BÀI TẬP CÁ NHÂN MÔN KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Đề số 08: Hoạt động của Kiểm sát viên khi kiểm sát việc xác minh
điều kiện thi hành án dân sự.
A. MỞ ĐẦU
Thi hành án dân sự (THADS) là một giai đoạn, một lĩnh vực quan trọng
trong hoạt động tư pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ án dân sự nói
riêng. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có giá trị khi được tôn trọng và
đưa ra thi hành trên thực tế. Hoạt động THADS bảo đảm cho bản án, quyết định
của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật
và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân và lợi ích của Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị
-xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Trong đó, xác minh điều kiện THADS là nội dung có ý nghĩa hết sức quan
trọng, quyết định sự thành công của THADS. Nhưng thực tế, vấn đề xác minh
điều kiện THADS hiện nay vẫn còn tồn tại khá nhiều bất cập, vướng mắc dễ
dàng nảy sinh tiêu cực. Vì vậy, để hoạt động này đạt hiệu quả cao rất cần đến vai
trò kiểm tra, giám sát, bảo đảm mọi hành vi, quyết định trong THADS phải được
tuyệt đối tuân thủ pháp luật của Viện kiểm sát. Từ đó, công tác kiểm sát THADS
nói chung và kiểm sát việc xác minh điều kiện THADS nói riêng là cũng là một
trong những khâu công tác quan trọng của ngành Kiểm sát. Bởi. chỉ có kiểm sát
tốt ngay từ giai đoạn xác minh điều kiện thi hành án mới đảm bảo cho việc thi
hành bản án, quyết định được kịp thời, đầy đủ và đúng pháp luật.
1
B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận về xác minh điều kiện thi hành án
1. Khái niệm xác minh điều kiện thi hành án
Trong pháp luật Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa về "xác
minh điều kiện thi hành án". Hiện nay, có một sự đa dạng trong tiếp cận và
nghiên cứu về xác minh điều kiện thi hành án, song tổng hợp những điểm cốt lõi
của sự đa dạng đó cho phép rút ra điểm cơ bản nhất và cũng là điểm chung nhất
của hầu hết các công trình nghiên cứu. Trên cơ sở đó, có thể rút ra khái niệm về
xác minh điều kiện thi hành án:
Xác minh điều kiện thi hành án (XMDKTHA) là việc Chấp hành viên,
Thừa phát lại hoặc người được thi hành án tiến hành thu thập các chứng cứ, tài
liệu về tài sản, thu nhập của người phải thi hành án để làm căn cứ tổ chức
THADS theo quy định của pháp luật.
2. Đặc điểm của xác minh điều kiện thi hành án
Thứ nhất, việc XMĐKTHA được thực hiện tại nhiều thời điểm, nhiều địa
điểm khác nhau trong quá trình thi hành án (THA).
Việc XMĐKTHA được thực hiện tại nhiều thời điểm khác nhau trong quá
trình THA. Ví dụ, trong trường hợp người được thi hành án XMĐKTHA của
người phải thi hành án thì việc xác minh được tiến hành trước khi người được
thi hành án nộp đơn yêu cầu thi hành án. Trường hợp THA chủ động hoặc xác
minh theo yêu cầu của đương sự thì việc XMĐKTHA được thực hiện ngay tại
thời điểm ra quyết định THA. Trường hợp sau khi người được THA tiến hành
XMĐKTHA của người phải THA và nộp đơn yêu cầu THA mà Chấp hành viên
không đồng ý với kết quả xác minh này thì Chấp hành viên sẽ tiến hành
XMĐKTHA lại. Trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời thì việc XMĐKTHA được thực hiện trước, trong và sau khi áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Việc XMĐKTHA cũng được thực hiện tại nhiều địa điểm khác nhau tùy
thuộc vào đối tượng. Chẳng hạn, khi xác minh hiện trạng nhà đất thì địa điểm
tiến hành xác minh là tại nơi có nhà đất, khi xác minh chủ sở hữu phương tiện
2
giao thông thì địa điểm tiến hành là tại Phòng cảnh sát giao thông; khi xác minh
về tiền, tài khoản thì địa điểm xác minh là tại Ngân hàng, các tổ chức tín dụng...
