1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỷ lệ hiện mắc thiếu máu do thiếu sắt trên toàn thế giới đang ở mức
đáng báo động có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Thiếu máu thiếu sắt (TMTS)
là thiếu hụt dinh dưỡng phổ biến nhất trên thế giới hiện nay, tác động đến
một phần tư dân số trên thế giới và tập trung chủ yếu ở trẻ dưới 5 tuổi và
phụ nữ có thai [1], [2]. Việt Nam (2015), do có nhiều chính sách hỗ trợ của
chương trình phòng chống TMTS nên tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em đã giảm
xuống đáng kể so với các nước trong khu vực, tuy nhiên tỷ lệ thiếu máu do
thiếu sắt ở trẻ em <5 tuổi vẫn cao (50,3%) (Điều tra quốc gia về Vi chất dinh
dưỡng năm 2015 - Viện Dinh dưỡng).
Thiếu sắt là nguyên nhân phổ biến gây thiếu máu. TMTS xảy rakhi
lượng sắt hấp thu không đủ để đáp ứng nhu cầu cơ thể. Sự thiếu hụt này có
thể là do lượng chất sắt không đủ trong khẩu phần ăn hay giảm sinh khả dụng
của sắt trong chế độ ăn, nhu cầu sắt tăng hoặc bị mất đi (mất máu mãn tính).
TMTS không thể chỉ đánh giá đơn thuần về mức độ phổ biến mà đáng kể hơn là
nguy hại của hậu quả thiếu sắt gây ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng, phát triển
tâm lý, nhận thức, hành vi, khả năng lao động,cũng như hệ miễn dịch[3], [4].
Trẻ em dưới 5 tuổi là đối tượng có nguy cơ cao nhất TMTS. Việc điều
trị thiếu máu do thiếu sắt đơn thuần chỉ yêu cầu sử dụng sắt dược liệu, tuy
nhiên, có rất nhiều lý do mà cho đến nay hàng triệu bệnh nhân không được
điều trị đầy đủ, tỷ lệ tái phát TMTS cao. Khi thiếu hụt sắt kéo dài dẫn đến
thiếu máu, do vậy TMTStiến triển thầm lặng, nhưng ảnh hưởng lớn đến sức
khỏe của trẻ đặc biệt là phát triển của não bộ và hệ miễn dịch, vì
vậyTMTScần phải được phát hiện sớm, kiểm soát tốt đặc biệt là phòng ngừa
TMTS.
2
Điều tra khẩu phần ăn để phát hiện sớm chế độ ăn có lượng sắt thấp đặc
biệt với trẻ dưới 5 tuổi nhằm có can thiệp kịp thời tránh hậu quả gây ra bởi
TMTS là yêu cầu trong bối cảnh hiện nay tại Việt Nam khi chủ trương phòng
bệnh là mục tiêu cơ bản của vấn đề chăm sóc sức khỏe. Do vậy, chúng tôi tiến
hành đề tài “Thực trạng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em dưới 5 tuổi tại phòng
khám dinh dưỡng, Bệnh Viện Nhi Trung Ương” với 2 mục tiêu:
1.
Mô tả thực trạng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ em dưới 5 tuổi tại phòng
khám dinh dưỡng Bệnh Viện Nhi Trung Ương.
2.
Mô tả khẩu phần ăn thực tế của trẻ dưới 5 tuổi bị thiếu máu thiếu sắt tại
phòng khám dinh dưỡng Bệnh Viện Nhi Trung Ương
Hy vọng với kết quả thu được từ đề tài có thể cung cấp số liệu về thực
trạng thiếu máu và thiếu hụt sắt trong khẩu phần ăn thông thường của trẻ để từ
đó làm cơ sở đề xuất giải pháp hữu hiệu cho việc kiểm soát TMTS ở trẻ em.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1.Đại cương về thiếu máu
1.1.1. Định nghĩa thiếu máu
WHO định nghĩa thiếu máu là một hội chứng bệnh lý do nhiều nguyên
nhân làm giảm nồng độ hemoglobin (Hb) lưu hành trong máu dưới mức bình
thường so với người khỏe mạnh cùng tuổi và giới và cùng trong môi trường
sống, dẫn đến máu không cung cấp đủ oxy cho tế bào [5], [6].
Mặc dù việc định lượng Hb là một trong những xét nghiệm lâu đời nhất và
cũng là một trong những định lượng có độ chính xác cao hiện nay, nhưng
lượng Hb chưa phản ánh thực sự tình trạng thiếu máu của cơ thể vì Hb bỏ sót
rất nhiều trường hợp thiếu máu nhẹ và sớm nhất là các trường hợp do thiếu
máu dinh dưỡng, ngoài ra những cơ chế sinh lý kiểm soát Hb ở máu ngoại vi
cũng chỉ được hiểu phần nào, những thay đổi về lối sống, thể chất, địa dư
(vùng núi cao) cũng ảnh hưởng đến Hb tuy nhiên cơ chế này chưa được hiểu
biết hết[7].
Do nồng độ Hb thay đổi theo độ tuổi và độ chuẩn, giá trị tham chiếu khác
nhau tại mỗi labo. Do đó Hb bắt buộc phải so sánh với cùng độ tuổi. WHO đã
sử dụng các ngưỡng hemoglobin dưới đây để xác định thiếu máu [5], [6].
- 1 đến < 3 tháng : 10,5g/l
- Trẻ từ 3 đến < 6 tháng: 9,5g/dl
- Trẻ từ 6 tháng đến <5 tuổi: 11g/ dL
- Trẻ em từ 5 đến 12 tuổi: 11,5 g / dL
- Trẻ em từ 12 đến <15 tuổi: 12 g / dL
- Phụ nữ không mang thai: 12 g / dL
- Phụ nữ mang thai: 11 g / dL
- Đàn ông ≥15 tuổi: 13 g / d
4
1.1.2. Phân loại thiếu máu
Nguyên liệu để tạo ra hồng cầu chủ yếu là protein và sắt nguyên tố. Để
tạo hồng cầu cần đến các chất phụ trợ với những liều lượng thích hợp như B 12,
acid folic. Ngoài ra sự tạo hồng cầu cũng cần đến B6, B2, C, E và các yếu tố vi
lượng như Cu, Mn, Co, Kẽm…. Như vậy, thiếu các yếu tố trên trực tiếp hoặc
gián tiếp sẽ gây ra thiếu máu. Về mặt huyết học, phân loại các tình trạng thiếu
máu thường căn cứ vào nồng độ Hb trong hồng cầu để xác định ưu sắc, đẳng
sắc hay nhược sắc hoặc căn cứ vào thể tích của hồng cầu để xác định loại
hồng cầu to, nhỏ hay trung bình. Có nhiều cách phân loại thiếu máu nhưng
thường phân loại theo hình thái, mức độ, sinh lý và nguyên nhân sinh lý bệnh
của thiếu máu.
Hình thái:phân loại dựa trên kích thước của hồng cầu và được đo bằng
thể tích trung bình hồng cầu (MCV)[6].
