Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Quyền con người được sống trong môi trường trong lành theo hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.58 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ TÚ LINH

QUYỀN CON NGƢỜI ĐƢỢC SỐNG TRONG MÔI TRƢỜNG
TRONG LÀNH THEO HIẾN PHÁP NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 2013

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 8380102

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hƣớng nghiên cứu

Người hướng dẫn khoa học : TS. Trần Thái Dƣơng

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh sự
nỗ lực, cố gắng của bản thân còn có sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô. Em
xin chân thành tỏ lòng biết ơn đến Thầy - TS. Trần Thái Dương, người luôn
hết lòng hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Em cũng xin bày tỏ
lòng biết ơn đến toàn thể các thầy cô trong Khoa Pháp luật Hành chính - Nhà


nước và Khoa Đào tạo Sau đại học Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình
truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
cho em trong suốt quá trình học tập nghiên cứu cho đến khi thực hiện đề tài
luận văn.
Học viên thực hiện

Vũ Tú Linh


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Nội dung trong luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn trực
tiếp của TS.Trần Thái Dương. Các tài liệu tham khảo đã được trích dẫn và nêu
rõ nguồn trong phần danh mục tài liệu tham khảo.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận
văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Tú Linh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
QCN

Quyền con người

BVMT

Bảo vệ môi trường


UDHR

Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người

MTTL

Môi trường trong lành

UNCED

Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển

ONMT

Ô nhiễm môi trường


MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 3
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ......................................... 4
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn .............................................................. 5
5. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn ................... 6
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn .............................................. 6

7. Bố cục của luận văn ................................................................................... 7
CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI
ĐƢỢC SỐNG TRONG MÔI TRƢỜNG TRONG LÀNH .......................... 8
1.1.Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quyền con người được sống trong môi
trường trong lành............................................................................................ 8
1.1.1.Khái niệm quyền con người được sống trong môi trường trong lành 8
1.1.2. Đặc điểm quyền con người được sống trong môi trường trong lành17
1.1.3. Vai trò của quyền được sống trong môi trường trong lành ............ 19
1.2. Nội dung, các yếu tố và cơ chế bảo đảm quyền con người được sống
trong môi trường trong lành ......................................................................... 22
1.2.1. Nội dung quyền con người được sống trong môi trường trong lành22
1.2.2. Các yếu tố và cơ chế bảo đảm quyền con người được sống trong
môi trường trong lành ............................................................................... 31
1.3. Quyền con người được sống trong môi trường trong lành theo sự ghi
nhận của các văn bản pháp lí quốc tế và pháp luật một số quốc gia ........... 41


1.3.1. Quyền con người được sống trong môi trường trong lành theo sự
ghi nhận của các văn bản pháp lí quốc tế ................................................. 41
1.3.2. Quyền con người được sống trong môi trường trong lành theo sự
ghi nhận trong pháp luật một số quốc gia ................................................. 47
Kết luận Chương 1 ...................................................................................... 50
CHƢƠNG 2 QUYỀN CON NGƢỜI ĐƢỢC SỐNG TRONG MÔI
TRƢỜNG TRONG LÀNH THEO HIẾN PHÁP VIỆT NAM, NHẬN
XÉT VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................... 51
2.1. Quyền con người được sống trong môi trường trong lành theo Hiến
pháp Việt Nam ............................................................................................. 51
2.1.1. Quyền con người được sống trong môi trường trong lành theo các
Hiến pháp trước Hiến pháp năm 2013 ...................................................... 51
2.1.2 . Quyền con người được sống trong môi trường trong lành theo Hiến

pháp năm 2013 và các văn bản luật cụ thể hoá Hiến pháp ....................... 57
2.2. Nhận xét và kiến nghị về Quyền con người được sống trong môi
trường trong lành theo Hiến pháp Việt Nam ............................................... 67
2.2.1

Nhận xét về quyền con người được sống trong môi trường trong

lành theo Hiến pháp Việt Nam ................................................................. 67
2.2.2 Kiến nghị về bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường
trong lành theo Hiến pháp năm 2013 ........................................................ 75
Kết luận chương 2 ....................................................................................... 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 85


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, khi điều kiện sống của con người ngày càng được cải thiện,
thì nhu cầu về cuộc sống cũng ngày một cao hơn, không chỉ là ăn no mặc ấm,
mà còn đặt ra nhiều yêu cầu khác như chất lượng sống đảm bảo, môi trường
sống phải trong sạch về không khí, đất, nước… Ai cũng muốn được sống
trong một môi trường tốt cho sức khỏe, sự phát triển bền vững cho những thế
hệ mai sau. Đây đồng thời cũng là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta luôn
hướng tới, đề ra những đường lối chính sách, văn bản pháp luật để thực thi và
bảo đảm một môi trường trong lành (MTTL) cho con người. Tuy nhiên hiện
nay, môi trường với những vấn đề như sự nóng lên của trái đất, băng tan, hiệu
ứng nhà kính, ô nhiễm môi trường (ONMT) đang là vấn đề ảnh hưởng trực
tiếp đến sức khỏe và cuộc sống của con người.