Thứ hai, việc XMĐKTHA có thể do người được THA, Chấp hành viên hoặc
Thừa phát lại thực hiện.
Nghĩa vụ làm rõ điều kiện THA của người phải THA trước hết là của người
được THA vì họ là một trong những người đưa ra yêu cầu THADS. Tuy vậy,
trong những trường hợp cơ quan THADS chủ động THA hay trong những
trường hợp người được THA không thể XMĐKTHA của người phải THA được
thì cơ quan THADS phải tiến hành xác minh THA. Ngoài ra, các Văn phòng
Thừa phát lại cũng được tổ chức THA khi đương sự yêu cầu.
Thứ ba, nội dung XMĐKTHA chủ yếu là làm rõ thông tin về thu nhập, tài
sản của người phải THA.
Phần lớn nghĩa vụ THADS là nghĩa vụ về tài sản. Vì vậy, trừ những trường
hợp đặc biệt cần xác minh về nhân thân, thái độ của người phải THA để thi hành
nghĩa vụ bắt buộc thực hiện hoặc không thực hiện một công việc nhất định thì
nội dung chủ yếu của việc xác minh là làm rõ thông tin về thu nhập, tài sản của
người phải THA. Để tổ chức THADS thì phải làm rõ tài sản, thu nhập của người
phải THADS có những gì? Số lượng và chủng loại cụ thể? Tài sản của người
phải THA do họ giữ hay do người khác giữ? Tài sản vô hình hay tài sản hữu
hình?...
Thứ tư, việc XMĐKTHA phải được thực hiện một cách đầy đủ, chính xác
theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định.
Pháp luật THADS quy định cụ thể về trình tự, thủ tục THADS.
XMĐKTHA là một khâu của quá trình THADS. Vì vậy, việc XMĐKTHA phải
được thực hiện một cách đầy đủ, chính xác theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp
luật quy định từ chủ thể yêu cầu xác minh, thể thức văn bản yêu cầu xác minh,
chủ thể tiến hành xác minh, thời hạn thực hiện việc xác minh; nơi thực hiện việc
3
xác minh, biên bản xác minh...để tránh những trường hợp áp dụng một cách tùy
tiện.
3. Ý nghĩa của xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Việc XMĐKTHA của người phải THA là cơ sở pháp lý để Chấp hành viên
áp dụng các biện pháp tiếp theo như: trả đơn yêu cầu THA, ủy thác, hoãn, tạm
đình chỉ, đình chỉ THA, áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế
THA... Mặt khác, việc XMĐKTHA còn là cơ sở để phân loại án, là căn cứ cho
việc thống kê số án tồn đọng. Vì vậy, việc XMĐKTHA có các ý nghĩa sau đây:
Giúp cho việc phân loại án được chính xác, góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác THA, giảm bớt áp lực đối với cơ quan
THADS;
Góp phần bảo đảm quyền của người được THA;
XMĐKTHA góp phần nâng cao ý thức của người dân trong việc
THA.
II. Hoạt động của Kiểm sát viên khi kiểm sát việc xác minh
điều kiện thi hành án dân sự
1. Kỹ năng kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án
Khi tiến hành kiểm sát việc XMĐKTHA, Kiểm sát viên cần lưu ý thức hiện
những nội dung sau:
Thứ nhất, kiểm sát hồ sơ thi hành án thuộc thời điểm nào, do quy định
pháp luật cụ thể nào điều chỉnh. Theo quy định của pháp luật thi hành án từ
trước đến nay thì trách nhiệm XMĐKTHA thuộc Cơ quan thi hành án mà cụ thể
là Chấp hành viên được phân công; riêng tại Luật THADS 2008 thì trong trường
hợp thi hành án theo đơn thì người được thi hành án phải XMĐKTHA, nếu họ
đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được thì có thể
yêu cầu Chấp hành viên xác minh. Một vấn đề khác, do pháp luật trước đây
chưa có quy định đầy đủ, cụ thể về xác định việc chưa có điều kiện thi hành án,
nên việc thi hành án thường thiếu chính xác, dẫn đến từ khâu thụ lý đến kết quả
giải quyết thường không chính xác.