Thiếu máu hồng cầu nhỏ: MCV <80fl
Thiếu máu hồng cầu trung bình: MCV 80 →100 fL
Thiếu máu hồng cầu to: MCV> 100 fL
Nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCHC)[6]
- Giá trị MCHC bình thường: 320-380g/l
- Hồng cầu nhược sắc khi MCHC <320 g/l
- Hồng cầu ưu sắc khi MCHC >380g/l
Mức độ thiếu máu
Mức độ thiếu máu được chia theo mức giảm Hb vì nó quyết định các biểu
hiện lâm sàng. Hb > 100g/l, các triệu chứng chỉ xuất hiện khi nhu cầu oxy của
cơ thể tăng (VD: sốt, gắng sức…). Hb trong khoảng 80 →100 g/l, các triệu
5
chứng xuất hiện lúc nghỉ ngơi đặc biệt ở người già và trẻ nhỏ nhưng mức độ nhẹ.
Hb <80g/l thì các triệu chứng xuất hiện lúc nghỉ và rõ ràng hơn. Do vậy, người ta
chia thiếu máu thành các mức độ nhẹ, vừa và nặng dựa vào Hb [5], [6].
Thiếu máu nhược sắc
Thiếu máu nhược sắc là thiếu máu với đặc điểm hồng cầu nhỏ, huyết
cầu tố giảm nhiều hơn số lượng hồng cầu, nguyên nhân thường gặp là do
TMTS.
Nồng độ hemoglobin hồng cầu (MCHC) < 320g/l
MCHC (g/l) = Hb (g/l)/Het(l/l)
Hemoglobin trung bình hồng cầu (MCH) < 27 pg
MCH (pg) = Hb (g/l)/ SLHC (T/L)
Thể tích trung bình hồng cầu (MCV) < 80 fl
MCV (fl)= Het (l/l)/ SLHC (T/L)
Thiếu máu đẳng sắc
Là thiếu máu khi huyết cầu tố giảm tương ứng với số lượng hồng cầu
- Nồng độ hemoglobin hồng cầu (MCHC): 320-380g/l
- Hemoglobin trung bình hồng cầu (MCH): 27-32 pg
Thiếu máu ưu sắc
- Nồng độ hemoglobin hồng cầu (MCHC)>380 g/l
- Hemoglobin trung bình hồng cầu (MCH)>32 pg
1.1.3. Hậu quả của thiếu máu
Trong cơ thể bình thường, việc cung cấp oxy đến tổ chức phụ thuộc vào
lượng Hb, độ bão hòa oxy trong máu động mạch và cung lượng tim. Khi thiếu
6
hụt Hb sẽ làm giảm cung cấp oxy đến tổ chức, khi đó cơ thể bù trù bằng cách
tăng hoạt động hô hấp và tuần hoàn. Trên lâm sàng có thể nhận thấy các triệu
chứng tùy theo mức độ thiếu máu như: da xanh, niêm mạc nhợt, mạch nhanh,
đau ngực, thổi tâm thu …Việc giảm oxy đến tổ chức làm giảm chuyển hóa
hiếu khí thay vào đó là chuyển hóa yếm khí gây toan hóa trong cơ thể. Tuy
nhiên, sự thích nghi với tình trạng Hb thấp còn tùy thuộc vào từng cá thể. Trẻ
em, là giai đoạn cơ thể tăng trưởng và phát triển nên thiếu máu ảnh hưởng rất
nhiều đến sự phát triển thể chất và tâm thần. Ở một số nhỏ trẻ thiếu máu nặng
(Hb trong khoảng 24 → 37g/l), thấy có tổn thương não thầm lặng và được
phát hiện trên MRI [8]. Thiếu máu còn ảnh hưởng tới hành vi, khả năng nhận
thức cũng như hoạt động của hệ thần kinh. Hậu quả lâu dài của những tổn
thương về chức năng thần kinh của trẻ khó được hồi phục sau này mặc dù sau
này tình trạng thiếu máu được giải quyết [9].
1.2. Thiếu máu dinh dưỡng do thiếu sắt
Thiếu máu là vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng đối với tất cả các
nước trên thế giới gồm cả nước phát triển và đang phát triển. Khoảng 50%
trường hợp thiếu máu gây ra bởi thiếu sắt. Theo WHO, thiếu máu dinh
dưỡng là một tình trạng xảy ra khi nồng độ hemoglobin trong máu giảm
xuống dưới mức bình thường do thiếu một hoặc nhiều dưỡng chất cần thiết
cho quá trình tạo máu, bất kể nguyên nhân của chúng là gì. Như vậy, thiếu
máu xảy ra khi cơ thể không có đủ tế bào hồng cầu khỏe mạnh hoặc Hb
trong đó. Hb là một protein có chứa sắt trong các tế bào hồng cầu có vai trò
trong vận chuyển oxy cho cơ thể. Khi thiếu hụt hồng cầu hoặc Hb sẽ gây ra
thiếu oxy trong các cơ quan và tế bào. Các triệu chứng mệt mỏi, chóng mặt,
chuột rút v... v là hậu quả của thiếu oxy tổ chức.
Để sản xuất Hb và hồng cầu, cơ thể cần sắt, vitamin B 12, acid folic và
các chất dinh dưỡng khác từ nguồn thực phẩm ăn vào. Bình thường đời sống
7
hồng cầu 120 ngày. Khi sản xuất hồng cầu suy giảm hoặc các hồng cầu bị phá
hủy nhanh hơn lượng hồng cầu sản xuất ra để thay thế, thiếu máu xuất hiện.
TMTS là thiếu máu dinh dưỡng thường gặp nhất.
1.2.1. Vai trò của sắt trong cấu trúc và chức năng của hồng cầu.
Sắt chứa trong thực phẩm là sắt hem và sắt không hem. Sắt hem chỉ có
trong thức ăn có nguồn gốcđộng vật, sắt không hem có trong thực phẩm
nguồn gốc động vật và thực vật. Những hợp chất chứa hem (hemoglobin,
myoglobin) được chuyển nguyên vẹn đến tế bào ruột, vì hem được bảo vệ nhờ
vòng tetrapirronie. Sắt được phóng thích ở đây và đi thẳng vào trong tế bào
ruột, sau đó sắt đi qua thanh mạc vào máu. Khoảng 20-30% sắt hem được hấp
thu không phụ thuộc vào cân bằng sắt cũng như không bị ảnh hưởng bởi các
thành phần khác trong thức ăn. Sự hấp thu sắt không hem lại phụ thuộc vào
cân bằng sắt của từng người và bị ảnh hưởng bởi các chất ức chế như:
phytate, tanin…
Thiếu máu là giai đoạn cuối của thiếu sắt tương đối kéo dài với nhiều
ảnh hưởng bất lợi đối với sức khỏe. Một số người thiếu sắt nhưng chưa biểu
hiện thiếu máu. Người ta ước tính số người biểu hiện thiếu máu trên lâm sàng
chỉ bằng một nửa số người thiếu sắt trong thực tế.Ở Hoa Kỳ, 7 đến 9 % trẻ
mới biết đi (1 đến 3 tuổi) bị thiếu sắt và chỉ có 2-3 %TMTS tỷ lệ trêngiảm dần
sau tuổiđó và tăng lên ở tuổivị thành niên khi có đến 16% trẻ gái bị thiếu sắt
và 3% TMTS[9], [10]. Như vậy, định lượng hemoglobin (hoặc hematocrit)
không phải là cách tối ưu để chẩn đoán TMTS vì có bệnh nhân thiếu sắt
nhưng không bị thiếu máu. Hậu quả của thiếu sắt ảnh hưởng lớn đến tâm thần,
hành vi và ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của trẻ. Phát hiện sớm trẻ có
nguy cơ thiếu sắt rất quan trọng nên viện hàn lâm Hoa Kỳ (AAP: American
Academy of Pediatrics) đã nhấn mạnh và đề nghị sàng lọc TMTS vì sự phổ
biến cũng như ý nghĩa sức khỏe cộng đồng cho trẻ nhỏ đặc biệt là trẻ < 6 tuổi
8
do TMTS trong giai đoạn này sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đáng kể và tác động
của nó kéo dài đối với sự phát triển thể chất, não bộ và hành vi.Điều này nói
lên tính chất nghiêm trọng của TMTS.