Ở Việt Nam hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, thu hút đầu tư một mặt tạo ra nhiều cơ hội hơn cho người lao động, tuy
nhiên kéo theo đó là sự xuống cấp nghiêm trọng của môi trường. Môi trường
sống bị xâm hại là biểu hiện trực tiếp của việc QCN về môi trường đang bị vi
phạm. Hiến pháp 2013 khẳng định việc khuyến khích mọi hoạt động BVMT,
phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, đồng thời thể hiện chủ
trương áp dụng chế tài nghiêm khắc đối với các tổ chức, cá nhân gây ONMT,
làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên, suy giảm đa dạng sinh học, nhằm đảm
bảo sự phát triển bền vững của đất nước ở hiện tại và tương lai, BVMT, bảo
tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, phòng chống thiên tai và ứng phó với vấn
đề biến đổi khí hậu. Như vậy, theo Hiến pháp 2013, quyền được sống trong
MTTL phải được xem là một trong các nguyên tắc trụ cột và cơ bản của pháp
luật môi trường Việt Nam. Tuy nhiên, nội dung, phạm vi của quyền này cũng


2

như việc thực thi quyền trên thực tế như thế nào để đạt được mục đích cải
thiện môi trường sống trong lành cho tất cả mọi người lại là vấn đề khá mới
mẻ. Trong bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lời bất hủ trong bản tuyên ngôn
độc lập của nước Mỹ năm 1776: ―Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc". Quyền được sống trong MTTL chính là biểu hiện sinh động của quyền
được sống và quyền mưu cầu hạnh phúc. Tuy nhiên, ngày nay hơn bao giờ hết
vấn đề bảo vệ MTTL đang bị đe doạ và đứng trước những nguy cơ, hiểm hoạ
khó lường.Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng ô nhiễm,
suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu là do sự tác động của chính bàn tay
con người. Vấn đề môi trường hiện đang trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống,

sự tồn vong và phát triển của con người, tác động đến QCN được hưởng thụ
một môi trường trong sạch, an toàn và hoà hợp với thiên nhiên.
Xuất phát từ sự nhìn nhận chung đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề ―Quyền
con người được sống trong môi trường trong lành theo Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013‖ làm đề tài luận văn thạc sỹ luật
học, chuyên ngành luật hiến pháp và luật hành chính với mong muốn được
đóng góp một phần công sức của mình vào nỗ lực chung của giới nghiên cứu
khoa học pháp lí nhằm nâng cao nhận thức về QCN được sống trong MTTL
theo quy định của Hiến pháp, phục vụ xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, tuân thủ, thi hành nghiêm
các quy định của pháp luật để bảo đảm tốt hơn cho QCN được sống trong
MTTL ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Môi trường và QCN là vấn đề không mới và đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm với những công trình nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, hầu hết các đề tài khoa học, sách chuyên khảo, giáo trình, luận án,
luận văn, khóa luận tốt nghiệp, các bài báo khoa học chủ yếu tập trung nghiên
cứu về pháp luật bảo vệ môi trường. Qua khảo sát tình hình nghiên cứu có thể
thấy rằng, vấn đề QCN được sống trong MTTL vẫn còn là vấn đề còn khá
mới mẻ ở Việt Nam. Đến nay, chỉ có một số ít luận án, luận văn, bài viết,
tham luậnkhoa học, tài liệu tập huấn tại một số hội thảo khoa học, tài liệu
chung đề cập vấn đề này. Trong đó có thể kể đến những công trình tiêu biểu
sau đây:
Luận án, luận văn:
- QCN được sống trong MTTL ở Việt Nam, Phạm Thị Tính, Luận án
Tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Khoa

học xã hội, 2015
- QCN về môi trường và việc đảm bảo thực hiện ở Việt Nam, Dương
Thị Thanh Hà, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Khoa
Luật, 2014.
- Bảo đảm quyền được sống trong MTTL theo Hiến pháp 2013, Nguyễn
Việt Hải, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Khoa luật,
2016.
Về các bài báo, tạp chí:
- Mấy góp ý về quyền được sống trong MTTL trong dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992, ThS. Bùi Đức Hiển, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
Viện Nhà nước và Pháp luật, số 6/2013, tr.12 - 18.
- Tiếp cận quyền trong BVMT, TS. Nguyễn Đức Thùy chủ biên, Tài
liệu tập huấn của IUCN Việt Nam, Hà Nội-2012


4

.- Môi trường với QCN và QCN trong BVMT ở Việt Nam, ThS. Phạm
Thị Tính, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 172, tr.18 - 25.
-