4
Thứ hai, phải xác định XMĐKTHA là một bước, một quy trình bắt buộc
của việc tổ chức thi hành án. Vì chỉ khi XMĐKTHA mới có căn cứ, cơ sở để
xác định có điều kiện thi hành hay chưa? Dựa vào kết quả xác minh mà Chấp
hành viên hoặc Cơ quan thi hành án có những quyết định tiếp theo.
Thứ ba, việc XMĐKTHA đúng pháp luật sẽ có được quyết định đúng pháp
luật và ngược lại.
Từ những điều trên đây, khi kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án,
Viện kiểm sát cần tâp trung những nội dung sau: Cơ quan thi hành án, Chấp
hành viên đã thực hiện đúng trách nhiệm về việc tổ chức và xác minh điều kiện
thi hành án chưa? Có đảm bảo về mặt thời hạn xác minh trong từng trường hợp
thi hành án theo đơn yêu cầu, thi hành án chủ động không? Nội dung xác minh
có đảm bảo tính trung thực, tính hợp pháp không? Thủ tục và hình thức xác
minh? Thành phần tham gia? Việc xác minh tài sản là bất động sản, động sản
phải đăng ký quyền sở hữu ra sao? Quyết định về việc chưa có điều kiện thi
hành án có căn cứ không? Cơ quan thi hành án đã thực hiện đúng trình tự, thủ
tục công khai thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện THA
chưa?...
Để kiểm sát chặt chẽ những nội dung trên, Viện kiểm sát cần thường xuyên
kiểm sát hồ sơ thi hành án thông qua phân công kiểm sát viên kiểm sát việc thụ
lý, giải quyết hồ sơ của từng Chấp hành viên; kiểm sát chặt chẽ các quyết định
xác định chưa có điều kiện thi hành án; tổ chức xác minh một số trường hợp
nghi có dấu hiệu vi phạm; kiểm sát việc đăng tải thông tin của Cơ quan thi hành
án...
Khi phát hiện vi phạm, Viện kiểm sát tùy vào mức độ vi phạm mà có biện
pháp xử lý thích hợp như: nếu chưa kịp thời xác minh thì yêu cầu xác minh; nếu
xác minh không đảm bảo đúng quy định pháp luật thì yêu cầu xác minh lại;
trường hợp làm sai kết quả xác minh ảnh hưởng đến quyền lợi của Nhà nước,
đương sự thì phải đề xuất lãnh đạo kháng nghị hủy bỏ; trường hợp xác minh sai
5
vì chạy đua thành tích hoặc lý do khách quan phải đề xuất lãnh đạo viện kiến
nghị chấn chỉnh và xử lý người vi phạm; trường hợp có đủ căn cứ thì đề xuất
khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật hình sự và Bộ
luật tố tụng hình sự.
2. Những vi phạm thường gặp khi kiểm sát việc xác minh điều kiện
thi hành án
Những vi phạm trong xác minh điều kiện thi hành án thường là:
- Hết thời hạn tự nguyện nhưng Chấp hành viên không tiến hành xác
minh: Theo quy định của Luật THADS, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết
thời hạn tự nguyện THA mà người phải THA không tự nguyện thi hành thì Chấp
hành viên phải tiến hành xác minh. Tuy nhiên, nhiều trường hợp hết thời gian tự
nguyện Chấp hành viên cũng không tổ chức tiến hành xác minh. Trường hợp
người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án nhưng không xác minh
theo định kỳ, không tiến hành xác minh khi có thông tin về thi hành án.
Trong trường hợp người phải THA chưa có điều kiện THA thì ít nhất 06
tháng một lần, Chấp hành viên phải XMĐKTHA nhưng nhiều trường hợp quá
06 tháng thậm chí vài năm Chấp hành viên không tiến hành xác minh. Khi có
thông tin mới về điều kiện thi hành án của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác cung cấp thông tin mới về điều kiện THA của người phải THA, Chấp
hành viên phải tiến hành xác minh. Tuy nhiên nhiều vụ, khi có thông tin về THA
nhưng Chấp hành viên không tiến hành xác minh.