1.2.2. Sự phân bố và chuyển hóa sắt trong cơ thể
1.2.2.1 Chuyển hóa sắt trong cơ thể
Hấp thu sắt trong cơ thể
Sắt được hấp thu chủ yếu ở bộ máy tiêu hoá và phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: lượng sắt trong cơ thể, mức độ sản sinh hồng cầu, số lượng và chất
lượng sắt cùng với sự có mặt của các chất kích thích hay ức chế hấp thu sắt
trong thức ăn.
Hệ thống tiêu hoá sẽ tăng hấp thu sắt khi dự trữ sắt trong cơ thể thấp và
sẽ giảm khi dự trữ sắt trong cơ thể cao.
Trong thức ăn, sắt ở dưới dạng ferric (Fe3+). Sắt có thể ở dưới dạng vô
cơ hoặc hữu cơ. Sắt có thể ở dưới dạng hydroxyd hoặc liên hợp với protein.
Hàm lượng sắt khác nhau trong từng loại thức ăn nhưng nhìn chung thức ăn
từ thịt chứa nhiều sắt hơn thức ăn từ thực vật, trứng hay sữa. Khẩu phần ăn
hằng ngày trung bình có chứa khoảng 10-15 mg sắt.
Chỉ có khoảng 5-10% sắt trong lượng sắt nói trên được cơ thể hấp thu.
Quá trình hấp thu sắt bắt đầu tại dạ dày nhưng chủ yếu diễn ra tại hành tá
tràng và ở mức độ ít hơn tại đoạn đầu ruột non. Để có thể hấp thu được sắt
phải chuyển từ dạng ferric (Fe3+) sang dạng ferrous (Fe2+). Pepsin tách sắt
khỏi các hợp chất hữu cơ và chuyển thành dạng gắn với các acid amin hoặc
với đường. Acid HCl khử Fe3+ thành Fe2+ để dễ hấp thu. Sự kiểm soát quá
trình hấp thu sắt và lượng sắt được hấp thu vào máu qua tĩnh mạch cửa phụ
thuộc vào nhu cầu sắt và kho dự trữ sắt của cơ thể. Ngược lại trong trường
hợp cơ thể quá tải sắt lượng sắt được hấp thu vào tế bào niêm mạc ruột sẽ
9
giảm đi. Một yếu tố khác ảnh hưởng đến quá trình hấp thu sắt là sự điều hòa
hấp thu sắt ngay tại diềm bàn chải của ruột non. Lượng sắt được hấp thu thừa
sẽ kết hợp với apoferritin để hình thành ferritin nằm trong bào tương tế bào
niêm mạc ruột. Ferritin này sẽ được thải vào lòng ruột khi tế bào biểu mô ruột
bị bong [11].
Nhu cầu sử dụng sắt trong cơ thể
Quá trình chuyển hóa sắt trong cơ thể là một chu trình khép kín. Cân
bằng sắt đạt được chủ yếu bởi các cơ chế ảnh hưởng đến hấp thu và vận
chuyển ruột, chứ không phải là bài tiết qua nước tiểu hay phân. Ở người lớn,
5% nhu cầu sắt hàng ngày đến từ các nguồn thực phẩm (thông qua sự hấp thu
tại đường tiêu hóa) bù đắp cho sự mất sắt; 95% sắt tham gia vào quá trình tái
tạo hồng cầu được lấy từ việc phá huỷ các hồng cầu già cỗi. Trong khi đó, ở
trẻ nhỏ, 70% nhu cầu sắt sử dụng để tạo hồng cầu được lấy từ việc phá huỷ
hồng cầu cũ và 30% còn lại được lấy từ nguồn thức ăn vì tốc độ tăng trưởng
tăng nhanh[1], [11]. Lượng sắt mất đi hằng ngày chỉ khoảng 1mg. Sắt mất đi
thông qua phân, nước tiểu, mồ hôi, tế bào biểu mô bị bong ra. Lượng sắt này
sẽ được bù lại trong khẩu phần ăn hằng ngày. Tuy nhiên lượng sắt mất đi có
thể tăng lên nhiều trong trường hợp như mất máu qua chu kỳ kinh nguyệt,
mất máu do chấn thương hay do xuất huyết tiêu hóa…Nếu cơ thể bị mất
máu cấp, hay hồng cầu bị phá vỡ làm cho lượng sắt bị đào thải theo
hemoglobin tăng lên, sẽ hạn chế tái sử dụng sắt, hoặc do cung cấp sắt thiếu
lâu ngày, đều làm cho lượng sắt trong cơ thể giảm, sắt trong kho dự trữ bị sử
dụng cạn kiệt, gây nên thiếu máu do thiếu sắt. Lượng sắt được cung cấp
hằng ngày trong khẩu phần ăn cũng có thể không đủ để đáp ứng với nhu cầu
của cơ thể khi nhu cầu này tăng lên như phụ nữ có thai, trẻ nhỏ 5-12 tháng,
tuổi dậy thì….
10
Bảng 1.1. Nhu cầu sắt khuyến nghị cho trẻ em Việt Nam (mg/ngày) [12]
Nhóm tuổi
0-5 Tháng
6-8 Tháng
9-11 tháng
1-2 Tuổi
3-5 Tuổi
Nam
Nữ
Nhu cầu sắt (mg/ngày) theo giá
Nhu cầu sắt (mg/ngày) theo
trị sinh học của khẩu phần
Hấp thu 10%
Hấp thu 15%
giá trị sinh học của khẩu phần
Hấp thu 10% Hấp thu 15%
**
0,93
8,5
9,4
5,4
5,5
***
**
0,93
7,9
8,7
5,1
5,4
5,6
6,3
3,6
3,6
***
5,2
5,8
3,5
3,6
** Loại khẩu phần có giá trị sinh học sắt trung bình (khoảng 10% sắt được hấp thu): Khi khẩu
phần có lượng thịt hoặc cá từ 30g - 90g/ngày hoặc lượng vitamin C từ 25 mg - 75 mg/ngày.
*** Loại khẩu phần có giá trị sinh học sắt cao (khoảng 15% sắt được hấp thu): Khi khẩu phần có
lượng thịt hoặc cá > 90g/ngày hoặc lượng vitamin C > 75 mg/ngày.
