với sự phát triển của đô thị. Toàn khu
vực thị trấn mở rộng hiện có 7 chợ và 1 siêu thị đang hoạt động đáp ứng cơ bản nhu cầu
trao đổi mua bán hàng hóa của doanh nghiệp và nhân dân. Các cơ sở nhà hàng, khách sạn
số lượng ngày càng tăng phục vụ tốt cho hoạt động phát triển sản xuất và đời sống của
nhân dân.
Tuyến vận tải hàng hóa và hành khách Bắc - Nam qua địa bàn khu vực thị trấn Đức
Phổ mở rộng đáp ứng nhu cầu đi lại thuận tiện cho người dân đến các vùng lân cận và các
trung tâm kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước. Hiện nay, trên địa bàn đã có một bến
xe diện tích 0,002 km2; Trạm dừng chân và bến xe Nam Quảng Ngãi tại xã Phổ Châu và
đang định hướng quy hoạch bến xe Đức Phổ với diện tích 0,03 km2 tại xã Phổ Ninh huyện
Đức Phổ.
Cùng với sự phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ... ngành du lịch cũng phát
triển với tốc độ nhanh nhằm khai thác các tiềm năng về du lịch của huyện. Trên địa bàn
huyện đã có quy hoạch 6 khu du lịch với quy mô lên đến 1,685 km2.


Siêu thị CO.OPmart Đức Phổ
Chợ Đức Phổ
e) Nông, lâm thủy sản
Nhìn chung, sản xuất nông, lâm, thủy sản trên địa bàn được quan tâm đầu tư phát
triển theo chiều sâu, sản phẩm sạch, đạt mức tăng trưởng khá, đã chuyển dịch theo hướng
sản xuất hàng hóa.
Hệ thống mạng lưới khuyến nông, dịch vụ sản xuất nông nghiệp, thủy sản được củng
cố, đáp ứng cho nhu cầu phát triển sản xuất. Tiến bộ kỹ thuật đã được ứng dụng tốt trong
sản xuất, nuôi trồng.

13


Sản xuất nông nghiệp, thủy sản chủ yếu tập trung ở các xã phía Đông Đức Phổ; riêng
tại khu vực nội thị đô thị Đức Phổ hiện nay giá trị sản xuất nông nghiệp có xu hướng giảm.
Sản xuất lâm nghiệp chỉ đơn thuần là trồng rừng và bảo vệ rừng, các hoạt động khai
thác chế biến lâm sản quy mô nhỏ, ít có giá trị về mặt kinh tế, mà chủ yếu có giá trị lớn về
môi trường sinh thái, trồng rừng phủ xanh đồi trọc và lũ lụt.
Lĩnh vực nuôi, trồng và đánh bắt thủy hải sản phát triển; hiện nay, diện tích đất nuôi
trồng thủy sản không ngừng tăng mang lại hiệu. Trong khu vực thị trấn mở rộng có cảng
Mỹ Á nơi cung cấp, trao đổi các mặt hàng hải sản khai thác cho huyện Đức Phổ và các
vùng lân cận.

Cảng Mỹ Á

Bè nuôi thủy sản

6. Hiện trạng phát triển cơ sở hạ tầng đô thị
a) Hiện trạng về nhà ở và công trình công cộng
Điểm nổi bật của đô thị trong thời gian gần đây là xây dựng nếp sống văn minh đô

thị, vệ sinh môi trường, cảnh quan theo hướng "xanh, sạch, đẹp". Nhiều công trình trọng
điểm đã và đang được thi công và đưa vào sử dụng góp phần tạo nên bộ mặt mới cho đô
thị trong giai đoạn phát triển và hội nhập, cụ thể: Quảng trường 8/10, nhà văn hóa huyện
và nhà thi đấu…