- Không thông báo kết quả xác minh cho người được thi hành án: Sau hai
lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện THA thì cơ quan
THADS phải thông báo bằng văn bản cho người được THA về kết quả xác
minh.
- Văn bản ủy quyền xác minh sơ sài, không đôn đốc khi có ủy quyền xác
minh: Nhiều việc Chấp hành viên ủy quyền cho cơ quan THADS nơi người phải
THA có tài sản, cư trú, làm việc hoặc có trụ sở để xác minh điều kiện THA,
6
song văn bản uỷ quyền sơ sài, không nêu rõ những vấn đề cần xác minh nên kết
quả xác minh không đầy đủ, thiếu khách quan. Thêm nữa, Chấp hành viên
không đôn đốc khi có yêu cầu xác minh đối với việc xác minh tài sản là bất
động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu.
- Không xác minh ở cơ quan chức năng đối với tài sản phải đăng ký quyền
sở hữu: Chấp hành viên khi xác minh điều kiện THA thì việc xác minh không cụ
thể tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để THA; đối với tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu, sử dụng hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm thì không xác minh tại
cơ quan có chức năng đăng ký tài sản, giao dịch đó. Nhiều trường hợp tài sản
THA là vật đặc dụng nhưng Chấp hành viên không yêu cầu cơ quan chuyên môn
hoặc mời, thuê chuyên gia để làm rõ các nội dung cần xác minh. Việc xác minh
đối với tài sản thuộc diện phải đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản thì
tùy từng trường hợp cụ thể mà Chấp hành viên căn cứ vào một trong các giấy tờ:
Hợp đồng mua bán, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc tặng cho, giấy chứng nhận
về quyền sở hữu, sử dụng tài sản.
- Biên bản xác minh ghi không đầy đủ: Khi xác minh người phải THA là cơ
quan, tổ chức, Chấp hành viên không trực tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý
vốn, tài sản; xác minh tại cơ quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý, bảo
quản, lưu giữ thông tin về tài sản, tài khoản của người phải THA; Biên bản xác
minh không có xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc Công an cấp xã hoặc cơ
quan, tổ chức, cá nhân nơi tiến hành xác minh. Các biên bản xác minh điều kiện
THA do các Chấp hành viên lập không xác minh sơ bộ giá trị tài sản trước khi
tiến hành thủ tục cưỡng chế kê biên tài sản.
Vi phạm của Chấp hành viên trong xác minh điều kiện THA thường thể
hiện: Xác minh không rõ hiện trạng tài sản của người phải THA hoặc xác minh
về tài sản chung, tài sản đang có tranh chấp không chi tiết, không rõ ràng. Một
số việc THA, mặc dù Chấp hành viên đã tiến hành các tác nghiệp cần thiết và
đúng hướng nhằm tổ chức thi hành án kịp thời, đúng pháp luật song việc thông
7
báo, xác minh về THA thực hiện chưa đầy đủ khiến việc thi hành án bị kéo dài
hoặc bị đương sự khiếu nại, tố cáo.
- Chưa xác minh điều kiện thi hành án: Nhiều Chấp hành viên chưa thực
hiện việc xác minh điều kiện THA theo quy định, từ đó ra các quyết định về
THA không đủ căn cứ.
- Không tiến hành xác minh lại: Nhiều trường hợp Chấp hành viên không
xác minh lại khi kết quả xác minh của Chấp hành viên và người được THA khác
nhau hoặc có kháng nghị của Viện kiểm sát. Hoặc có tiến hành xác minh lại
nhưng không đúng thời hạn (quá 05 ngày làm việc) kể từ ngày nhận được kết
quả xác minh do đương sự cung cấp hoặc nhận được kháng nghị của Viện kiểm
sát.