Bảng 1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự hấp thu sắt trong cơ thể [11]
Yếu tố làm tăng hấp thu sắt
- Dạng ferrous (Fe2+)
Yếu tố làm giảm hấp thu sắt
- Dạng ferric
- Sắt vô cơ
- Sắt hữu cơ
- Môi trường acid (HCL), vitamin C
- Môi trường kiềm
- Các yếu tố hòa tan (acid amin…)
- Các yếu tố gây tủa (phitat, phosphat)
- Thiếu sắt trong cơ thể
- Thừa sắt
- Tăng tổng hợp hồng cầu
- Giảm tổng hợp hồng cầu
- Tăng nhu cầu (có thai)
- Nhiễm khuẩn, viêm mạn tính
- Hemochoromatose
- Các thuốc thải sắt (deferriosamin), chè
Vận chuyển sắt trong cơ thể
Sắt được vận chuyển bởi transferrin. Transferrin là một protein có trọng
lượng phân tử 80.000 Da. Transferrin được tổng hợp tại gan và có nửa đời
sống khoảng 8-10 ngày. Một phân tử transferrin có thể gắn với 2 phân tử sắt.
Sau khi sắt tách ra transferrin tiếp tục gắn với những nguyên tử sắt mới. Bình
thường có khoảng 1/3 transferrin bão hòa sắt, tỷ lệ này có thể thay đổi trong
11
các bệnh lý thiếu hoặc quá tải sắt.
Transferrin chủ yếu lấy sắt từ các đại thực bào của hệ liên võng nội mô.
Chỉ có một lượng nhỏ sắt được lấy từ sắt hấp thu từ đường tiêu hóa hàng
ngày. Người ta thấy rằng các đại thực bào giải phóng sắt theo chu kỳ trong
ngày với lượng sắt giải phóng cao nhất vào buổi sáng và thấp nhất vào buổi
chiều. Do đó nồng độ sắt trong huyết tương cũng được thấy cao nhất vào buổi
sáng và thấp nhất vào buổi chiều.
Các nguyên hồng cầu lấy sắt cần thiết cho quá trình tổng hợp
hemoglobin từ transferrin. Các nguyên hồng cầu rất giầu các receptor với
transferrin. Ngoài ra một lượng nhỏ sắt cũng được chuyển đến các tế bào
không phải hồng cầu (như tổng hợp các enzyme chứa sắt). Trong trường hợp
quá tải sắt, lượng sắt trong huyết tương tăng lên và transferrin bị bão hòa hết.
Khi đó sắt được chuyển đến các tế bào ở nhu mô các cơ quan khác như gan,
tim, các tuyến nội tiết gây ra các biểu hiện bệnh lý do ứ đọng sắt.
Phân bố sắt trong cơ thể
Khoảng hai phần ba lượng sắt trong cơ thể chứa trong hemoglobin.
Khoảng 30% sắt được dự trữ ở trong ferritin và hemosiderin trong hệ liên
võng nội mô tại gan, lách và tủy xương. Còn lại một lượng sắt nhỏ có trong
thành phần một số enzyme (cytochrom, catalase, peroxydase…), trong
myoglobin của cơ và một lượng sắt gắn với protein vận chuyển sắt là
transferrin. Do tỷ lệ khác nhau này mà khi cơ thể thiếu sắt trước tiên sẽ ảnh
hưởng đến quá trình tổng hợp hemoglobin và lượng sắt dự trữ còn sắt có trong
các enzyme của tế bào thường chỉ giảm trong các trường hợp thiếu sắt nặng
12
Bảng 1.3. Tóm tắt sự phân bố sắt trong cơ thể trẻ em [13]
Sắt
Dạng sắt
Hemoglobin
Hem
Myoglobin
Sắt Không
Enzym
Vận chuyển
hem
Dự trữ
Sơ sinh
175mg
15mg
60mg
1 tuổi
320m
75%
g
25%
50mg
50mg
Trưởng thành
2,2-2,5g 65%
85%
200mg
4%
15%
10mg
3-4mg
0,3%
0,1%
0,6-1,2g
30%
Dự trữ sắt và quá trình chuyển hóa sắt
Khi hồng cầu già, yếu sẽ bị các đại thực bào phân hủy ở hệ liên võng
nội mô. Một phần nhỏ sắt giải phóng ra từ hemoglobin sẽ đi vào huyết tương
và phần lớn được dự trữ dưới dạng ferritin và hemosidein. Lượng dự trữ này
nhiều hay ít tùy thuộc vào tình trạng cơ thể, lượng sắt có trong cơ thể và nhu
cầu của cơ thể.
Ferritin là một protein tan trong nước. Vỏ protein khi chưa liên kết với
sắt gọi là apoferritin. Sau khi liên kết với sắt thì chuyển thành ferritin. Lượng
sắt chứa trong ferritin chiếm khoảng 20% trọng lượng phân tử này. Mỗi phân
tử apoferritin có thể liên kết với 4000-5000 nguyên tử sắt. Còn hemosidein là
một tổ hợp có chứa sắt không hòa tan trong nước. Lượng sắt trong thành phần
hemosidein có thể lên đến 37% trọng lượng của nó. Sắt chứa trong ferritin và
hemosidein là sắt ở dạng hóa trị ba (dạng ferric). Muốn sử dụng được trong
quá trình tổng hợp hemoglobin sắt cần được khử thành dạng hóa trị hai (dạng
ferrous) [11].
1.2.3. Triệu chứng lâm sàng thiếu máu thiếu sắt
Triệu chứng lâm sàng của TMTS diễn biến từ từ qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Chỉ giảm sắt dự trữ nên người bệnh chưa bị thiếu máu,
thường có một số triệu chứng của nguyên nhân gây thiếu sắt.
- Giai đoạn 2: Đã cạn sắt dự trữ và giảm sắt vận chuyển, người bệnh chưa có
biểu hiện rõ tình trạng thiếu máu, bắt đầu có triệu chứng của thiếu sắt như: mất tập
trung, mệt mỏi…
- Giai đoạn 3: Thiếu máu và thể hiện là có cả triệu chứng của thiếu máu
13
và thiếu sắt. Tuy nhiên, ranh giới giữa các giai đoạn không rõ ràng [11].
* Trẻ em
- Tuổi thường từ 6 tháng trở lên. Nếu trẻ đẻ non có thể xảy ra sớm hơn
từ 2-3 tháng;
- Da xanh, lòng bàn tay nhợt từ từ;
- Niêm mạc môi, má, lưỡi và kết mạc mắt nhợt;
- Móng tay có khía, dễ gãy, teo niêm mạc, mất gai lưỡi, tóc khô ráp…;
- Trẻ mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt, đau đầu, mệt mỏi tăng và khó thở xuất
hiện khi gắng sức, thậm chí xỉu. Trẻ chán ăn, ít hoạt động, ngừng tăng cân hay
rối loạn tiêu hóa. Ở lứa tuổi đi học thường học sút kém do kém tập trung;
- Nếu thiếu máu nặng, kéo dài có thể có các ảnh hưởng đến huyết động
như: mạch nhanh, huyết áp hạ, nghe tim có tiếng thổi tâm thu cơ năng [11].