Quyền được sống trong môi trường trong lành theo Hiến Pháp và các

quyền được sống trong môi trường hoàn thiện, thực thi pháp luật môi trường,
ThS Nguyễn Đức Long, Tạp chí Luật học, số 02/2014.
Những công trình nêu trên đã đạt được những kết quả quan trọng, cung
cấp những tri thức lí luận và thực tiễn cơ bản giúp cho việc tiếp tục nghiên
cứu đề này luận văn. Tuy nhiên, những công trình trên thường nghiên cứu
riêng rẽ các vấn đề liên quan đến bảo đảm QCN được sống trong MTTL, hoặc
tiếp cận vấn đề QCN được sống trong MTTL từ góc độ pháp luật BVMT,

chưa tiếp cận vấn đề từ góc độ luật hiến pháp, trên cơ sở vai trò của hiến pháp
trong việc ghi nhận, bảo đảm QCN được sống trong MTTL.
Vì vậy, việc nghiên cứu về QCN được sống trong MTTL theo Hiến
pháp và việc bảo đảm thực hiện quyền này ở Việt Nam cũng là một đề tài
mang tính mới về nội dung, cách tiếp cận vấn đề và có ý nghĩa nhất định cả về
lý luận và thực tiễn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Các vấn đề lý luận về quyền được sống trong MTTL, thực trạng thực
thi quyền nhằm bảo đảm quyền Hiến định này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu các quy định của hiến pháp, pháp luật, các cam
kết chính trị, điều ước quốc tế liên quan đến bảo vệ QCN trong lĩnh vực môi
trường, các quan điểm chính trị, cơ chế, luật pháp quốc gia, các chương trình
mục tiêu quốc gia liên quan đến bảo vệ QCN trong lĩnh vực môi trường và
các điều kiện thực thi ở Việt Nam.


5

- Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại Việt Nam
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu chủ yếu trong khoảng thời gian từ khi
Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực (từ ngày 01/01/2014) đến nay
- Phạm vi vấn đề (nội dung), góc độ tiếp cận: Tiếp cận theo chuyên
ngành luật Hiến pháp, nghiên cứu các vấn đề lí luận về QCN được sống trong
MTTL, thực tiễn thi hành Hiến pháp về QCN được sống trong MTTL.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu góp phần nâng cao nhận thức về QCN được sống trong
MTTL theo ghi nhận của Hiến pháp năm 2013, đưa ra một số kiến nghị nhằm

bảo đảm QCN được sống trong MTTL đã được hiến định.
4.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn có các mục nhiệm vụ cụ thể sau
- Phân tích, luận giải để làm rõ những vấn đề lí luận cơ bản về QCN
được sống trong MTTL như: khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, các yếu
tố và cơ chế bảo đảm QCN được sống trong MTTL;
- Nghiên cứu khái quát về QCN được sống trong MTTL theo sự ghi
nhận của các văn bản pháp lí quốc tế và pháp luật một số quốc gia;
- Nghiên cứu quá trình hình thành QCN được sống trong MTTL theo
lịch sử lập hiến Việt Nam; sự ghi nhận QCN được sống trong MTTL theo
Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật cụ thể hoá Hiến pháp;
- Đưa ra nhận xét chung và các kiến nghị nhằm bảo đảm QCN được
sống trong MTTL đã được hiến định.


6

5. Các phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay về
chính sách, pháp luật BVMT, bảo đảm quyền được sống trong MTTL, bám
sát tình hình thực tế và điều kiện tự nhiên, xã hội của Việt Nam.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, phương pháp thu thập thông tin, phân tích và tổng hợp, thống kê,
so sánh và điều tra tình hình thực tế để đánh giá đúng thực trạng và trên cơ sở
đó nêu ra các giải pháp về bảo đảm quyền được sống trong MTTL theo tinh
thần Hiến pháp 2013:
- Phương pháp phân tích, diễn dịch, quy nạp, tổng hợp được sử dụng
trong việc nghiên cứu các vấn đề lí luận về QCN được sống trong MTTL như
khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, các yếu tố và cơ chế bảo đảm QCN

được sống trong MTTL.
- Phương pháp khảo cứu, so sánh, khái quát hoá được sử dụng trong
việc nghiên cứu QCN được sống trong MTTL theo sự ghi nhận của các văn
bản pháp lí quốc tế và pháp luật một số quốc gia, quá trình hình thành, phát
triển của QCN được sống trong MTTL theo lịch sử lập hiến Việt Nam;
- Phương pháp luận giải, phân tích, đánh giá được sử dụng trong việc
nghiên cứu việc ghi nhận, bảo đảm QCN được sống trong MTTL trong Hiến
pháp năm 2013 và các đạo luật cụ thể hoá Hiến pháp, đưa ra nhận xét và kiến
nghị nhằm bảo đảm QCN được sống trong MTTL đã được hiến định ở Việt
Nam.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học