- Tiếp nhận thông tin không đầy đủ nhưng không phát hiện ra: Nhiều thông
tin do cơ quan, tổ chức, công chức tư pháp - hộ tịch, địa chính, xây dựng, đô thị
và môi trường, cán bộ, công chức cấp xã khác và cá nhân có liên quan cung cấp
nội dung không đầy đủ, thiếu trung thực nhưng Chấp hành viên không phát hiện
để yêu cầu cung cấp bổ sung; bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng
khác, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo
đảm, công chứng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ thông tin
hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải THA khi nhận được văn bản yêu
cầu của Chấp hành viên, đối với thông tin về tài khoản thì không cung cấp kịp
thời.
- Từ chối cung cấp thông tin nhưng không có văn bản trả lời cho cơ quan
Thi hành án dân sự: Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin
hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải THA không cung cấp thông tin
kịp thời khi người được THA hoặc người đại diện theo ủy quyền của người được
THA có yêu cầu. Nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối cung cấp
nhưng không có văn bản trả lời và nêu rõ lý do cho cơ quan THADS.
8
- Không phát hiện việc người phải THA kê khai thiếu trung thực: Khi tiến
hành xác minh người phải THA không kê khai trung thực, không cung cấp đầy
đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện THA; không nêu rõ loại, số lượng
tiền, tài sản hoặc quyền tài sản; tiền mặt, tiền trong tài khoản, tiền đang cho vay,
mượn; giá trị ước tính và tình trạng của từng loại tài sản; mức thu nhập định kỳ,
không định kỳ, nơi trả thu nhập; địa chỉ, nơi cư trú của người chưa thành niên
được giao cho người khác nuôi dưỡng; khả năng và điều kiện thực hiện nghĩa vụ
THA nhưng Chấp hành viên không phát hiện.
- Không xác minh khi người được thi hành án chết: Đối với trường hợp
đình chỉ THA do người được THA chết mà không có người thừa kế thì phải xác
minh qua chính quyền địa phương, cơ quan quản lý hộ khẩu, nơi cư trú hoặc nơi
cư trú cuối cùng của người được THA. Kết quả xác minh thông báo công khai
trên phương tiện thông tin đại chúng ở Trung ương để người có quyền, nghĩa vụ
liên quan biết và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Hết thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày thông báo công khai hợp lệ mà không có người khiếu nại thì được coi
là có căn cứ đình chỉ THA.
III.
Những hạn chế, bất cập của pháp luật về xác minh điều
kiện thi hành án và kiến nghị hoàn thiện
1. Về chủ thể xác minh điều kiện thi hành án
Việc quy định người được THA có trách nhiệm XMĐKTHA của người
phải THA thì khi thực hiện sẽ gặp rất nhiều khó khăn, bất cập:
Thứ nhất, việc xác minh của người được thi hành án là không đủ cơ sở để
Chấp hành viên quyết định thực hiện thủ tục tiếp theo. Mặc dù pháp luật trao
quyền xác minh cho người được THA nhưng pháp luật lại có quy định về việc
xác minh lại khi Chấp hành viên thấy cần thiết phải xác minh lại. Như vậy, trách
nhiệm chính vẫn thuộc Chấp hành viên và sẽ không thể dễ dàng công nhận kết
quả xác minh của người được THA để tổ chức THA.
9
Thứ hai, về am hiểu pháp luật của đại bộ phận người dân nước ta còn hạn
chế. Bên cạnh đó, cơ quan THADS ở nước ta chưa có một tổ chức chuyên
nghiệp để giúp người dân thực hiện công việc này. Do vậy, kết quả xác minh nếu
có cũng chưa đủ cơ sở pháp lý để Chấp hành viên công nhận và thi hành.
Thứ ba, việc minh bạch tài sản ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập. Thực
tiễn cho thấy, ngay cả khi Chấp hành viên thực hiện việc XMĐKTHA cũng gặp
không ít khó khăn. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin thường từ chối
cung cấp với nhiều lý do và việc từ chối khó để quy trách nhiệm. Như vậy,
người được THA tiến hành XMĐKTHA sẽ gặp khó khăn nhiều hơn.
Vì vậy, vần sửa đổi quy định của pháp luật theo hướng mở hơn so với quy
định hiện hành, tức là người được THAcó quyền XMĐKTHA nhưng không phải
mang tính bắt buộc. Người được THA có quyền yêu cầu Chấp hành viên
XMĐKTHA khi cần thiết.