1.2.4. Nguyên nhân gây thiếu sắt
Khi sinh, trẻ đủ tháng có lượng sắt dự trữ khoảng 75 mg/ kg và nồng độ
hemoglobin trung bình từ 15 đến 17g/dL, những trẻ sơ sinh này thường đủ
chất sắt trong 5 đến 6 tháng đầu đời [10].
Các nguyên nhân gây thiếu sắt bao gồm
- Mẹ thiếu sắt trong thai kỳ
- Trẻ sinh non tháng
- Cung cấp sắt không đầy đủ, các nguồn thực phẩm kém chất sắt…
- Thiếu sắt do tăng nhu cầu
- Các loại thực phẩm làm hạn chế hấp thu sắt như trà, các loại hạt, ngũ cốc…
- Trẻ bị bệnh đường tiêu hóa làm giảm hấp thu sắt: ruột ngắn, bệnh
Crohn, viêm đại tràng, viêm ruột, chảy máu đường tiêu hóa…
- Trẻ mắc các bệnh nhiễm trùng đặc biệt nhiễm các loại giun như giun
móc, giun đũa, giun kim…
14
1.2.5. Hậu quả của thiếu máu do thiếu sắt
Ngay từ đầu những năm 1919, nhiều nghiên cứu đã phát hiện có mối
liên quan rõ rệt giữa việc giảm nồng độ Hb với khả năng nhận thức và học hỏi
của trẻ lứa tuổi học đường.
Bảng 1.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của thiếu máu thiếu sắt tới phát triển
não bộ
Tác giả
n và thiết kế nghiên cứu
Kết quả
Cantwell
61 trẻ đủ tháng (29 trẻ được tiêm
Nhóm thiếu máu: có thị lực
1974 USA
sắt ở giai đoạn sơ sinh) và nhóm giảm, IQ giảm (92 so với 98)
này không bị thiếu máu về sau, 32
trẻ bị TMTS mức độ vừa ở giai
đoạn 6-18 tháng. Trẻ được theo dõi
Lozoff 2000,
Costa Rica
từ 0-7 tuổi.
191 Trẻ
Trẻ có thiếu máu: giảm khả
năng viết, toán và khả năng
- Nhóm trẻ thiếu máu
- Nhóm không thiếu máu nhưng có nhớ, giảm khả năng tập trung
thiếu sắt
chú ý, vận động tinh cũng
- Nhóm không thiếu máu và không
kém, rối loạn hành vi, xử lý
thiếu sắt
xã hội và khả năng thích ứng
Đánh giá lúc trẻ 11-14 tuổi
kém nhất trong 3 nhóm và
nhóm thiếu sắt nhưng không
có thiếu máu thì biểu hiện
Palti, 1983
Kiểm tra Hb, sắt định kỳ lúc 9
các rối loạn không rõ.
Nhóm được bổ sung sắt lúc 9
Israe
tháng, 2,3,5 tuổi và trẻ được theo
tháng không thấy sự khác biệt
dõi đến 5 tuổi. Trẻ thiếu máu được
về IQ lúc 2 tuổi, nhưng lúc 5
bổ sung sắt lúc 9 tháng và trong
tuổi thấy có IQ bị giảm tuy
thời gian 3 tháng
nhiên ở nhóm không thiếu máu
IQ cao hơn 1,75 điểm so với
Palti 1985
Israel
nhóm vẫn còn thiếu máu.
TMTS lúc 9 tháng tuổi và nhóm Nhóm TMTS khả năng học
chứng. Những trẻ này được dõi cho kém,
15
Tác giả
n và thiết kế nghiên cứu
Kết quả
Dommergues
đến khi trẻ lên cấp II
147 trẻ (gồm trẻ TMTS lúc 9,10 Lúc 10 tháng thiếu máu
1989, France
tháng, nhóm thiếu máu xuất hiện không có liên quan đến sắt
lúc 2 tuổi và nhóm chứng. Đánh huyết thanh lúc 2 tuổi nhưng
giá tại thời điểm 0 tháng tuổi và 4 MCHC giảm có liên quan rõ
tuổi
đến chỉ số IQ, vận động thô
và khả năng xã hội lúc 4 tuổi.
MCHC giảm lúc 2 tuổi cũng
gây giảm IQ lúc 4 tuổi
1.2.6. Cận lâm sàng thiếu máu thiếu sắt
Xét nghiệm xác định mức độ và tính chất thiếu máu
- Ngưỡng đánh giá thiếu máu (WHO, 2001) [5], [6].
Bảng 1.5. Ngưỡng đánh giá thiếu máu
Mmol/L
1-<3 tháng
Hemoglobin
g/L
10,5
%
0,32
3-<6 tháng
95
6,83
0,29
6-59 tháng
110
7,13
0,33
5-11 tuổi
115
7,45
0.34
12-14 tuổi
Từ 15 tuổi
120
Nam
130
8,07
0,39
Nữ
120
7,45
0,36
Nhóm tuổi
Hematocrit
0,36
Khái niệm “ngưỡng” được áp dụng cho những vùng dân cư sống ở độ cao
ngang mức nước biển, nếu hàm lượng Hb dưới giới hạn này coi là thiếu máu.
Với vùng dân cư sống ở những vùng cao hơn mực nước biển, cứ 1000km
cao hơn thì ngưỡng được tăng lên 10 g/L.
- Tính chất thiếu máu:
Hồng cầu nhỏ, nhược sắc: MCV< 80 fl, MCH < 28p g, MCHC< 300
16
g/L với trẻ > 6 tháng tuổi. Trẻ dưới 6 tháng tuổi MCV <74 fl, MCH <25
pg. MCHC < 280 g/l
Kích thước hồng cầu không đều - RDW (Red cell distribution
with): RDW > 14%
Xét nghiệm đánh giá mức độ thiếu sắt
Sắt huyết thanh: Giá trị xét nghiệm sắt huyết thanh để chẩn đoán
thiếu sắt là rất hạn chế. Giới hạn bình thường của sắt huyết thanh rất
rộng từ 11-15 mmol/l.
- Ferritin huyết thanh: Là chỉ số đánh giá kho dự trữ sắt của cơ thể, nó
cung cấp một thông tin có giá trị về tình trạng sắt dự trữ.
Thụ thể Transferrin huyết thanh (STfR: Serum transferrin
receptor) là một chỉ số nhạy để chẩn đoán thiếu sắt, có giá trị lớn để
phân biệt thiếu sắt với thiếu máu của bệnh mãn tính. Trong thiếu sắt,
STfR cao hơn bình thường, còn trong thiếu máu do bệnh viêm nhiễm
mạn tính STfR chỉ tăng nhẹ.
- Độ bão hòa transferrin (TfS- Transferin saturation): là tỷ lệ % các vị
trí transferin đã được gắn với sắt.
- UIBC(Unsaturation Iron Binding Capacity- sắt chưa bão hòa huyết
thanh): Là lượng sắt còn có khả năng gắn tiếp lên Tf (khả năng gắn sắt
tiềm tàng của Tf).
- TIBC (Total Iron Binding Capacity- Khả năng gắn sắt toàn phần): Là
tổng lượng sắt có thể gắn tối đa trên Tf.