7

Ý nghĩa khoa học của luận văn là góp phần làm phong phú thêm nhận
thức cơ sở lí luận về quyền và bảo đảm thực thi QCN được sống trong MTTL
theo Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn là cung cấp các luận cứ khoa học giúp
cho thực tiễn hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm QCN
được sống trong MTTL ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho thực tiễn
hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học hoặc hành nghề luật, trong thực
tiễn hoạt động giám sát của nhân dân nhằm bảo đảm QCN được sống trong
MTTL.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, cấu trúc luận văn bao gồm
Chương 1: Những vấn đề chung về quyền được sống trong MTTL

Chương 2: QCN được sống trong MTTL theo Hiến pháp Việt Nam, nhận xét
và kiến nghị


8

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI ĐƢỢC SỐNG
TRONG MÔI TRƢỜNG TRONG LÀNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quyền con ngƣời đƣợc sống trong
môi trƣờng trong lành
1.1.1. Khái niệm quyền con người được sống trong môi trường trong lành
1.1.1.1. Khái niệm môi trường trong lành
Môi trường là khái niệm có nội hàm vô cùng rộng lớn và được sử dụng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong cuộc sống, người ta sử dụng nhiều khái
niệm môi trường như môi trường sư phạm, môi trường giáo dục, môi trường
xã hội… Môi trường theo định nghĩa thông thường ―là toàn bộ nói chung
những điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn
tại, phát triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy‖, 1 là ―sự kết
hợp toàn bộ hoàn cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự tồn tại,
phát triển của một thực thể hữu cơ‖.
Môi trường là nguồn cung cấp các yếu tố cơ bản cho hoạt động sống
của con người như: không khí, nước, protein và khoáng chất, đồng thời là nơi
tiếp nhận các sản phẩm từ quá trình trao đổi chất trực tiếp của con người. Bên
cạnh đó môi trường cũng cung cấp các nguồn lực kinh tế như đất, tài nguyên,
nước, năng lượng... để con người thực hiện các hoạt động sản xuất phục vụ
cuộc sống, đồng thời là nơi tiếp nhận các phế thải kinh tế.
Môi trường là nguồn thông tin và cảm hứng vô tận cho hoạt động nhận
thức và sáng tạo nghệ thuật, đồng thời cũng là đối tượng của hoạt động
nghiên cứu và thẩm mỹ của con người.


1

Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 1997, tr.618.


9

Môi trường được tạo thành bởi vô số các yếu tố vật chất. Trong số đó
những yếu tố vật chất tự nhiên như đất, nước, không khí, ánh sáng, âm thanh,
các hệ thực vật, hệ động vật có ý nghĩa đặc biệt và quan trọng hơn cả. Những
yếu tố này được coi là những thành phần cơ bản của môi trường. Chúng hình
thành và phát triển theo những quy luật tự nhiên vốn có và nằm ngoài khả
năng quyết định của con người. Con người chỉ có thể tác động tới chúng trong
chừng mực nhất định.
Môi trường tự nhiên là toàn bộ các điều kiện tự nhiên bao quanh con
người và các cơ thể sống khác, giữa chúng có những mối quan hệ hữu cơ, tác
động qua lại gắn bó và ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới đời sống cũng
như sự phát triển kinh tế - xã hội. Cấu trúc của môi trường tự nhiên bao gồm:
đất, nước, không khí, hệ sinh thái động thực vật và những điều kiện tự nhiên
khác có ảnh hưởng tới đời sống con người. Môi trường tự nhiên có phạm vi
rộng, khi nghiên cứu về môi trường tự nhiên của con người trong phạm vi trái
đất, người ta dựa vào các thành phần để phân ra thành: môi trường đất, môi
trường nước, môi trường không khí và môi trường sinh vật. Môi trường xã hội
là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là những luật lệ, thể chế,
cam kết, quy định, ước định... ở các cấp khác nhau như: LHQ, Hiệp hội các
nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các
tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể... Môi trường xã hội định hướng hoạt động
của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận
lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật

khác nhưng cũng có thể gây cản trở cho sự phát triển của cá nhân hoặc cộng
đồng con người. Môi trường nhân tạo là toàn bộ các yếu tố do chính con
người tạo ra, bao quanh con người, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến
sự tồn tại và phát triển của con người như: làng mạc, các công trình văn hoá,
hệ thống sông ngòi… do con người tạo nên; là sự tương tác giữa con người


10

với con người trong đời sống và lao động sản xuất. Môi trường nhân tạo có
liên quan mật thiết gắn bó hữu cơ với môi trường tự nhiên, chịu sự tác động
của môi trường tự nhiên. Ba thành phần môi trường này cùng tồn tại, xen lẫn
nhau và tương tác chặt chẽ với nhau. Các thành phần môi trường luôn chuyển
hóa và diễn ra theo chu kỳ. Thông thường ở dạng cân bằng động. Sự cân bằng
này bảo đảm cho sự sống trên trái đất phát triển ổn định. Trong phạm vi
nghiên cứu của luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu về môi trường tự
nhiên, do đó, thuật ngữ môi trường sử dụng trong luận văn sẽ được hiểu là
môi trường tự nhiên.
Bên cạnh những yếu tố vật chất tự nhiên, môi trường còn bao gồm cả
những yếu tố nhân tạo. Những yếu tố này do con người tạo ra nhằm tác động
tới các yếu tố thiên nhiên để phục vụ cho như cầu của bản thân mình, như: hệ
thống đê điều, các công trình nghệ thuật, công trình văn hóa kiến trúc mà con
người từ thế hệ này sang thế hệ khác dựng nên.
Một MTTL, trong sạch là một môi trường đáp ứng được những tiêu chí
cơ bản về nguồn nước, không khí, đất đai… không bị ô nhiễm, suy thoái, gây
ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống của con người. Theo quy định tại khoản
8 Điều 1 Luật BVMT năm 2014: "ONMT là sự biến đổi của các thành phần
môi trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn
môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật". Trên thế giới,
ONMT được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi

trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khoẻ con người, đến sự phát
triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân ô
nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất
thải rắn) chứa hoá chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng
như nhiệt độ, bức xạ.


11

Tuy nhiên, môi trường bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng
(nước thải), cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu
đến con người, sinh vật và vật liệu.
Với những phân tích như trên, có thể rút ra được khái niệm về MTTL
như sau: MTTL là môi trường sạch, không bị ô nhiễm, suy thoái, cung cấp
điều kiện để con người và sinh vật sống khoẻ mạnh và hài hoà với thiên
nhiên. Hay nói cách khác đó là môi trường đáp ứng được các tiêu chuẩn môi
trường theo quy định của pháp luật. Theo khoản 6 Điều 3 Luật BVMT 2014
thì ―Tiêu chuẩn môi trường là mức giới hạn của các thông số về chất lượng
môi trường xung quanh, hàm lượng của các chất gây ô nhiễm có trong chất
thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được các cơ quan nhà nước và các tổ
chức công bố dưới dạng văn bản tự nguyện áp dụng để BVMT”. Như vậy,
MTTL theo nguyên tắc đảm bảo QCN được sống trong MTTL được hiểu là
môi trường không bị ô nhiễm, đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường theo quy
định của pháp luật. Có thể thấy, Hiến pháp một mặt ghi nhận quyền của con
người được sống trong MTTL, nhưng cùng với đó đã tạo ra một nguyên tắc
có tính hiến định cho toàn bộ hệ thống pháp luật, trong đó có Luật BVMT.
1.1.1.2. Định nghĩa khái niệm quyền con người được sống trong môi trường
trong lành
Quyền con người (Human rights, Droits de L’Homme) là toàn bộ các
quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người do tính chất

nhân bản của nó, sinh ra từ bản chất con người chứ không phải được tạo ra
bởi pháp luật hiện hành. Đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả
xâm phạm do đấng tạo hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do
và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà bất kì chính
phủ nào cũng phải bảo vệ nó. QCN không những được nhìn nhận trên quan


12

điểm các quyền tự nhiên (natural rights) mà nó còn được nhìn nhận trên quan
điểm các quyền pháp lý (legal rights). Theo đó, ―QCN được hiểu là những
bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees ) có tác dụng bảo vệ các
cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (action) hoặc sự bỏ mặc
(omission) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do
cơ bản (fundamental freedoms) của con người‖.2
Ngày nay, QCN được thừa nhận là một khái niệm toàn cầu, được ghi
nhận trong tuyên bố của Hội nghị Thế giới về QCN tại Viên (Áo) năm 1993
và các nghị quyết của LHQ đã được thông qua nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày
ra đời của UDHR (năm 1998). Điểm bắt đầu của khái niệm QCN là khái niệm
về phẩm giá vốn có của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại như
được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về QCN và các công ước quốc tế về
QCN năm 1966. Các Công ước này cũng ghi nhận ý tưởng về con người tự do
trong việc hưởng quyền tự do khỏi sự sợ hãi, tự do làm điều mong muốn và
được hưởng các quyền bình đẳng và không thể chuyển nhượng, có nghĩa là
chúng được áp dụng ở khắp nơi và không thể lấy đi.
Năm 1977, một luật gia người Séc là Karel Vasak đã đưa ra ý tưởng
chia QCN thành ba ―thế hệ‖ :
+ Thế hệ thứ nhất, QCN hướng vào hai vấn đề chính là tự do cá nhân
và tham gia vào đời sống chính trị, bao gồm : quyền dân sự, chính trị, quyền
tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do báo chí, quyền được bầu

cử, ứng cử…
+ Thế hệ thứ hai, QCN được hiểu là quyền của nhóm, hay quyền tập
thể, quyền mà liên quan đến hạnh phúc của con người trong toàn xã hội.
Quyền thế hệ thứ hai được tập trung và thực hiện bởi tất cả mọi người, quyền
này bao gồm : quyền được học tập, quyền có việc làm, quyền an sinh xã hội,
2

Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hỏi đáp về QCN, Nxb CAND, Hà Nội,2010,