Quảng trường 8/10

Công viên cây xanh

14


Với hệ thống hạ tầng xã hội và mạng lưới đường đang từng bước đuợc nâng cấp, cải
tạo ngày một khang trang hơn: lát vỉa hè, trồng cây xanh đường phố, cây xanh cảnh quan,
nhà ở xây dựng kiên cố đảm bảo công năng và cảnh quan đô thị, các khu thương mại dịch
vụ buôn bán sầm uất, xứng tầm với một đô thị loại IV.
* Nhà ở
Trong thời gian gần đây, chất lượng sống đô thị ngày một cải thiện và nâng cao, một
số dự án khu nhà ở và công trình nhà dân được xây dựng mới với hình thức kiến trúc hiện
đại, phù hợp, đảm bảo công năng và tiện nghi sống góp phần làm tăng tính thẩm mỹ công
trình, bộ mặt đô thị và chất lượng cuộc sống người dân từng bước được nâng cao.
Nhìn chung, nhà ở tại đô thị và tại các khu vực lân cận xây dựng theo dạng nhà liên
kế bám sát theo các trục đường giao thông chính, dạng nhà ở có sân, vườn..., một số khu ở
mới đang xây dựng hạ tầng và cũng đã hình thành một số khu đô thị mới, khu nhà ở cho
công nhân, khu tái định cư nhằm phát triển quỹ nhà của đô thị trong tương lai. Tỷ lệ nhà ở
kiên cố, bán kiên cố, khá kiên cố ngày càng tăng cao, năm 2018 trên địa bàn khu vực nội
thị có trên 2.581,18 m2 sàn nhà ở, bình quân đạt 29,86 m2/người, nhà ở kiên cố, bán kiên
cố chiếm tỷ lệ lớn. Bên cạnh hệ thống công trình công cộng trên địa bàn như trụ sở cơ
quan, bệnh viện, trường học, khu vui chơi giải trí... đã và đang được đầu tư, nâng cấp, cải
tạo, xây dựng mới tạo sự khang trang và mỹ quan cho đô thị.

Trong năm 2018, trên địa bàn khu vực nội thị đã có 04 dự án xây dựng các khu dân
cư đã hoàn thành:
- Khu dân cư thôn Vĩnh Bình, xã Phổ Ninh;
- Khu dân cư thôn Thanh Trung, xã Phổ Thuận;
- Khu dân cư Đồng Bàu, thị trấn Đức Phổ.
- Khu dân cư Phía Tây Nhà máy nước.
Ngoài ra, hiện nay trên địa bàn khu vực nội thị còn có 04 dự án về nhà ở đang triển
khai xây dựng.
- Khu dân cư Nam Trần Hưng Đạo xã Phổ Ninh và Thị trấn Đức Phổ.
- Khu dân cư An Phú xã Phổ Thạnh.
- Khu dân cư An Phát Đạt xã Phổ Hòa và Thị trấn Đức Phổ.

Khu dân cư Bàu Sen

Khu dân cư Nam Trần Hưng Đạo

15


* Công trình công cộng:
Hiện tại, Đức Phổ đã có hệ thống công trình công cộng phục vụ 2 cấp khá hoàn
chỉnh: các công trình phục vụ toàn huyện, các công trình phục vụ cấp thị trấn, xã.
Khu trung hành chính của huyện đã được xây dựng và nâng cấp cải tạo trong khu
vực trung tâm thị trấn, cơ sở vật chất trang thiết bị làm việc tương đối đầy đủ.
Các xã, thị trấn đã có trụ sở làm việc, tuy nhiên trong những năm tới cần được đầu tư
cải tạo và nâng cấp đáp ứng nhu cầu phát triển đô thị và phục vụ nhân dân.
Hiện nay, trên địa bàn đã dự kiến đầu tư cải tạo một số công trình cơ quan hành
chính đã xuống cấp để hướng tới xây dựng đồng bộ các công trình hành chính.
Trụ sở các cơ quan hành chính


Trụ sở UBND huyện

Trụ sở Chi cục Thuế Khu vực
Đức Phổ - Ba Tơ (CN Đức Phổ)

- Y tế
Hệ thống y tế cơ bản đã được đầu tư hoàn thiện theo 2 cấp: các công trình phục vụ
toàn huyện và các công trình cấp xã. Các xã đều có trạm y tế. Ngoài ra còn có đầy đủ các
trạm y tế và các cơ sở y tế ngoài công lập, cơ sở dược... Cơ sở vật chất, trang thiết bị được
chú trọng đầu tư nâng cấp cho các tuyến cơ sở đáp ứng nhu cầu khám và điều trị của người
dân, giảm áp lực khám và điều trị vượt tuyến.
Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân đã được các cấp ủy Đảng, chính
quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo. Công tác bảo hiểm y tế được mở rộng, tích cực vận
động nhân dân tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện. Mạng lưới y tế trên địa bàn đã đáp ứng
nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.
Trên địa bàn có Bệnh viện Đa khoa Khu vực Đặng Thùy Trâm diện tích 18.329 m2,
có quy mô 260 giường, 61 bác sĩ và 133 nhân viên. Cơ sở vật chất, trang thiết bị khám
chữa bệnh tiếp tục tăng cường, riêng Bệnh viện Đa khoa Đặng Thùy Trâm mở rộng được

16


đầu tư nâng cấp trang thiết bị hiện đại, có hệ thống xử lý rác thải y tế không đốt và hệ
thống xử lý nước sạch (nguồn vốn nguồn vốn trái phiếu Chính phủ và Ngân hàng Thế
giới).
Tỷ lệ lượt khám bệnh hàng năm tăng đáng kể, 100% số trẻ em và các bà mẹ mang
thai được tổ chức tiêm phòng 6 loại vắc xin, chăm sóc sức khỏe sinh sản, diệt lăng quăng,
uống vitamin A, phòng chống dịch tiêu chảy cấp do phẩy khuẩn tả, sốt rét, dịch sốt xuất
huyết...