TIBC = UIBC + sắt huyết thanh.
- Transferin receptor hòa tan(Soluble Transferin Receptor – sTfR):
phản ánh nhu cầu sử dụng sắt của tế bào dòng HC ở mức độ tế bào.
1.3. Thực trạng thiếu máu thiếu sắt
1.3.1. Thực trạng thiếu máu thiếu sắt trên thế giới
17
70
60
50
2000
40
2005
30
2007
20
10
0
Châu Phi
Châu Á
Nam Mỹ và Carribe
Các nước phát triển
B
iểu đồ 1.1. Tỷ lệ (%) thiếu máu của trẻ dưới 5 tuổi trên thế giới
Theo thống kê của WHO và Nhóm tư vấn Quốc tế về Thiếu máu dinh
dưỡng
(INACGCG.
International
Nutrional
Anamia
Consultative
GroupGroup) tthiếu máu dinh dưỡng là một vấn đề rất phổ biến trên toàn cầu.
Ước tính ít nhất 1/3 dân số trên thế giới bị thiếu máu dinh dưỡng 1 lần. Thiếu
máu dinh dưỡng gặp ở tất các các quốc gia trên thế giới gồm cả nước đang
phát triển và phát triển. Ở các nước đang phát triển tỷ lệ này là 36% và các
nước phát triển là 8%, cao nhất là châu Phi, châu Mỹ Latin. Tại các nước
đang phát triển, thiếu máu chiếm tỷ lệ cao ở phụ nữ mang thai (51%), trẻ nhỏ
(43%), học sinh 37% [13]. Tỷ lệ thiếu máu ở trẻ <5 tuổi cao Mỹ (50%),
Mexico (45-70%), Brazin (30-60%).Nguyên nhân cơ bản gây thiếu máu dinh
dưỡng ở trẻ nhỏ là do thói quen ăn uống chưa tốt nhất là giai đoạn bắt đầu ăn
bổ sung. Khi sữa mẹ không còn đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ, trẻ
bắt đầu ăn bổ sung nhưng thức ăn này rất nghèo về chất dinh dưỡng đặc biệt
là sắt, acid folic và B12[13], [14].Trẻ < 5 tuổi rất dễ có nguy cơ bị thiếu máu do
tốc độ tăng trưởng nhanh và nhu cầu sắt cũng như các chất dinh dưỡng khác
cần cho quá trình tạo máu tăng[15]. Hầu hết thiếu máu là tiến triển thầm lặng
và diễn biến từ từ do thiếu sắt (khoảng 50% thiếu máu là do thiếu sắt). Sắt
18
thiếu là một vấn đề đặc biệt khó khăn đối với các nước đang phát triển như
châu Á và châu Phi[7], [13].
1.3.2. Thiếu máu thiếu sắt ở Việt Nam
Theo kết quả điều tra về vi chất dinh dưỡng của viện dinh dưỡng quốc
gia hàng năm
Biểu đồ 1.2. Tỷ lệ thiếu máu và thiếu máu thiếu sắt của trẻ dưới 5 tuổi
Tại Việt Nam, bệnh lý do thiếu hụt dinh dưỡng đã được ghi nhận trong
các báo cáo diễn ra trong một thời gian dài. Những năm gần đây, các chương
trình phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng bao gồm uống bổ sung vi chất,
tắng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm và đa dạng hóa bữa ăn đã đem
những thành tựu đáng kể. Các giải pháp đã tiến hành ở Việt Nam như giải
pháp ngắn hạn (uống viên sắt, bổ sung đa vi chất …), trung hạn (tăng cường
vi chất vào thực phẩm như bánh đa vi chất, bổ sung acid folic vào bột mỳ),
dài hạn (cải thiện bữa ăn cho người Việt nam). Tuy nhiên, theo đánh giá của
WHO thì tỷ lệ thiếu hụt chất dinh dưỡng tiền lâm sàng ở Việt Nam vẫn còn
cao như thiếu máu, thiếu kẽm, sắt và đây chính là vấn đề có ý nghĩa sức khỏe
19
cộng đồng. Trong số các thiếu hụt chất dinh dưỡng thì thiếu máu, thiếu sắt,
kẽm, canxi là vẫn còn cao đặc biệt các khu vực miền núi và nông thôn.
Thiếu máu do thiếu sắt là vấn đề phổ biến nhất trong các loại thiếu máu
do dinh dưỡng đặc biệt ở trẻ em <5 tuổi, TMTS có thể đơn thuần hay kết hợp
với thiếu acid folic. Thiếu máu là giai đoạn cuối cùng của một thời gian dài
thiếu chất dinh dưỡng, thiếu sắt, do vậy đã gây hậu quả bất lợi cho sức khỏe,
đặc biệt là sự phát triển thể chất, não bộ ở trẻ nhỏ và nhiều khi những tổn
thương này vĩnh viễn không thể phục hồi dù vấn đề thiếu máu đã được kiểm
soát sau này. Do thiếu máu chỉ là biểu hiện sau cùng của thiếu hụt dinh dưỡng
nên tỷ lệ thiếu hụt dinh dưỡng, thiếu sắt thực sự cao hơn rất nhiều so với số
liệu thống kê thực sự tỷ lệ thiếu máu. Thiếu máu dinh dưỡng ở trẻ em Việt
Nam là vấn đề y tế rất quan tâm vì nó làm tăng nguy cơ tử vong. Tại Việt
Nam dựa vào kết quả một số cuộc điều tra, một số tác giả đã ước tính tỷ lệ
thiếu máu ở trẻ em dưới 5 tuổi từ 30-50% tùy theo từng vùng và thiếu sắt là
chủ yếu. Nguyễn Xuân Ninh (2006) điều tra trên 1775 trẻ em dưới 5 tuổi tại 6
tỉnh thành đại diện của Việt Nam, kết quả tỷ lệ thiếu máu trung bình ở trẻ em
là 36,7%, tỷ lệ thiếu máu cao nhất ở nhóm 6-12 tháng tuổi (56,9%) và có xu
hướng giảm dần khi tuổi tăng lên: 45% ở nhóm 12-24 tháng, 38% ở nhóm 2436 tháng, 29% ở nhóm 36-48 tháng, 19,9% ở nhóm 48-59 tháng. Vùng nội
thành thiếu máu thấp hơn ngoại thành [16]. Nguyễn Văn Nhiên (2006) cho
thấy tỷ lệ trẻ em ở miền núi phía bắc thiếu sắt là 55,6%, kẽm là 86,9%, thiếu
Vitamin A tiền lâm sàng là 14,2%, nhưng thiếu máu là 36,7% và 80% trẻ có
thiếu từ hai vi chất trở lên [17]. Trần Thị Thúy Nga (2014) cho thấy có 38,6%
trẻ dưới 5 tuổi của 5 xã thuộc huyện Lạc Sơn Hòa Bình bị thiếu máu [18].