13

quyền có mức sống thích đáng … những quyền này đã được quy định trong
công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 và trong
UDHR năm 1948 (từ Điều 23 đến Điều 29).
+ Thế hệ thứ ba, bao gồm các quyền tiêu biểu như quyền tự quyết dân
tộc, quyền phát triển, quyền được an toàn, quyền được sống trong MTTL,
quyền với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, quyền được bình đẳng giữa các
thế hệ.
Tuy nhiên, cách phân loại trên cũng chỉ là tương đối, chỉ nhằm mục
đích nghiên cứu chứ không nhằm mục đích xếp loại ưu tiên hay tầm quan
trọng của các QCN. Các QCN có mối liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau và
không thể tách rời, phải được coi trọng như nhau và không có quyền nào quan
trọng hơn quyền nào. Các QCN có mối tương quan với nhau, quan hệ mật
thiết với nhau. Nếu một trong các quyền không được đảm bảo, điều đó cũng
đồng nghĩa là sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp dây ảnh hưởng
tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác.
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về QCN phụ thuộc vào sự
nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, định nghĩa
của Văn phòng Cao ủy LHQ về QCN thường được trích dẫn bởi các nhà

nghiên cứu.
Điều 1 Tuyên ngôn thế giới về QCN (UDHR) đã được LHQ thông qua
vào năm 1948 đề cập các trụ cột chính của hệ thống QCN, ví dụ: tự do, bình
đẳng và đoàn kết. Tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo cũng như tự do
quan điểm và tự do biểu đạt đều được QCN bảo vệ. Tương tự như vậy, QCN
cũng bảo đảm sự bình đẳng, chẳng hạn như bảo vệ quyền bình đẳng chống lại
mọi hình thức phân biệt đối xử trong hưởng thụ tất cả các QCN, bao gồm
quyền bình đẳng đầy đủ giữa nam và nữ. Sự đoàn kết thể hiện trong các


14

quyền về kinh tế - xã hội, như quyền được hưởng an ninh xã hội, được trả
công và có một mức sống đủ, quyền về sức khỏe và tiếp cận giáo dục…3
“Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền.
Họ cần đối xử với nhau trong tình bác ái”
(Điều 1 Tuyên ngôn thế giới về QCN năm 1948)4
Tóm lại, QCN là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan
của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thoả
thuận pháp lí quốc tế. Theo đó, các quyền cơ bản của con người bao gồm
quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc và quyền được bảo
vệ bình đẳng trước pháp luật.
Quyền được sống trong MTTL đó là muốn đề cập quyền của mọi người
trong thế hệ hiện tại và tương lai được sống trong MTTL, có lợi cho sức khỏe.
Quyền được sống trong MTTL đã được ghi nhận từ lâu trong nhiều văn kiện,
công ước, điều ước quốc tế như: Tuyên ngôn thế giới về QCN năm 1948; các
công ước quốc tế về quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội năm
1966; Tuyên bố Stockholm về các vấn đề môi trường năm 1972; Tuyên ngôn
về môi trường và phát triển năm 1992; tuyên bố Johanesburg về phát triển bền
vững năm 2002…

Có hai loại quan điểm về nguồn gốc QCN đối với môi trường. Những
học giả theo học thuyết về quyền tự nhiên cho rằng, QCN là những gì bẩm
sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng, do vậy QCN được sống
trong MTTL được hiểu đó là những quyền tự nhiên vốn có của con người,
mọi cá nhân đều được hưởng và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi
người, không có sự phân biệt đối xử với bất kỳ lí do nào và QCN đối với môi
3

Xem Wolfgang Benedek, Tìm hiểu QCN, tài liệu hướng dẫn về giáo dục QCN, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
2008, tr. 27.
4
Xem Pháp luật quốc tế và Việt Nam về môi trường với việc bảo vệ quyền con người, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
2015, tr.12


15

trường không thể được ban phát bởi bất cứ chính phủ nào. Quan điểm thứ hai
cho rằng, QCN đối với môi trường là các quyền pháp lý, do các nhà nước xác
định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật. Điều đó có nghĩa là
phạm vi, giới hạn và thời hạn hiệu lực của các quyền về môi trường phụ thuộc
vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền
thống văn hóa của các xã hội.5
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, quyền về môi trường là một trong những
quyền của con người đã được khẳng định trong Tuyên ngôn toàn thế giới về
QCN năm 1948 và một số văn kiện pháp luật ở một số quốc gia; Công ước về
các dân tộc và bộ lạc bản địa ở các quốc gia độc lập năm 1989; Hiến chương
châu Phi về QCN và quyền của các dân tộc và Nghị định thư San Lavador bổ
sung Hiến chương châu Mỹ về QCN; Công ước châu Âu về tiếp cận thông
tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp

về các vấn đề môi trường năm 1998 (Công ước Aarhus); Tuyên bố Stockholm
về các vấn đề về môi trường năm 1972; Tuyên ngôn về môi trường và phát
triển năm 1992… Đó là quyền tự nhiên của các cá nhân, là những gì bẩm
sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng, quyền đó không thể
chuyển nhượng hay bị tước đoạt bởi bất cứ chủ thể nào.
Ngày nay, sống trong MTTL là quyền quan trọng của con người. QCN
chứa đựng các giá trị chung được cả thế giới ghi nhận và bảo vệ, là quyền tự
nhiên và mang tính lịch sử. Cùng với sự phát triển của xã hội, các giá trị của
QCN ngày càng được mở rộng và bảo vệ. Ban đầu, QCN gồm những quyền
cơ bản như quyền được sống, quyền được tự do... sau đó, nhiều quyền quan
trọng khác cũng được coi là giá trị chung của nhân loại (QCN), trong đó có
quyền được sống trong MTTL.

5

Đại học Quốc Gia Hà Nội, Khoa Luật, Pháp luật quốc tế và Việt Nam về môi trường với việc bảo vệ QCN,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2015


16

Từ những phân tích trên có thể hiểu quyền được sống trong MTTL là
nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được sống
trong môi trường trong sạch, thuần khiết, bảo đảm chất lượng với hệ sinh
thái cân bằng, không bị ô nhiễm, suy thoái hay sự cố môi trường ảnh hưởng
xấu đến tính mạng, sức khỏe và hoạt động bình thường của con người, được
pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế ghi nhận và bảo vệ.”. Ngoài
ra, khái niệm QCN được sống trong MTTL còn được hiểu là tổng hợp các
quy định của Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo đảm thực hiện QCN được
sống trong MTTL. Quyền được sống trong MTTL là quyền tự nhiên của con

người, nó sẽ không được đảm bảo nếu không được ghi nhận bằng pháp luật,
thông qua pháp luật có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm thực hiện thì quyền này
mới trở thành các quy tắc xử sự bắt buộc chung đối với mọi chủ thể trong xã
hội, thay vì chỉ là các quy phạm đạo đức ý thức về môi trường của từng cá
nhân.
Với ý nghĩa này cho phép chúng ta nhận thức được vai trò của việc ghi
nhận quyền con người được sống trong MTTL trong hiến pháp: vừa ghi nhận
quyền đồng thời xác định nghĩa vụ của nhà nước và xã hội, vừa tạo ra một
nguyên tắc hiến định nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Từ góc độ luật quốc tế, QCN được sống trong MTTL còn là tổng hợp
các quy phạm luật quốc tế (toàn cầu và khu vực) ghi nhận, bảo đảm quyền
CN được sống trong MTTL đây là tiêu chuẩn của cộng đồng quốc tế ràng
buộc đối với các quốc gia là thành viên của các điều ước quốc tế. Pháp luật
quốc gia phải phù hợp với tiêu chuẩn pháp lí quốc tế như cam kết của các
quốc gia. Trong điều kiện hội nhập hiện nay, nhìn nhận QCN từ góc độ luật
quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng.


17

1.1.2. Đặc điểm quyền con người được sống trong môi trường trong
lành
Đặc điểm về chủ thể có quyền: Hiến pháp 2013 quy định ―Mọi người
có quyền được sống trong MTTL …‖. Quy định này cho thấy, chủ thể có
―quyền được sống trong MTTL‖ được xác định là mọi người. Điều đó có
nghĩa là không chỉ công dân Việt Nam mà còn tất cả những người khác
(người nước ngoài: người có quốc tịch nước khác và người không có quốc
tịch) ở Việt Nam đều ―có quyền được sống trong MTTL‖. Đó là quyền dành
cho mọi người (QCN), không phải chỉ là quyền công dân.

Đặc điểm về chủ thể có nghĩa vụ đảm bảo thực hiện: Hiến pháp 2013
không chỉ quy định quyền của mọi người ―được sống trong MTTL‖ mà đồng
thời còn quy định mọi người ―có nghĩa vụ BVMT‖. Để góp phần đảm bảo
MTTL thì việc quy định mọi người có nghĩa vụ BVMT là cần thiết vì phần
lớn môi trường sống bị hủy hoại là do hoạt động của con người như khai thác
tài nguyên thiên nhiên để sản xuất công nghiệp, đô thị hóa, chất thải công
nghiệp, chất thải y tế, chất thải sinh hoạt…
Tuy nhiên, Điều 43 (và Chương II Hiến pháp năm 2013 quy định về
QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân), không quy định về chủ thể có
nghĩa vụ đảm bảo cho mọi người thực hiện ―quyền được sống trong MTTL‖.
Vì vậy, câu hỏi được đặt ra ở đây là: chủ thể nào có nghĩa vụ đảm bảo cho
mọi người thực hiện ―quyền được sống trong MTTL.
Ngoài quy định nêu trên, Hiến pháp năm 2013 còn có các quy định
khác liên quan đến việc xác định chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện
quyền của mọi người được sống trong MTTL. Cụ thể là Hiến pháp năm 2013
còn quy định Nhà nước ―có chính sách BVMT; quản lý, sử dụng hiệu quả,
bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh


18

học; chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu‖,6 ―khuyến
khích mọi hoạt động BVMT, phát triển sử dụng năng lượng mới, năng lượng
tái tạo‖.