2. Về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xác minh
điều kiện thi hành án
Trong thực tiễn công tác THADS, việc phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức,
cá nhân nắm giữ thông tin về tài sản, điều kiện THA của người phải THA với
Chấp hành viên, cơ quan THADS và với người được THA khi XMĐKTHA vẫn
tồn tại những hạn chế, bất cập ảnh hưởng đến tiến độ hiệu quả giải quyết việc
THA của Chấp hành viên, cơ quan THA và ảnh hưởng đến việc XMĐKTHA.
Để giải quyết xong hoàn toàn một việc THADS phức tạp, Chấp hành viên phải
thực hiện nhiều thủ tục, liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau, từ việc thông
báo, tống đạt, các giấy tờ, quyết định THA, xác minh điều kiện nhân thân, tài
sản của các đương sự và áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế
THA. Chỉ một trong các khâu phối hợp thực hiện không tốt sẽ ảnh hưởng đến
tiến độ giải quyết THA, do vậy, Chấp hành viên, cơ quan THADS rất cần sự
phối hợp có trách nhiệm của các cơ quan hữu quan, các tổ chức đoàn thể trong
10
hệ thống chính trị để công tác THADS đem lại hiệu quả cao hơn nữa, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ và sự mong đợi.
Để tránh tình trạng đùn đẩy, trốn tránh trách nhiệm trong việc phối hợp,
nhằm giúp cho hoạt động THADS đạt được hiệu quả, đề nghị bổ sung quy định
trong Luật THADS và Bộ luật hình sự trách nhiệm và chế tài đối với các cơ
quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản
của người phải THA mà không cung cấp thông tin khi có yêu cầu và cũng không
có văn bản trả lời và nêu rõ lý do từ chối cung cấp thông tin. Tuy nhiên, trong
thực tiễn để xử phạt hành vi này quả thực không dễ dàng bởi nó sẽ làm ảnh
hưởng đến mối quan hệ phối hợp trong công tác THADS. Vì vậy, việc cung cấp
thông tin vẫn chủ yếu phụ thuộc vào nhận thức, mức độ tự nguyện của cơ quan
nắm giữ thông tin.
3. Về ủy quyền xác minh điều kiện thi hành án
Về ủy quyền xác minh điều kiện thi hành án tại Khoản 2 Điều 9 Nghị định
62/2015/ NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
thi hành án dân sự đã bổ sung quy định về ủy quyền xác minh, nhưng chưa quy
định rõ việc xử lý trong trường hợp nếu bên nhận ủy quyền không trả lời hoặc
trả lời quá thời hạn, dẫn đến việc chậm trễ trong tổ chức thi hành án.
Do đó, đề nghị sửa đổi theo hướng: Trong trường hợp ủy quyền xác minh,
nếu bên được ủy quyền không trả lời hoặc trả lời quá thời hạn, dẫn đến gây hậu
quả thiệt hại cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì phải bồi
thường theo quyết định của người có thẩm quyền (nếu có).
4. Về vụ việc chưa có điều kiện thi hành đưa vào sổ theo dõi riêng
Về vụ việc chưa có điều kiện thi hành đưa vào sổ theo dõi riêng theo quy
định tại Khoản 5, 6 Điều 9 Nghị định 62/2015/NĐ-CP thì những trường hợp
người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành, sau hai lần xác minh vẫn
chưa có điều kiện thi hành thì Cơ quan THADS chuyển những vụ việc đó sang
sổ theo dõi riêng. Đối với loại việc chưa có điều kiện thi hành, cơ quan THADS
11
đã cố gắng thực hiện các trình tự, thủ tục luật định nhưng vẫn không có kết quả,
đã ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành nhưng vẫn phải thống kê,
báo cáo là vụ việc đang tổ chức thi hành hàng năm… dẫn đến tình trạng vừa
không phản ánh được đầy đủ, toàn diện về công tác THADS nhưng lại vừa gây
ra sự chồng chéo trong quản lý, khai thác số liệu. Điều này đồng thời cũng gây
khó khăn cho công tác kiểm sát THADS của Viện kiểm sát.