Bệnh viện Đa Khoa khu vực Đặng Thùy Trâm
Phòng y tế huyện với chức năng quản lý nhà nước về y tế ở cấp huyện đã quản lý và
triển khai tốt các chương trình ngăn ngừa phòng chống dịch bệnh.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn đã được chú trọng triển khai kiểm
soát đồng thời phối hợp cùng trung tâm y tế tổ chức đào tạo kiến thức về vệ sinh an toàn
thực phẩm cho các nhà hàng trên địa bàn; tổ chức thanh kiểm tra nhà thuốc và phòng
khám về niêm yết giá.
- Giáo dục và đào tạo
Năm 2018, toàn đô thị có 47 cở sở giáo dục đào tạo với 15 trường mầm non với 154
lớp, khoảng trên 4.473 cháu, 373 giáo viên; 14 trường tiểu học với 351 lớp khoảng trên
9.373 học sinh, 524 giáo viên; 12 trường trung học cơ sở với 231 lớp khoảng trên 7.638
học sinh, 499 giáo viên; 03 trường Tiểu học và Trung học cơ sở;Ngoài ra trên địa bàn
huyện có: 03 trường Trung học phổ thông, 01 Trung tâm giáo dục nghề nghiệp-giáo dục
thường xuyên, 01 Trường trung cấp kỹ thuật Quảng Ngãi và 01 Trung tâm bồi dưỡng
chính trị huyện
Hầu hết các trường trên địa bàn huyện được xây dựng với quy mô lớn đúng quy
chuẩn, có đầy đủ các phòng chức năng; hiện đã có trên 83,3% số trường đã được công
nhận đạt chuẩn Quốc gia. Quy mô giáo dục và đào tạo tiếp tục tăng ở tất cả các bậc học,
ngành học, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng lớn của nhân dân; thực hiện tốt chương

17


trình đổi mới giáo dục và tiếp tục thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng để từng
bước chuẩn hóa đội ngũ giáo viên; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
cho việc dạy học và học theo chương trình đổi mới giáo dục phổthông, tổ chức dạy và học
2 buổi/ngày tại tất cả các trường.Chất lượng dạy và học ở các cấp tiếp tục được giữ ổn
định và phát triển bền vững. Tỷ lệ học sinh giỏi, giáo viên giỏi, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp
tiểu học, THCS hàng năm bằng hoặc cao hơn so với mặt bằng chung của tỉnh. Tình trạng
thiếu giáo viên ở các cấp học cơ bản được khắc phục, chất lượng giáo viên được chuẩn

hóa.Tỷ lệ huy động trẻ ra lớp hàng năm ở bậc tiểu học, THCS đều đạt từ 99% đến 100%.
Thành
quả công tác phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cậpTHCS tiếp tục được giữ
vững. Công tác phổ cập giáo dục bậc trung học cơ sở được tiến hành có chất lượng, đến
nay đã có 15 đơn vị xã, thị trấn hoàn thành công tác phổ cấp giáo dục bậc trung học.
Việc thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục đã đạt được những kết quả đáng kể.
Trong thời gian qua, chất lượng giáo dục đào tạo ngày càng được nâng cao, đội ngũ giáo
viên và cơ sở vật chất trang thiết bị giáo dục của các trường ngày càng được chú trọng đầu
tư, nâng cấp đã đáp ứng nhu cầu dạy và học. Toàn huyện có 15/15 trường mầm non thực
hiện chương trình giáo dục mầm non mới. Tỷ lệ học sinh giỏi cấp tiểu học và trung học cơ
sở đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp huyện và tỉnh, quốc gia tăng khá so với năm
học trước. Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện đã phân bổ trên 8 tỷ đồng cho các trường để
xây dựng phòng học, sửa chữa, mua sắm trang thiết bị dạy học. Toàn huyện hiện có 45/47
trường đạt chuẩn quốc gia…tỷ lệ trẻ em 5 tuổi ra lớp hàng năm đạt 100%; tiểu học và
THCS đạt 100%. Tỷ lệ hoàn thành chương trình cấp tiểu học đạt 99,7%; 99,3% học sinh
THCS đạt tốt nghiệp. Trong năm học 2017 - 2018, toàn huyện có 60 học sinh đạt học sinh
giỏi cấp tỉnh. Huyện luôn giữ vững danh hiệu đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và phổ
cập giáo dục THCS. Công tác phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi cơ bản hoàn thành theo quy
định. Đây là những tiền đề đảm bảo yêu cầu phát triển giáo dục trong tương lai.