7

Ngoài Nhà nước, Hiến pháp 2013 còn quy định tổ chức, cá nhân

―gây ONMT, làm suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách

nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại‖.8
Đặc điểm về phạm vi nội dung quyền: Là một quyền thuộc thế hệ thứ
3, đặc điểm các quyền này là hướng đến từng nhóm xã hội có tính đặc thù như
: quyền tự quyết dân tộc, quyền phát triển, quyền được sống trong hòa bình,
quyền được sống trong MTTL… Việc thực hiện những quyền này đòi hỏi
xây dựng một cộng đồng gắn bó, đoàn kết, hướng tới hợp tác dài lâu. Trong
việc hưởng thụ các quyền, mỗi cá nhân đều không thể sống thiếu các yếu tố
của môi trường như nước sạch, bầu không khí hít thở, đất đai để cư trú và
lương thực để duy trì cuộc sống. Đây là nhu cầu cơ bản và thiết yếu của con
người, không thể bị hạn chế hay tước đoạt bởi bất kỳ chủ thể nào và vì bất cứ
lý do gì. Quyền con người được sống trong MTTL là một quyền có phạm vi
rộng lớn, bao hàm nhiều nội dung liên quan đến các lĩnh vực khác nhau.
Quyền được sống trong MTTL không chỉ đơn thuần có một nội dung mang
tính thụ động là được hưởng MTTL mà còn liên quan đến nhiều nội dung
mang tính chủ động tích cực của các thành viên trong cộng đồng xã hội,
chẳng hạn quyền tiếp cận thông tin về môi trường, quyền được tham gia xây
dựng chính sách bảo vệ môi trường, quyền khiếu nại, tố cáo các hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, quyền giám sát các hoạt động bảo vệ
môi trường, quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp về môi trường, quyền khởi
kiện đòi bồi thường thiệt hại về môi trường. Vì vậy có thể thấy, QCN được
sống trong MTTL vừa là quyền của một cá nhân, vừa là quyền của cả cộng
6

Khoản 1 Điều 63 Hiến pháp năm 2013
Khoản 2 Điều 63 Hiến pháp năm 2013
8
Khoản 3 Điều 63 Hiến pháp năm 2013
7



19

đồng xã hội, có sự liên kết liên ngành và đa ngành rộng lớn. Với tính chất vừa
là quyền đồng thời vừa là nghĩa vụ thực hiện, con người được hưởng quyền
sống trong MTTL, được Nhà nước đảm bảo các điều kiện tốt nhất về môi
trường. Tuy nhiên, việc được hưởng các quyền đó đồng thời gắn liền chặt chẽ
với nghĩa vụ bảo vệ môi trường trong sạch, trong lành. Mọi cá nhân hay tập
thể đều có nghĩa vụ bảo vệ, có trách nhiệm ngăn ngừa sự phá hoại môi trường
bởi các tác nhân xấu, sử dụng đúng mực các tài nguyên thiên nhiên môi
trường, nâng cao chất lượng môi trường vì cuộc sống của thế hiện hiện tại và
các thế hệ tương lai. Việc bảo vệ môi trường là một trong những công cụ thiết
yếu để bảo đản việc thực hiện QCN. QCN không thể được bảo đảm trong một
môi trường ô nhiễm và suy thoái, các quyền cơ bản cho cuộc sống con người
sẽ bị đe dọa bởi sự sói mòn đất đai, nạn phá hủy rừng bừa bãi, nguồn nước bị
ô nhiễm nặng nề… ONMT tác động trực tiếp đến việc hưởng thụ quyền của
tất cả mọi người. Mọi người đều phải chịu trách nhiệm đối với những hành
động của mình gây hại đến thiên nhiên. Con người cần phải tự ý thức được
trách nhiệm bảo vệ môi trường. Vì một MTTL là điều kiện sống của tất cả
mọi người, không phải của riêng ai, dó đó bảo vệ cho môi trường trong lành
sạch sẽ cũng chính là tự bảo vệ quyền hưởng thụ của chính mình.

1.1.3. Vai trò của quyền được sống trong môi trường trong lành
Lịch sử cho thấy, con người và môi trường có mối quan hệ mật thiết,
không thể tách rời. Cách đây 4 triệu năm, loài người sống dựa vào việc hái
lượm quả rừng, săn bắt thú để làm thức ăn, trú ẩn trong các hang động. Trải
qua quá trình tiến hóa, con người nhận thức được các quy luật của tự nhiên và
tiến hành các hoạt động cải tạo để phù hợp với nhu cầu phát triển của mình.
Chính vì thế, Ph. Ăngghen đã từng nhận định rằng: ―Chúng ta hoàn toàn
không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc



×