Thống kê của Viện Dinh Dưỡng (2014-2015) tỷ lệ thiếu máu trẻ em dưới 5
tuổi chung toàn quốc là 27,8%, tỷ lệ này cao hơn ở miền núi 31,2%, nông
thôn (28,4%) và thấp hơn ở thành thị (22,2%), thiếu kẽm ở trẻ em dưới 5 tuổi
20
rất cao tới 69,4%, đặc biệt rất cao ở miền núi (80,8%), nông thôn (71,6%) và
ở thành thị có thấp hơn nhưng vẫn khá cao (49,7%). Các số liệu trên cho
thấy ở trẻ em dưới 5 tuổi hiện nay có gần 1/3 bị thiếu máu và hơn 2/3 bị thiếu
kẽm. Theo dõi thực trạng thiếu máu hiện nay tuy tỷ lệ thiếu máu có xu hướng
giảm, nhưng tốc độ chậm và hiện nay vẫn ở mức trung bình có ý nghĩa đối
với sức khoẻ cộng đồng (>20%). Thiếu vi chất dinh dưỡng hiện nay là vấn đề
được nhiều nước trên thế giới quan tâm trong đó có Việt Nam.
1.4. Phòng ngừa thiếu máu thiếu sắt
1.4.1. Yếu tố nguy cơ gây thiếu máu
Thiếu hụt vi chất dinh dưỡng ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe, phát
triển thể chất và não bộ nhưng con người khó để nhận biết ra điều đó. Vì vậy
sự thiếu hụt các chất dinh dưỡng thường được biết “thiếu hụt không dấu vết”
và các vi chất dinh dưỡng thường được gọi là “vi chất lãng quên” do nhiều vai
trò của nó bị lãng quên và chỉ thực sự biết đến chúng khi mà sự thiếu hụt trầm
trạng trong cơ thể gây ra các biểu hiện lâm sàng và sinh hóa đặc trưng của
thiếu hụt chất dinh dưỡng và đó cũng là lúc để lại hậu quả đến sức khỏe, thể
lực, hơn thế nữa nhiều tổn thương không thể phục hồi dù thiếu hụt đã được
kiểm soát.
Cung cấp dinh dưỡng đầy đủ cho trẻ nhỏ đặc biệt là trẻ 0-5 tuổi rất quan
trọng, giúp trẻ phát huy được tối đa chiều cao theo tiềm năng di truyền, có hệ
miễn dịch khỏe mạnh đặc biệt là sự phát triển não bộ, hành vi và cảm xúc.
Chế độ ăn của trẻ cần có đủ và cân đối về các chất dinh dưỡng vì vậy
cần phải đa dạng hóa bữa ăn. Theo WHO/UNICEF (2010) trẻ cần phải được
ăn đa dạng thức ăn với khẩu phần có từ 4 nhóm thực phẩm trở lên trong 8
nhóm thực phẩm sau:Ngũ cốc, khoai củ, đậu đỗ, hạt có dầu, sữa, chế phẩm
sữa, hịt, cá, hải sản và chế phẩm, trứng, rau quả giàu vitamin A, các loại rau
quả …
21
Đặc biệt nên lựa chọn những thực phẩm giàu sắt như: thịt, trứng
(hàm lượng cao), các loại đậu (hàm lượng trung bình), … Đồng thời chọn
thực phẩm có chứa nhiều vitamin C giúp tăng hấp thu sắt như: trái cây họ
cam quuýt, rau ngót, …
Ngoài ra ở Việt Nam cần lưu ý thêm nhóm chất béo (dầu, mỡ)
Bên cạnh đó cách chế biến thức ăn đóng một vai trò vô cùng quan trọng
vì nếu chế biến không đúng cách thì nhiều chất dinh dưỡng sẽ bị mất một
cách đáng kể.
Giá trị sinh học của sắt trong chế độ ăn của trẻ em Việt Nam vẫn còn
thấp (5-10%). Nhìn chung, nguồn thức ăn động vật giàu sắt như các loại thịt,
cá, trứng…và các thực phẩm làm tăng khả năng hấp thu sắt không hem như
Vitamin C, các acid hữu cơ trong quả và rau …thường không được ăn đầy đủ
về lượng và đều đặn và đó chính là nguy cơ gây thiếu sắt đặc biệt là trẻ em là
những đối tượng có nhu cầu cao. Hơn nữa, chế độ ăn lại có quá nhiều chất
gây cản trở cho sự hấp thu sắt đó là thực phẩm có chứa phytate như các loại
hạt, ngũ cốc và thực phẩm có chứa tannin như một số loại rau. Ngoài ra tình
trạng nhiễm giun móc cũng khá phổ biến, tỷ lệ mắc cao ở vùng nông thôn và
những nơi có điều kiện vệ sinh cá nhân và môi trường chưa đảm bảo, vấn đề
sử dụng nước sạch, sử dụng phân tươi trong nông nghiệp, tất cả những yếu tố
này góp phần vào làm tăng tỷ lệ thiếu sắt và thiếu máu ở trẻ em Việt Nam.
Như vậy, chế độ ăn của trẻ em Việt Nam gần như đạt về số lượng nhưng lại
chưa đảm bảo về chất lượng, đặc biệt là những vi chất dinh dưỡng có vai trò
quan trọng trong việc phát triển thể lực, trí tuệ, miễn dịch cho trẻ cũng như
ảnh hưởng đến tình trạng thiếu máu của trẻ còn phổ biến ở nhóm trẻ <5 tuổi
theo các số liệu điều tra trên toàn quốc.
Sữa mẹ lượng sắt trong sữa mẹ ở mức cao nhất trong tháng đầu tiên,
nhưng nó giảm dần trong các giai đoạn tiếp theo và được giảm xuống còn 0,3
22
mg/L vào khoảng tháng thứ năm. Tuy nhiên, lượng sắt dự trữ này thay đổi
theo từng cá nhân. Mặc dù lượng sắt trẻ nhận được từ sữa mẹ thường thấp,
nhưng sự hấp thụ của nó là khá cao (50%). Người ta thấy rằng các loại thực
phẩm khác được bổ sung trong 6 tháng đầu tiên sẽ làm phá vỡ sự hấp thu
trong sữa mẹ. Do đó những trẻ được an dặm sớm trước 6 tháng có nguy cơ
thiếu sắt[19].
Sữa bònếu trẻ được uống sữa bò nhiều sẽ nguy cơ thiếu sắt do sự hấp
thụ sắt trong sữa bò thấp hơn nhiều so với sữa mẹ và sữa bò sẽ thay thế cho
các thực phẩm giàu sắt khác. Ngoài ra canxi và caseinophosphopeptides trong
sữa bò có thể phá vỡ sự hấp thụ sắt[20].
1.4.2. Phòng chống thiếu máu dinh dưỡng
Khác với đa số các bệnh khác, thiếu máu dinh dưỡng là một bệnh ít có
biểu hiện lâm sàng, tiến triển kín đáo, tăng dần làm tình trạng thiếu máu
ngày một nặng nề mà ít được chú ý. Vấn đề phát hiện thiếu máu dinh dưỡng
chỉ là tình cờ do bệnh nhân đi khám vì bệnh lý gì đó. Việc điều trị bệnh thiếu
máu dinh dưỡng chỉ là giai đoạn cuối của quá trình bệnh lý. Đặc điểm này
của thiếu máu dinh dưỡng làm cho tỷ lệ người bị thiếu máu dinh dưỡng là
rất cao. Công tác phòng chống thiếu máu dinh dưỡng là một vấn đề được đặt
ra mang tính chất xã hội.