Công tác văn hóa, thông tin trên địa bàn đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc
động viên toàn dân tham gia vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Các cơ quan và
phương tiện thông tin đại chúng đã tích cực tuyên truyền đường lối đổi mới của Đảng,
động viên và cổ vũ các nhân tố tích cực, đấu tranh chống các mặt tiêu cực và các tệ nạn xã
hội, khơi dậy và phát huy truyền thống nhân ái, giúp đỡ lẫn nhau; tổ chức nhiều chương

18


trình hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa nghệ

thuật cho mọi tầng lớp nhân dân. Nhiều cơ chế quản lý văn hóa, thông tin đã được đổi mới
theo hướng xã hội hóa, huy động được thêm nhiều nguồn lực cho các hoạt động này.
Hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục thể thao được củng cố và phát triển. Trên địa
bàn có các câu lạc bộ, đội nhóm được thành lập và tổ chức hoạt động thường xuyên, quy
tụ nhiều quần chúng có ngành nghề và độ tuổi khác nhau tham gia sinh hoạt. Bên cạnh sự
lớn mạnh về số lượng, hoạt động văn hóa văn nghệ trên địa bàn còn cho thấy sự phong
phú hơn về thể loại, đa dạng hơn, hấp dẫn hơn về hình thức, sâu sắc và chất lượng hơn về
nội dung.Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” tiếp tục
phát triển, chủ trương xã hội hóa các hoạt động thể dục thể thao được thực hiện rộng rãi và
mang lại hiệu quả, tổ chức các hoạt động thể dục thể thao.
Đời sống văn hoá của người dân hiện nay đang dần được nâng cao. Phong trào văn
nghệ quần chúng phát triển mạnh. Về công tác thông tin, Đài phát thanh với kỹ thuật tiên
tiến và hệ thống phát thanh được lắp đặt tại các khối phố, kịp thời tuyên truyền đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến cán bộ và quần chúng nhân dân, phục
vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương...
- Khoa học - kỹ thuật
Tại các trường đào tạo, hướng nghiệp, bệnh viện, trung tâm y tế và các cơ quan, cơ
sở công nghiệp trên địa bàn huyện đã thường xuyên áp dụng tiến bộ về khoa học kỹ thuật,
coi đây là trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn của đơn vị.
Những năm gần đây, huyện đã có nhiều đề tài, sáng kiến thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, giáo dục, y tế được ứng dụng ngay tại cơ sở và đạt được những thành quả nhất định.
Chương trình ứng dụng công nghệ thông tin phát triển nhanh; phần lớn các cơ quan, doanh
nghiệp đã ứng dụng công nghệ tin học trong quản lý và sản xuất.
Công nghệ thông tin trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước được thực hiện như là
công tác nghiệp vụ thường ngày với kết quả tốt, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ hỗ trợ
họp giao ban trực tuyến giữa cơ quan cấp Tỉnh và huyện.
b) Hiện trạng về công trình hạ tầng kỹ thuật
*Về giao thông
- Giao thông đối ngoại
+ Hàng không

Hiện tại trong phạm vi huyện không có sân bay, tuy nhiên có 2 sân bay trong vùng
phụ cận có thể phục vụ thuận lợi cho việc phát triển đô thị là sân bay Chu Lai (Quảng
Nam,) sân bay Phù Cát (Bình Định).
+ Đường sắt
Trên địa bàn huyện Đức Phổ, ngoài 02 ga đường sắt ở ngoài khu vực mở rộng, trên
địa bàn thị trấn có Ga Đức Phổ ở Tây Bắc thị trấn, chiều dài ga 520m và Ga Sa Huỳnh,
Phổ Thạnh vận tải hàng hóa và hàng khách.
+ Đường bộ
Quốc lộ 1 đoạn đi qua gồm: tuyến đường QL1 mới (tuyến đường tránh đoạn qua
trung tâm thị trấn Đức Phổ) và Quốc lộ 1 đoạn cũ (đoạn qua trung tâm thị trấn).
+ Đường thủy
Huyện Đức Phổ có cảng Mỹ Á là cảng tổng hợp.