Do đó, cần quy định sửa đổi theo hướng: Đối với những vụ việc chưa có
điều kiện thi hành đã được chuyển sang sổ theo dõi riêng thì được thống kê
riêng theo quy định tại khoản 5 Điều 9 Nghị định số 62/2015. Đối với những vụ
việc đã ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành nhưng chưa đủ điều
kiện chuyển sang sổ theo dõi riêng thì cơ quan THADS tiếp tục xác minh tổ
chức thi hành và báo cáo thống kê theo quy định.
5. Về công khai thông tin của người phải thi hành án
Về công khai thông tin của người phải thi hành án tại khoản 1, Điều 11,
Nghị định 62/2015 quy định: “Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra
quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án …; gửi quyết định về việc chưa
có điều kiện thi hành án cho UBND cấp xã nơi xác minh để niêm yết công khai.
Thời gian niêm yết công khai quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án là
ba tháng, kể từ ngày niêm yết”.
Theo quy định trên, quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án là do
UBND cấp xã niêm yết. Tuy vậy, Nghị định chưa quy định UBND cấp xã sau
khi niêm yết phải gửi biên bản cho cơ quan THADS. Thực tế, nhiều UBND cấp
xã sau khi niêm yết không gửi biên bản niêm yết về cho cơ quan THADS gây
khó khăn cho việc xác định thời gian niêm yết công khai đối với việc chưa có
điều kiện thi hành án. Nhiều địa phương, Viện Kiểm sát cùng cấp trong quá trình
kiểm sát đã có kiến nghị đối với nội dung này.
Do đó, đề nghị sửa đổi quy định theo hướng: “Trong thời hạn năm ngày
làm việc, kể từ ngày ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án …; gửi
12
quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án cho UBND cấp xã nơi xác
minh để niêm yết công khai. Sau khi niêm yết, UBND cấp xã lập biên bản niêm
yết và gửi cho cơ quan THADS để lưu hồ sơ. Thời gian niêm yết công khai
quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án là ba tháng, kể từ ngày niêm
yết”.
6. Về thông báo thi hành án
Về thông báo thi hành án (Điều 12), theo khoản 2 Điều 12 Nghị định
62/2015 quy định: “Trường hợp đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan yêu cầu được nhận thông báo bằng điện tín, fax, email hoặc hình thức khác
thì việc thông báo trực tiếp có thể được thực hiện theo hình thức đó nếu không
gây trở ngại cho cơ quan thi hành án dân sự”.
Trên thực tế hiện nay, rất nhiều vụ việc, theo yêu cầu của đương sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Chấp hành viên đã thực hiện quy định trên và
thông báo việc thi hành án cho đương sự qua điện thoại. Tuy nhiên, điều luật
chưa quy định về việc thông báo này cần thể hiện bằng hình thức cụ thể như thế
nào để lưu hồ sơ thi hành án nên Chấp hành viên phải đối diện với tình trạng
một số trường hợp, sau khi nhận được thông báo, những đối tượng này lại khiếu
nại cho rằng họ chưa nhận được các văn bản đã được thông báo.
Do đó, đề nghị quy định sửa đổi theo hướng: “Trường hợp đương sự, người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu được nhận thông báo bằng điện tín, fax,
email hoặc hình thức khác thì việc thông báo trực tiếp có thể được thực hiện
theo hình thức đó nếu không gây trở ngại cho cơ quan thi hành án dân sự. Chấp
hành viên tiến hành lập biên bản và giải thích cho người yêu cầu biết về việc
không tiến hành tiến hành thủ tục tống đạt văn bản hoặc sẽ sao lưu tài liệu thể
hiện việc đã thông báo để lưu hồ sơ và chi phí của việc sao lưu do người yêu cầu
chịu”.