Để phòng những hậu quả do TMTS, nhiều nước trên thế giới đã tuân
thủ hai nguyên tắc được đưa ra bởi INACG (Internationnal Nutrition Anaemia
Consultative Group) và WHO [21]:
Khuyến khích sử dụng các thức ăn giàu sắt, tăng lượng sắt có nguồn
gốc động vật như thịt, cá và sử dụng các sản phẩm giàu vitamin c trong bữa
ăn. Tăng cường sắt trong các công thức bột bổ sung của trẻ và một số thực
phẩm cho các đối tượng có nguy cơ TMTS cao.
23
Thường xuyên bổ sung sắt cho các bà mẹ mang thai trong ba tháng
cuối, trẻ nhỏ đặc biệt là trẻ thấp cân và thiếu tháng, là biện pháp ngắn hạn,
nhằm giảm nhanh tỷ lệ thiếu máu cao ở những đối tượng này
Hai nguyên tắc này được triển khai rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới.
Việt Nam, trong chiến lược phòng chống thiếu máu dinh dưỡng và sức khỏe
cộng đồng dựa trên hai nguyên tắc trên đã đề xuất 4 biện pháp chính:
Bổ sung viên sắt: Viên sắt có tác dụng cải thiện nhanh tình trạng
thiếu máu ở bệnh nhân, theo WHO việc dùng sắt điều trị thiếu máu có thể
dùng trong 2-3 tháng liền, nồng độ sắt sẽ trở lại bình thường [22].
Cải thiện chế độ ăn: Ăn đầy đủ năng lượng và thực phâm giàu sắt
như đạm động vật, đậu đỗ, thủy hải sản. Ăn nhiều rau quả có chứa nhiều
vitamin C. Đặc biệt quan tâm tới đối tượng trẻ em là những đối tượng trên
thực tế có tỷ lệ thiếu máu rất cao.
Giám sát và điều trị tích cực các bệnh nhiễm khuẩn và ký sinh trùng
Chiến lược phòng chống thiếu hụt dinh dưỡng tại Việt Nam:
Chiến lược của phòng chống thiếu hụt vi chất dinh dưỡng là chống lại thiếu
hụt vi chất “tiềm ẩn”, tức là chưa biểu hiện rõ ra trên lâm sàng và xét nghiệm,
để ngăn ngừa ảnh hưởng của thiếu hụt lên khả năng lao động, học tập, trí tuệ
và đem lại sức khỏe toàn diện. Phòng chống thiếu hụt vi chất dinh dưỡng là
mục tiêu của Việt nam từ 2011-2020. Ước tính, nếu tình trạng thiếu hụt dinh
dưỡng không được giải quyết trong 10 năm tới, thì thế giới sẽ tiêu 180-250 tỷ
đô la để giải quyết hậu quả do giảm trí tuệ, giảm miễn dịch, giảm sức lao
động và tỷ lệ tử vong trẻ và bà mẹ tăng cao, gánh nặng bệnh tật gia tăng. Tuy
nhiên, để giải quyết thiếu hụt thì thế giới phải đầu tư 4-5 tỷ đô la.
Như vậy, thiếu máu là một vấn đề phổ biến trong các thiếu hụt về dinh
dưỡng trên thế giới và tỷ lệ mắc thiếu máu dinh dưỡng cao hơn ở các nước
đang phát triển so với các nước phát triển. Khoảng 34% dân số thế giới bị
24
thiếu sắt trong đó 80% ở các nước đang phát triển và tỷ lệ lệ TMTS khoảng
40%, ở các nước phát triển thì tỷ lệ này khoảng 10% [20] nên WHO đã đưa
TMTS là 1 trong 10 yếu tố nguy cơ góp phần vào tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ.
Thiếu máu dinh dưỡng nói chung và TMTS nói riêng là vấn đề có ý nghĩa sức
khỏe cộng động đặc biệt là Việt Nam. Việt Nam đã nhận thức được ảnh hưởng
trầm trọng của thiếu máu dinh dưỡng nên sự phát triển thể chất, tăng khả năng
mắc bệnh và TMTS dẫn đến chậm phát triển tâm thần, IQ thấp và khả năng
học tập giảm ở trẻ dưới 5 tuổi và học sinh tiểu học. Các mức độ và thời gian
thiếu máu cũng như lứa tuổi mắc khác nhau đều gây ảnh hưởng cho sức khỏe
nói chung và phát triển não bộ nói riêng cho các đối tượng. Do vậy, Việt Nam
đã thực hiện nhiều chương trình phòng chống TMTS cho trẻ em và phụ nữ
mang thai (tảy giun định kỳ, bổ sung đa vi chất, bổ sung viên sắt cho phụ nữ
có thai, đa dạng hóa bữa ăn, ….) nên tỷ lệ thiếu máu tuy đã giảm đáng kể
nhưng vẫn còn ở mức cao. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự xuất hiện
của thiếu máu dinh dưỡng. Do vậy, xác định tỷ lệ thiếu máu dinh dưỡng ở trẻ
em <5 tuổi và để xác định các yếu tố nguy cơ dự báo có liên quan đến thiếu
máu là cần thiết, đề từ đó có chính sách can thiệp hữu hiệu và bền vững.
25
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các trẻ từ 1 tháng đến 60 tháng tuổi được gia đình đưa đến khám tư
vấn dinh dưỡng tại phòng Khám Dinh dưỡng – bệnh viện Nhi Trung Ương.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng cho mục tiêu 1
2.1.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
Trẻ từ 1tháng đến 60 tháng tuổi có đủ các tiêu chuẩn sau:
- Được cha mẹ đưa đến khám với một trong các lý do: xanh xao, gầy
còm, tư vấn dinh dưỡng.
- Không có bệnh cấp/mạn tính kèm theo.
- Có sự đồng ý tham gia nghiên cứu của bố mẹ hoặc người nuôi dưỡng trẻ.
Cha mẹ hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng trẻ không mắc bệnh tâm
thần, hiểu nội dung câu hỏi phỏng vấn.
2.1.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Cha mẹ trẻ không biết rõ thông tin về trẻ.
Trẻ được truyền máu hay dùng các chế phẩm sắt, thuốc bổ sung đa vi
chất trong đó có thành phần acid folic, B 12, vitamin C, kẽm, trước khi
tiến hành nghiên cứu <2 tháng.
2.1.2. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng cho mục tiêu 2:
2.1.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
Trong nhóm đối tượng được chọn của mục tiêu 1, chọn trẻ đủ tiêu
chuẩn chẩn đoán TMTS theo WHO 2001 [5].
Tiêu chuẩn chẩn đoán thiếu máu:
- Trẻ 1 đến 3 tháng: khi Hb <10,5g/dl
- Trẻ từ 3 đến 6 tháng: khi Hb < 9,5g/dl
- Trẻ từ 6 tháng đến <5 tuổi: khi Hb <11g/ dL
Tiêu chuẩn chẩn đoán thiếu máu do thiếu sắt:
- Sắt huyết thanh < 9 mmol/l hoặc Feritin < 12 ng/ml hoặc độ bão hoà