19


Các tuyến đường trục chính trên địa bàn đã được quan tâm đầu tư xây dựng như:
đường Quốc lộ 1 - Mỹ Á (Đường Trần Hưng Đạo), đường Trung tâm nội thị nối dài
(đường Phạm Văn Đồng), đường Quốc lộ 1 - Phổ Vinh (đường Hừng Vương)... nhằm cải
tạo mạng lưới đường đô thị, đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân. Các tuyến giao thông
chính có mặt cắt từ 11,5- 41m.

Tuyến đường sắt Bắc Nam
Đường Quốc lộ 1A
Tổng chiều dài mạng lưới đường giao thông chính đạt 81km, kết cấu mặt đường
nhựa và cấp phối đảm bảo chất lượng, an toàn giao thông. Diện tích đất giao thông chính
đô thị 148,76 ha; mật độ đường chính là 8,27 km/km2.
- Giao thông đô thị
Các tuyến đường trục chính trên địa bàn đã được quan tâm đầu tư xây dựng như:
đường Quốc lộ 1 - Mỹ Á (giai đoạn 2), đường Trung tâm nội thị nối dài, đường Quốc lộ 1

- Phổ Vinh (giai đoạn 1)... nhằm cải tạo mạng lưới đường đô thị, đáp ứng nhu cầu đi lại
của người dân. Các tuyến giao thông chính có mặt cắt từ 11,5- 41m.
Tổng chiều dài mạng lưới đường giao thông chính đạt 81km, kết cấu mặt đường
nhựa và cấp phối đảm bảo chất lượng, an toàn giao thông. Diện tích đất giao thông chính
đô thị 1,49 km2; mật độ đường chính là 8,27 km/km2.
- Vận tải
Để phục vụ cho nhu cầu vận tải hành khách, trên địa bàn huyện có bến xe có quy mô
diện tích 0,002 km2.
Vận tải hành khách công cộng ngoài các tuyến xe khách liên Tỉnh còn có các hãng
taxi, xe buýt. Tỷ lệ vận tải hành khách công cộng ngày càng cao.
* Cấp nước
Hiện nay, một bộ phận dân cư trong huyện Đức Phổ dùng nước giếng khơi và giếng
khoan, các hộ dân của thị trấn Đức Phổ và dân cư ở các xã lân cận như Phổ Hòa, Phổ
Ninh, Phổ Thạnh, Phổ Quang, Phổ Vinh, Phổ An được dùng nước máy do nhà máy nước
Đức Phổ và trạm cấp nước sạch ở các xã cung cấp.
- Nguồn nước ngầm có trữ lượng không lớn, chất lượng nguồn nước chưa được đánh
giá. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế nước trong không mùi hầu hết dân cư trong huyện

20


Đức Phổ đều dùng nước giếng đào và giếng khoan với đường kính nhỏ và một số trạm xử
lý do Nhà nước đầu tư để phục vụ cho sinh hoạt hằng ngày. Hiện tại, có một số khu vực
phía Đông một số nơi nguồn nước bị nhiễm mặn.
- Trạm xử lý và mạng lưới: nhà máy nước Đức Phổ lấy từ nguồn nước mặt hồ chứa
gần kênh Liệt Sơn và 3 trạm bơm nước ngầm. Công suất 2.000 m3/ngày đêm, cung cấp
nước cho thị trấn Đức Phổ hiện trạng và 02 xã lân cận: Phổ Hòa, Phổ Ninh.
Ngoài ra, trong khu vực dự kiến thành lập thị xã Đức Phổ còn có 09 trạm cung cấp
nước sạch phục vụ cho 7 xã, trong đó: Phổ An: 1 trạm, Phổ Thuận: 1 trạm, Phổ Quang: 2
trạm, Phổ Vinh: 1 trạm, Phổ Khánh: 1 trạm, Phổ Thạnh: 2 trạm, Phổ Châu: 1 trạm với tổng