13
C. KẾT LUẬN
Qua trình bày ở trên, có thể nói XMĐKTHA là một thủ tục quan trọng,
quyết định đến kết quả, thành công của các hoạt động tiếp theo của toàn bộ quy
trình, thủ tục THA, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác THA,
giảm bớt áp lực đối với cơ quan THADS, nâng cao ý thức của người dân trong
các giao dịch dân sự, tránh trường hợp ỷ lại, phó mặc cho cơ quan THADS.
Thực tế áp dụng các quy định của Luật THADS về XMĐKTHA cho thấy,
các quy định này phần nào đã đáp ứng được tinh thần cải cách tư pháp, tăng
cường trách nhiệm của các bên đương sự, tạo sự độc lập, chủ động hơn cho các
cơ quan THADS, góp phần tháo gỡ kịp thời những tồn tại, vướng mắc trong
công tác THADS. Tuy nhiên, các quy định của Luật THADS chủ yếu mới chỉ
tháo gỡ những bức xúc, bất cập về mô hình tổ chức THA, cơ cấu cán bộ THA,
cơ chế quản lý THA địa phương còn nhiều vấn đề vướng mắc về XMĐKTHA
vẫn chưa được giải quyết.
Do vậy, việc nghiên cứu nhận thức chung và các quy định pháp luật về
XMĐKTHA, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật là một vấn đề có ý
nghĩa to lớn trong thực tiễn hiện nay ở nước ta. Hơn thế nữa, để phát huy tối đa
vai trò của Viện kiểm sát khi thực hiện công tác kiểm sát THADS nói chung và
công tác kiểm sát việc XMĐKTHA nói riêng, các Kiểm sát viên cần liên tục cập
nhật, nâng cao kiến thức pháp luật cũng như trau dồi thêm hiểu biết về xã hội
của bản thân. Có như vậy mới có thể góp phần bảo vệ pháp luật được thực hiện
nghiêm chỉnh và thống nhất, tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân
thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình.
14
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình kiểm sát thi hành án dân
sự, Hà Nội, 2018.
2. Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi bổ sung 2014), Nxb Lao Động,
2015.
3. Nghị định 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ, Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự.
4. Đỗ Văn Kha, Phó Vụ trưởng Vụ kiểm sát thi hành án dân sự (Vụ 11),
VKSND tối cao, Kinh nghiệm khi kiểm sát việc xác minh điều kiện thi
hành án dân sự, TCKS số 18/2017.
5. Đinh Thanh Hương, Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án dân sự,
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013.
6. Thái Trung, Qua ba năm thực hiện Nghị định số 62/2015/NĐ-CP: Nhận
diện một số khó khăn vướng mắc, Báo Nhân dân điện tử, 20/12/2018.
7. Websites:
Thuật ngữ viết tắt trong bài
THADS: Thi hành án dân sự
THA: Thi hành án
XMĐKTHA: Xác minh điều kiện thi hành án
15
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU........................................................................................................1
B. NỘI DUNG....................................................................................................2
I. Những vấn đề lý luận về xác minh điều kiện thi hành án......................2
1. Khái niệm xác minh điều kiện thi hành án...........................................2
2. Đặc điểm của xác minh điều kiện thi hành án.....................................2
3. Ý nghĩa của xác minh điều kiện thi hành án dân sự............................4
II.
Hoạt động của Kiểm sát viên khi kiểm sát việc xác minh điều kiện
thi hành án dân sự............................................................................................4
1. Kỹ năng kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án.......................4
2. Những vi phạm thường gặp khi kiểm sát việc xác minh điều kiện thi
hành án...........................................................................................................6
III. Những hạn chế, bất cập của pháp luật về xác minh điều kiện thi
hành án và kiến nghị hoàn thiện.....................................................................9
1. Về chủ thể xác minh điều kiện thi hành án..........................................9
2. Về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xác minh
điều kiện thi hành án..................................................................................10
3. Về ủy quyền xác minh điều kiện thi hành án.....................................11
4. Về vụ việc chưa có điều kiện thi hành đưa vào sổ theo dõi riêng.....11
5. Về công khai thông tin của người phải thi hành án...........................12
6. Về thông báo thi hành án.....................................................................12
C. KẾT LUẬN..................................................................................................14
Danh mục tài liệu tham khảo...........................................................................15
16