công suất khoảng 9.408 m3/ngày đêm.
- Mạng lưới đường ống: Tuyến đường ống truyền dẫn nước có đường kính D200 từ
nhà máy ra cấp cho thị trấn Đức Phổ và các khu dân cư ở các xã Phổ Hòa, Phổ Ninh. Các
tuyến đường ống nhánh có đường kính từ D60 – D160 được thiết kế mạng lưới vòng và
mạng tia. Hiện có 9 trụ cứu hỏa đặt dọc Quốc lộ 1, trục đường nội bộ số 9 và số 6 phục vụ
công tác chữa cháy cho khu vực trung tâm thị trấn. Các trạm xử lý mạng lưới đường ống
D160 – D50 truyền dẫn và phân phối đến các hộ gia đình.
* Thoát nước và vệ sinh môi trường
-Thoát nước thải
Hiện trạng thoát nước thải: Đặc điểm vệ sinh môi trường của huyện Đức Phổ là các
loại xí tự hoại, kiểu tự thấm và xí hai ngăn. Nước thải của bệnh viện Đặng Thùy Trâm và
trạm xá Đặng Thùy Trâm được xử lý cục bộ bằng bể tự hoại rồi xả trực tiếp ra môi trường.
Các loại nước thải khác, trong đó có nước thải từ các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, chế biến
thức ăn gia súc...đã xử lý cục bộ trước khi xả ra môi trường xung quanh.
- Thu gom chất thải rắn
Lượng rác thải trên địa bàn 28,54tấn/ngày. Tuy nhiên chỉ có một bãi xử lý rác thải ở
xã Phổ Thạnh hoạt động với qui mô khoảng 2,13ha, công suất thu gom chỉ khoảng
20tấn/ngày. Do đó lượng rác thải còn tồn lưu trong môi trường là tương đối lớn.
Việc thu gom chất thải rắn trên địa bàn do công ty Thương mại và công nghệ môi
trường MD đảm nhiệm, đội vệ sinh môi trường của huyện tiến hành thu gom rác thải từ
những hộ dân và các thùng rác theo chu kỳ nhất định (2 ngày 1 lần) bằng 11 xe cơ giới,
sau đó tập trung tại bãi chôn lấp chất thải rắn ở: Bãi xử lý chất thải rắn xã Phổ Thạnh, bãi
xử lý chất thải rắn ở xã Phổ Nhơn diện tích 0,1008 km2. Hầu hết lượng rác thải phát sinh
được thu gom đều đem 2 bãi rác tập trung này. Trong các hẻm, các hộ dân tự chôn lấp
hoặc tự thiêu hủy. Riêng khu vực xã Phổ An đã có đội thu gom rác thải rộng 300 m2.
Tháng 1/2018, nhà xử lý chất thải sinh hoạt Đức Phổ tại xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ
được đầu tư xây dựng từ nguồn vốn của tư nhân, công suất 50-70 tấn/ngày, công nghệ lò
đốt, sinh học đã đi vào hoạt động. Hiện tai, cơ sở vật chất, phương tiện thu gom đạt trên
80,05%, nhưng đang tăng lên. Bệnh viện đa khoa Khu vực Đặng Thùy Trâm, rác thải đã
được xử lý bằng công nghệ đốt rất hiện đại, hợp vệ sinh được đầu tư từ nguốn vốn tài trợ

của WB năm 2015
- Hiện trạng nghĩa trang
Các nghĩa trang (chủ yếu là nghĩa trang nhân dân) được hình thành trên cơ sở tổ chức
các điểm dân cư nông thôn (làng, xóm) với quy mô nhỏ nằm rải rác, diện tích mỗi nghĩa

21


trang khoảng 0,005-0,01 km2. Huyện đang lập kế hoạch xây dựng nhà tang lễ và sẽ hoàn
thành trong thời gian tới.
* Về cấp điện
Nguồn điện sử dụng cho sinh hoạt, sản xuất của nhân dân trong toàn huyện được lấy
từ lưới điện Quốc gia 110kV qua 2 trạm biến áp trung gian Mộ Đức T2-110/35/22KVE16.2, tổng công suất 25MVA, đặt tại Thạch Trụ và trạm 110/35/22KV- E16.4 Đức Phổ
đặt tại thôn Diên Trường xã Phổ Khánh.
Nguồn điện cung cấp cho đô thị đảm bảo, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và
sinh hoạt của người dân 100% dân số được sử dụng lưới điện Quốc gia. Hệ thống điện
chiếu sáng đã được quan tâm và đầu tư trong những năm qua. Tỷ lệ đường phố chính được
chiếu sáng 95%, tỷ lệ ngõ hẻm được chiếu sáng đạt trên 70%. Hệ thống đèn trang trí tại
các giao lộ chính và các khu công viên trong đô thị đã và đang được triển khai, góp phần
tạo cảnh quan chung cho đô thị.
* Về công viên, cây xanh và không gian công cộng
Trên địa bàn khu vực nội thị có các khu cây xanh lớn như: Quảng trường 8 tháng 10,
công viên 23/3, cây xanh ven biển, khu làng xóm. Mảng cây xanh trục đường giao thông
đô thị, vườn hoa đang được quan tâm tập trung đầu tư cùng với việc nâng cấp và chỉnh
trang đô thị. Diện tích đất cây xanh mặt nước quy đổi (15% diện tích mặt nước). Tổng diện
tích cây xanh toàn đô thị là 0,85 km2.
* Về thông tin liên lạc
Hệ thống bưu chính viễn thông trên địa bàn được trang bị hiện đại, công nghệ cao và
chất lượng tương đối đồng bộ, nối mạng hoàn chỉnh đến tất cả các đơn vị. Mạng bưu chính
hiện nay đã được phát triển rộng khắp trong toàn tỉnh đáp ứng các dịch vụ bưu chính cơ

bản. Các dịch vụ viễn thông và mạng thông tin di động áp dụng phương thức truyền dẫn
bằng cáp quang và vi ba nhằm cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Tổng dung
lượng tăng rất nhanh, tổng số thuê bao điện thoại di động, điện thoại cố định, internet,
ADSL...hiện nay đạt trên 32 thuê bao/100 dân.
* Các công trình di tích lịch sử, văn hóa, di chỉ khảo cổ, các công trình được công
nhận và xếp hạng
Đức Phổ là huyện có nhiều di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng, Đặc biệt trên địa
bàn còn có di chỉ khảo cổ của nền Văn hóa Sa Huỳnh rất nổi tiếng.Trên địa bàn huyện có
27 di tích lịch sử, văn hóa được Nhà nước công nhận và xếp hạng từ năm 1993 đến nay.Di
tích cấp Quốc gia xếp hạng có 4 di tích; di tích cấp tỉnh xếp hạng có 23 di tích.
+ Di tích huyện đường Đức Phổ
Di tích huyện đường Đức Phổ tại thị trấn Đức Phổ là nơi diễn ra cuộc biểu tình ngày
8/10/1930 của hơn 50.000 quần chúng nhân dân chiếm phá huyện đường, ủng hộ phong
trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn
Nghiêm - Bí thư Tỉnh ủy và các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy Quảng Ngãi, huyện ủy, các chi
bộ Đảng, ban chỉ huy đấu tranh và Nông hội đỏ.
Huyện đường Đức Phổ năm xưa nay được sử dụng làm nơi làm việc của UBND
huyện Đức Phổ, nằm trung tâm huyện lỵ, thuộc thị trấn Đức Phổ. Huyện đường Đức Phổ
xưa có diện tích 5.576m2, dài 90m, rộng 62m, mặt quay về hướng Tây (đường quốc lộ 1),

22


bao bọc xung quanh Huyện đường là một bờ tường gạch thấp, chính giữa là cổng ra vào,
phía tay trái cổng có bốt gác nhỏ để kiểm tra, kiểm soát người ra vào, hai bên cổng là hai
cây nhãn, giữa sân có một trụ cờ.

Phù điêu cuộc biểu tình chiếm

Nhà lưu niệm đồng chí Nguyễn Nghiêm


huyện đường Đức Phổ năm 1930
Trụ sở huyện đường nhà xây bằng gạch theo kiểu nhà xưa có 3 gian 2 chái với diện tích
60m2, dài 10m, rộng 6m, có bốn cửa ra vào, phía trước hai cửa hai hồi, hai bên hai cửa; 4
mái lợp ngói âm dương. Phía bên sân phải huyện đường có một miếu nhỏ gọi là miếu âm
hồn để các quan thắp hương cúng lễ. Bên trái sân có một căn nhà 3 gian làm trại giam tù
nhân và trại lính để bảo vệ huyện đường, quản lý tù nhân. Nhà của vợ chồng tri huyện
cũng được xây dựng làm 3 gian, lợp ngói âm dương nằm phía bên trái sân, phía sau là nhà
bếp và giếng nước. Đến khoảng năm 1960, huyện đường Đức Phổ được sử dụng làm trung
tâm trụ sở chính của huyện và được xây dựng lại hoàn toàn trên nền nhà cũ với ngôi nhà
lớn 7 gian, dài 30m, rộng 16m, nhà gỗ lợp ngói, kiến trúc 1 tầng. Xung quanh trụ sở được
xây dựng 9 ngôi nhà cấp 4 làm nhà làm việc cho các phòng ban. Năm 1985 ngôi nhà trụ sở
chính của huyện được nâng lên thành nhà 2 tầng. Cùng đó, một bức phù điêu cờ đỏ búa
liềm phía trước mặt tiền ngôi nhà được xây dựng. Bức phù điêu cao 10m, chân đế vuông,
tái hiện lại hình ảnh cuộc biểu tình đánh chiếm huyện lỵ năm 1930 của nhân dân Đức Phổ,
dưới chân là tấm bia đá tóm tắt nội dung lịch sử cuộc đấu tranh ngày 8/10/1930 tại di tích
huyện đường Đức Phổ. Di tích huyện đường Đức Phổ đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa Quốc gia.
+Di tích mộ và nhà thờ Huỳnh Công Thiệu
Di tích mộ và nhà thờ Huỳnh Công Thiệu là di tích lịch sử lưu niệm danh nhân,
nhân dân địa phương thường gọi là Lăng và đền thờ Đề lãnh Huỳnh Quới Công tiền hiền.
Đây là nơi thờ Đề lãnh Võ Công Hầu - vị võ quan có công lớn trong việc mở mang vùng
đất phía Nam Quảng Ngãi.
Di tích Mộ và nhà thờ Huỳnh Công Thiệu bao gồm 3 địa điểm. Mộ Huỳnh Công
Thiệu tọa lạc tại thôn An Thường, xã Phổ Hòa huyện Đức Phổ. Nhà thờ Huỳnh Công

23


Thiệu gồm có 2 nhà thờ: nhà thờ Phổ Ninh tại thôn An Trường, xã Phổ Ninh và nhà thờ
Phổ Minh thuộc thôn Tân Tự, xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ.

Nằm dưới tán cây trâm cổ thụ, mộ Huỳnh Công Thiệu tọa lạc tại xứ Gò Cày, thôn
An Thường, xã Phổ Hòa, huyện Đức Phổ. Mộ được xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII.
Nhà thờ Huỳnh Công Thiệu tại thôn An Trường, xã Phổ Ninh được xây dựng vào
cuối thế kỷ XVIII. Niên hiệu dựng bia năm là 1876 Hoàng Triều Tự Đức thứ 28 và công
đức mở đất lập các làng xã xứ Lộ Bôi xưa của Huỳnh Công Thiệu. Năm 1995, trên nền đất
củ, con cháu họ Huỳnh xây dựng lại nhà thờ mô phỏng theo lối kiến trúc nhà thờ trước
đây.
Năm 1907, khi ấp Tân Tự tách ra khỏi xã Phổ Ninh, con cháu họ Huỳnh cùng đóng
góp xây dựng nhà thờ Huỳnh Công Thiệu ở thôn Tân Tự, xã Phổ Minh, huyện Đức Phổ,
do chiến tranh, nhà thờ và các đồ thờ tự bị cháy được xây dựng lại trên nền đất cũ nhưng
quy mô nhỏ hơn. Đến năm 1994, con cháu họ Huỳnh cùng nhân dân địa phương xây dựng
lại nhà thờ khang trang hơn, cũng mô phỏng theo kiến trúc nhà thờ trước đây. Hiện nay,
nhà thờ còn lưu giữ các hiện vật đồ thờ trước đây gồm: 2 thẻ bài, sắc phong, 2 cây đao, 1
cây hèo chiêng, trống, ba bộ lư bằng đồng.
Hàng năm, đến này 16 tháng 6 âm lịch, tại hai nhà thờ, con cháu họ Huỳnh và nhân
dân địa phương đều tổ chức ngày giỗ Đức ông Huỳnh Công Thiệu.
Mộ và Đền thờ Huỳnh Công Thiệu được Bộ Văn hóa Thể thao và du lịch xếp hạng
di tích Quốc gia năm 2012.

Đền thờ Tiền Hiền Huỳnh Công Thiệu
+ Di tích Trường Lũy
Theo các bộ chính sử của Triều Nguyễn do Quốc sử quán biên soạn và những trang
sử liệu khác, vào khoảng giữa thế kỷ XVI, một vài đồn (bảo) ở miền Tây Quảng Ngãi
được Trấn quận công Bùi Tá Hán, vị quan trấn thủ vùng đất Quảng Nam xưa (bao gồm
phần đất Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên hiện nay) cho xây dựng
để nhằm kiểm soát giao thương và bình định vùng miền núi phía Tây của tỉnh Quảng
Ngãi. Đến năm 1750, khi được cử làm Tuần vũ Quảng Ngãi, Đại Am Nguyễn Cư Trinh người đã để lại cho vùng đất núi Ấn - sông Trà 10 bài thơ vịnh cảnh đẹp Quảng Ngãi, mà

24



×